Luận văn Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi từ thực tiễn ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi từ thực tiễn ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_phap_luat_ve_bao_hiem_tien_gui_tu_thuc_tien_ngan_ha.pdf
Nội dung text: Luận văn Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi từ thực tiễn ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI MAI THU HƯƠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI TỪ THỰC TIỄN NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN SÀI GÒN – HÀ NỘI Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS TRẦN ĐÌNH HẢO HÀ NỘI, 2016
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ Luật học “Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi từ thực tiễn ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội ” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này./. Hà Nội, ngày 29 tháng 7 năm 2016 TÁC GIẢ LUẬN VĂN Mai Thu Hương
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI 6 1.1 Khái niệm, mục tiêu, vai trò, nội dung về bảo hiểm tiền gửi 6 1.2 Khái niệm pháp luật về bảo hiểm tiền gửi 14 1.3 Nội dung cơ bản của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi 15 1.4 Sự hình thành và phát triển của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam. 18 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN SÀI GÒN HÀ NỘI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ ĐẶT RA 23 2.1 Vài nét về ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội 23 2.2. Về nội dung bảo hiểm tiền gửi 27 2.3. Về giải quyết tranh chấp phát sinh từ bảo hiểm tiền gửi tại ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội 41 CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM 45 3.1. Yêu cầu, định hướng hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam 45 3.2. Các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam 46 3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam 63 KẾT LUẬN 67 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 69
- DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BHTG : Bảo hiểm tiền gửi BH : Bảo hiểm BHTGVN : Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam NH : Ngân hàng NHNN : Ngân hàng nhà nước NSNN : Ngân sách nhà nước NHTM : Ngân hàng thương mại HĐQT : Hội đồng quản trị TCTD : Tổ chức tín dụng TGĐ : Tổng Giám đốc PL : Pháp luật XHCN : Xã hội chủ nghĩa SHB : Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX về Chiến lược phát triển kinh tế -xã hội năm 2001 - 2010 đã nhấn mạnh: "Phải đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh của thị trường tài chính tiền tệ trong toàn bộ nền kinh tế", theo đó nhiệm vụ trước mắt là "Hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý, áp dụng đầy đủ hơn các thiết chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn trong kinh doanh tiền tệ- ngân hàng" 1,tr.197. Để thực hiện nhiệm vụ này, việc nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật về BHTG - một thiết chế mới hình thành ở Việt Nam về an toàn trong kinh doanh tiền tệ - ngân hàng là một việc làm hết sức cần thiết. Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động của ngân hàng đều phải tuân thủ theo quy luật thị trường, những rủi ro trong hoạt động ngân hàng là điều khó tránh khỏi, không chỉ đối với các nước chậm phát triển mà còn đối với tất cả các quốc gia trên thế giới. Để đối phó lại vấn đề này, Chính phủ ở nhiều quốc gia đã thực hiện các biện pháp hoặc hành động can thiệp nhằm đưa hệ thống ngân hàng hoạt động trở lại trạng thái ổn định và phát triển lành mạnh thông qua việc tăng cường các cơ chế phòng ngừa hữu hiệu. Do tính đặc thù của hoạt động kinh doanh tiền tệ- ngân hàng là kinh doanh chủ yếu bằng vốn của người khác, tức là bằng tiền đi vay để cho vay nên hậu quả của việc sụp đổ một ngân hàng không chỉ trong một ngân hàng riêng lẻ mà nó còn có thể tạo ra sụp đổ cả hệ thống ngân hàng và chính điều này lại tác động tiêu cực tới toàn bộ nền kinh tế quốc gia. Vì vậy, việc đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của các TCTD ở mọi quốc gia là vô cùng quan trọng, tạo tâm lý ổn định cho người gửi tiền và tránh được nguy cơ đổ vỡ ngân hàng do việc rút tiền ồ ạt tại các ngân hàng. Việt Nam là một nước có nền kinh tế chậm phát triển và đang từng bước chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN. Hệ thống NH Việt Nam cũng đang đứng trước những thách thức của quy luật thị trường đầy nghiệt ngã, rủi ro và phá sản trong hoạt động kinh doanh luôn đe dọa sự ổn định của từng NH nói riêng và cả hệ thống NH nói chung. Do vậy, vấn đề bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh tiền tệ - 1
- ngân hàng cũng là an toàn của cả nền kinh tế luôn luôn được coi là nhiệm vụ quan trọng trên cả góc độ kinh doanh lẫn góc độ quản lý nhà nước. Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc đảm bảo an toàn ngăn ngừa sự đổ vỡ hàng loạt TCTD, cũng như để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền,ngày 01/09/1999 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 89/1999/NĐ-CP về BHTG, là cơ sở pháp lý cho hoạt động bảo hiểm tiền gửi đầu tiên ở Việt Nam ra đời. Tiếp theo đó, ngày 9/11/1999 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 218/1999/QĐ-TTg về việc thành lập BHTGVN. Sau văn bản này là hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật về BHTG đã được ban hành để điều chỉnh hoạt BHTG. Như vậy, cùng với sự ra đời của hoạt động BHTG ở Việt Nam thì pháp luật về BHTG cũng được hình thành nhằm điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực BHTG. Tuy nhiên, vì đây là lĩnh vực hoàn toàn mới nên pháp luật về BHTG trong giai đoạn hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập: các quy định của pháp luật về BHTG chưa thống nhất, đồng bộ, chưa đầy đủ và không rõ ràng nên đã gây khó khăn cho việc áp dụng các quy định về BHTG vào thực tiễn. Điều này đặt ra yêu cầu phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện hệ thống pháp luật về BHTG cho thống nhất và đồng bộ, tạo môi trường pháp lý đầy đủ cho hoạt động BHTG ở Việt Nam đạt được hiệu quả, thực hiện được mục tiêu trọng tâm là đảm bảo sự ổn định cho cả hệ thống tài chính. Với những lý do trên đây, học viên đã chọn đề tài “Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi từ thực tiễn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn - Hà Nội” làm luận văn tốt nghiệp cao học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Liên quan đến BHTG đến nay đã có một số công trình nghiên cứu,báo cáo khoa học và một số bài báo tìm hiểu về hoạt động BHTG như: Luận án thạc sĩ kinh tế "Những giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam" của tác giả Đào Văn Tuấn. Luận án tiến sĩ kinh tế "Các giải pháp phát triển hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam" của tác giả Nguyễn Thị Kim Oanh. Đề tài khoa học cấp ngành "Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của BHTG ở Việt Nam" của 2
- Viện Khoa học nghiên cứu Ngân hàng. Luận văn Thạc sĩ kinh tế của Bùi Thu Hương về “Hoàn thiện hoạt động nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi Việt Nam trong thờikì hội nhập” được bảo vệ thành công tại Học viện Ngân hàng năm 2010. Luận văn Thạc sĩ kinh tế của Nguyễn Thị Hiển về “Hoàn thiện và nâng cao chất lượng hoạt động BHTG Việt Nam ” bảo vệ thành công tại Học viện Ngân hàng năm 2008 [25]. Cuốn Chuyên khảo “Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam” của TS. Lê Thị Thu Thuỷ [89] được ra đời năm 2008. Bài viết: “Mô hình BHTG hiện nay và những vấn đề quan tâm khi xây dựng Luật bảo hiểm tiền gửi” của TS.Đinh Dũng Sỹ [79] (Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội). Hay: “Bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền theo pháp luật về BHTG tại Việt Nam thực trạng và phương hướng hoàn thiện”, được đăng trên Thông tin BHTGVN, số 3, năm 2007 của GS.TSKH Đào Trí Úc [95]. Các công trình nghiên cứu đã được công bố cho thấy có nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật BHTG đã được giải quyết thấu đáo. Nhiều nội dung liên quan đến pháp luật BHTG cũng đã được đề cập và bàn luận. Kết quả nghiên cứu đó chính là tiền đề nhận thức quan trọng giúp học viên triển khai nghiên cứu đề tài này. Trong quá trình triển khai nghiên cứu, dựa trên những kết quả nghiên cứu đã có, học viên dự kiến sẽ tiếp tục làm sáng tỏ nhận thức lý luận về BHTG, đi sâu đánh giá tình hình áp dụng pháp luật về bảo hiểm tiền gửi từ thực tiễn Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội hiện nay và đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về BHTG ở Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu sáng tỏ những vấn đề lý luận tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ về BHTG. Trên cở sở đó đánh giá tình hình áp dùng pháp luật về BHTG tại các TCTD ở Việt Nam hiện nay và đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này. Để thực hiện được mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ của luận văn: Phân tích những vấn đề lý luận về BHTG và pháp luật BHTG, bao gồm phân tích khái niệm, đặc điểm bảo hiểm tiền gửi, pháp luật BHTG và những yếu tố tác động đến sự ra 3
- đời và phát triển của BHTG và pháp luật về BHTG. Đánh giá thực trạng pháp luật về BHTG ở Việt Nam cũng như chỉ ra một số hạn chế, vướng mắc trong quá trình thực thi pháp luật bảo hiểm tiền gửi. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, phân tích, đánh giá, luận văn đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm NH nói chung và bảo hiểm tiền gửi tại NH TMCP Sài Gòn – Hà Nội nói riêng hướng tới việc tăng cường hiệu quả của các NH các TCTD ở Việt Nam và làm sáng tỏ nhu cầu điều chỉnh của pháp luật đối với quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực BHTG. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Với lựa chọn nghiên cứu đề tài “Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi thực tiễn tại ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn” làm luận văn hướng tới đối tượng nghiên cứu bao gồm: Hệ thống cơ sở pháp lý và nghiên cứu liên quan tới quan hệ BHTG, pháp luật về BHTG và việc thực thi pháp luật BHTG tại các TCTD. Các quy định pháp luật Việt Nam về BHTG như: Bộ luật dân sự năm 2005, Luật các TCTD năm 2010, Luật Ngân hàng nhà nước năm 2010. Thực tiễn áp dụng pháp luật BHTG trong hệ thống các TCTD ở Việt Nam. Về phạm vi nghiên cứu của luận văn được giới hạn trong việc nghiên cứu các quy định của hệ thống văn bản pháp luật về BHTG ở Việt Nam. Các công trình khoa học khi nghiên cứu về hoạt động BHTG và pháp luật về BHTG, luận văn còn tham khảo các công trình khoa học trong và ngoài nước dưới giác độ kinh tế - tài chính và pháp lý. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử và tư tưởng Hồ Chí Minh làm phương pháp nghiên cứu đề tài, đồng thời dựa trên quan điểm của Đảng và nhà nướcta về quản lý trong lĩnh vực BHTG. Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, đối với từng nội dung cụ thể ở từng chương, luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học như: Tổng hợp, phân tích, logic, lịch sử, khảo sát, phỏng vấn, so sánh, thống kê. 4
- 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu tương đối toàn diện về BHTG như khái niệm và pháp luật, bản chất kinh tế, bản chất pháp lý, khía cạnh pháp lý của các mô hình hoạt động . Trên cơ sở đó, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về BHTG của Việt Nam hiện hành, chỉ ra những bất cập và phương hướng hoàn thiện pháp luật về BHTG ở Việt Nam. Các giải pháp được đưa ra trong luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu hoàn thiện các quy định pháp luật tiền gửi NH nói chung và năng cao hiệu quả trong BHTG ngân hàng nói riêng. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được trình bày trong 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiểm tiền gửi và pháp luật về bảo hiểm tiền gửi. Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo hiểm tiền gửi từ thực tiễn ở ngân hàng thương mại cổ phần Sài gòn – Hà Nội và những vấn đề pháp lý đặt ra. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam. 5
- CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI 1.1 Khái niệm, mục tiêu, vai trò, nội dung về bảo hiểm tiền gửi 1.1.1 Khái niệm về bảo hiểm tiền gửi Do nhu cầu bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền ngày càng gia tăng,cũng như để ổn định nền kinh tế quốc gia, các nhà quản lý về tài chính –NH trên thế giới đã kêu gọi mỗi quốc gia cần có một định nghĩa mang tính chất rõ ràng về BHTG, thông qua đó nhằm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền. Để tìm hiểu khái niệm BHTG, có thể xem xét quan điểm của một số chuyên gia hay trong pháp luật về bảo hiểm tiền gửi của một số nước. Theo tài liệu chuyên khảo “bảo hiểm tiền gửi và quản lý khủng hoảng" do Quỹ tiền tệ quốc tế phát hành của tác giả Carl Johan Lindgren và Gilian Garcia thì “BHTG được định nghĩa như một cơ chế có giới hạn nhưng chính thức cung cấp sự bảo đảm mang tính pháp lý cho các khoản gốc (và thường là cả lãi) của các khoản tiền gửi" [38, tr3]. Theo Pháp lệnh BHTG năm 1985 của Đài Loan thì thuật ngữ bảo hiểm tiền gửi được định nghĩa như sau: “Thuật ngữ bảo hiểm tiền gửi được sử dụng trong Pháp lệnh này, có nghĩa là một loại hình bảo hiểm áp dụng cho các loại tiền gửi và quỹ tín thác được liệt kê cụ thể tại điều 4 của Pháp lệnh này”. Như vậy, có thể khái quát BHTG là việc đảm bảo nghĩa vụ chi trả trong tương lai của tổ chức cho các khoản tiền gửi khi các TCTD tham gia BHTG gặp rủi ro dẫn đến mất khả năng thanh toán. Hay nói cụ thể hơn, BHTG là cam kết công khai của tổ chức bảo hiểm đối với tổ chức tham gia bảo hiểm về việc tổ chức sẽ trả tiền gửi bao gồm phần gốc và lãi cho người gửi tiền khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị chấm dứt hoạt động và không có khả năng thanh toán cho người gửi tiền. Cam kết công khai này được thể hiện dưới hình thức hợp đồng bảo hiểm giữa ba chủ thể: tổ chức BHTG, tổ chức huy động tiền gửi (tổ chức tham gia bảo hiểm) và người gửi tiền. 6
- 1.1.2 Mục tiêu của bảo hiểm tiền gửi Trên thực tế, mục tiêu cụ thể của mỗi mô hình BHTG có khác nhau nhưng tựu chung lại đều nhằm đạt được 4 mục tiêu sau: i) Bảo vệ quyền lợi của người gửi đặc biệt là những người gửi tiền nhỏ, đối tượng có hạn chế nhất định trong tiếp cận thông tin về điều hành và tình hình hoạt động của các tổ chức tài chính [46, tr.1]. ii) Góp phần đảm bảo cho hệ thống tài chính ổn định và tạo điều kiện cho các giao dịch tài chính có hiệu quả hơn bằng cách phòng tránh đổ vỡ NH. iii) Góp phần xây dựng một thị trường BHTG có tính cạnh tranh và bình đẳng cho các tổ chức tài chính có quy mô và trình độ phát triển khác nhau. iv) Xác định rõ trách nhiệm và quyền lợi của người gửi tiền, tổ chức bảo hiểm, Chính phủ và giảm thiểu rủi ro cho nền kinh tế trong trường hợp có NH đổ bể. Hay nói cách khác, mục đích của BHTG là nhằm cô lập các hoạt động xấu, các đổ vỡ trong hoạt động tài chính và NH nhằm bảovệ người đóng thuế và nhằm loại bỏ tình trạng thiếu minh bạch trong hoạt động kinh doanh tài chính và NH (42,tr.10). Người gửi tiền nhỏ mà BHTG đề cập và "giành" quan tâm nhất ở đây là tầng lớp dân cư có thu nhập thấp. Tầng lớp dân cư này có những hạn chế nhất định trong việc tiếp cận và phân tích thông tin về hoạt động của tổ chức huy động tiền gửi. Chẳng hạn, khi có một thông tin đồn đại xấu về NH nào đó thì họ có thể ồ ạt rút tất cả tiền gửi tại NH khi mà nhu cầu chi tiêu chủ quan chưa nhất thiết phải làm như vậy. Hiện tượng rút tiền ồ ạt vì một thông tin thất thiệt ở NH TMCP Á Châu tại Việt Nam trong tháng 10/2003 là một minh chứng cụ thể. Các hiện tượng đó nếu không được xử lý kịp thời có thể là nguyên nhân dẫn đến sự đổ vỡ NH hàng loạt và đây là một trong các nhiệm vụ chính mà hoạt động BHTG cần ngăn chặn. 1.1.3 Nội dung của bảo hiểm tiền gửi Hoạt động bảo hiểm tiền gửi được nhiều chủ thể tham gia thực hiện. Cụ thể: tổ chức thực hiện các hoạt động nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi, tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, người gửi tiền tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gủi được bảo hiểm, các cơ quan quản lý về tài chính, NH (như ngân hàng trung ương, Bộ Tài chính), 7
- các tổ chức giám sát tài chính trong mạng an toàn tài chính quốc gia. Trong đó, mỗi chủ thể có vị trí, vai trò và mục đích, thẩm quyền khác nhau. Bảo hiểm tiền gửi bao gồm các nhóm nội dung sau đây: Nhóm các hoạt động nhằm xác lập quan hệ BHTG: Đây là một trong những chuỗi hoạt động bảo hiểm tiền gửi, theo đó tổ chức bảo hiểm tiền gửi tiến hành các thủ tục để cấp giấy chứng nhận bảo hiểm tiền gửi hoặc giao kết hợp đồng bảo hiểm tiền gửi đối với tổ chức tham gia BHTG tùy theo việc tham gia BHTG được qui định là bắt buộc hay tự nguyện. Hoạt động này có ý nghĩa rất quan trọng đối với các chủ thể có liên quan và là căn cứ để tổ chức BHTG tiến hành các hoạt động bảo hiểm tiền gửi khác trong phạm vi quyền hạn được pháp luật quy định. Nhóm các hoạt động tạo lập, quản lý, sử dụng quỹ BHTG: Quỹ bảo hiểm tiền gửi được hình thành và gia tăng từ các nguồn khác nhau: có thể do ngân sách nhà nước đầu tư hoặc do các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đóng góp. Quỹ bảo hiểm tiền gửi được gia tăng bằng các cách thức như từ nguồn phí bảo hiểm tiền gửi được các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đóng theo quy định của pháp luật, từ các hoạt động đầu tư và do tích lũy. Quỹ bảo hiểm tiền gửi được sử dụng cho các hoạt động nghiệp vụ BHTG như trong các trường hợp chi trả bảo hiểm cho người gửi tiền được bảo hiểm khi tổ chức tham gia BHTG bị mất khả năng thanh toán và bị chấm dứt hoạt động. Mặt khác, quỹ BHTG còn được sử dụng cho các hoạt động hỗ trợ tài chính đối với các tổ chức tham gia BHTG gặp khó khăn về tài chính. Nhóm các hoạt động kiểm tra, giám sát chủ thể tham gia BHTG, cảnh báo rủi ro sớm đối với chủ thể tham gia bảo hiểm tiền gửi. Đây là một trong các hoạt động BHTG được tổ chức bảo hiển tiền gửi tiến hành trên cơ sở pháp luật nhằm phát hiện những rủi ro trong hoạt động của tổ chức tham gia BHTG. Từ đó, phân tích rủi ro và đưa ra những cảnh báo nhằm ngăn chặn hiện tượng một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị phá sản. Trong quá trình thực hiện các hoạt động kiểm tra, giám sát tổ chức tham gia BHTG, tổ chức bảo hiểm tiền gửi thường phải phối hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý, chủ thể giám sát khác về tài chính. Vì vậy, có thể nói 8
- rằng, hoạt động kiểm tra, giám sát của tổ chức BHTG là một trong các hoạt động quản lí rủi ro của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Nhóm các hoạt động liên quan đến việc tổ chức bảo hiểm tiền gửi tham gia vào quá trình xử lý tổ chức tham gia bảo hiểm bị chấm dứt hoạt động. Cụ thể, hoạt động tái cơ cấu tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, thu hồi tiền bảo hiểm đã chi trả cho người gửi tiền. Nhóm các hoạt động chấm dứt BHTG. Trên thực tế, khi xuất hiện sự kiện bảo hiểm tiền gửi, phù hợp quy định của pháp luật, quan hệ bảo hiểm tiền gửi bị chấm dứt giữa các bên. Tổ chức đó có thể thực hiện các hoạt động thu hồi giấy Chứng nhận BHTG hoặc các bên thực hiện chấm dứt hợp đồng bảo hiểm tiền gửi. Như vậy, hoạt động của nó bao gồm những nội dung khác nhau, là chuỗi của những hành vi của các chủ thể trong quan hệ BHTG, trong đó chủ yếu là những hoạt động của tổ chức BHTG. Tuy nhiên, căn cứ vào từng mô hình hoạt động BHTG mà PL về hoạt động này của mỗi quốc gia quy định, BHTG có thể được thực hiện đầy đủ các hoạt động trên (như ở mô hình hoạt động BHTG giảm thiểu rủi ro) hoặc chỉ thực hiện một số nội dung như đã trình bày ở trên (như ở mô hình hoạt động BHTG chuyên chi trả và ở mô hình hoạt động BHTG chi trả với quyền hạn mở rộng). 1.1.4 Vai trò của hoạt động bảo hiểm tiền gửi Hoạt động bảo hiểm tiền gửi là nhằm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền hoạt động bảo hiểm tiền gửi góp phần duy trì và nâng cao niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống NH. Vai trò này của hoạt động bảo hiểm tiền gửi nhằm bảo vệ họ trước những hậu quả của sự đổ vỡ các tổ chức tham gia BHTG. Bởi lẽ trong trường hợp tổ chức nhận tiền gửi mất khả năng thanh toán, quỹ bảo hiểm tiền gửi sẽ góp phần làm giảm bớt gánh nặng đối với người gửi tiền thông qua cơ chế chi trả toàn bộ hoặc một phần khoản tiền gửi của họ. Thông thường, người gửi tiền nhỏ có khó khăn trong việc nắm bắt thông tin về tổ chức nhận tiền gửi hơn [75]. Tiền gửi tại các NH và TCTD khác có thể thuộc sở hữu của tổ chức, cá nhân. Trường hợp các tổ chức nhận tiền gửi bị lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán có thể gây những thiệt hại 9
- nhất định cho người gửi tiền, đặc biệt là “người gửi tiền nhỏ”. Nếu tổ chức đó có “vấn đề”, người gửi tiền có thể “ồ ạt rút tiền gửi”. Nếu không xử lý kịp thời thì hiện tượng đó có thể lan rộng sang các TCTD khác. Do đó, tổ chức nhận tiền gửi tham gia BHTG có thể tránh được những hậu quả của hiện tượng người gửi tiền rút tiền gửi hàng loạt. Duy trì niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống NH mà còn bảo đảm an toàn cho cả hệ thống NH quốc gia. Hoạt động BHTG giảm thiểu rủi ro trong hoạt động NH, góp phần duy trì sự an toàn, ổn định của hệ thống tài chính quốc gia. Hệ thống NH đóng vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế. Hệ thống NH quốc gia hoạt động thông suốt, an toàn và ổn định thì các nguồn lực tài chính được luân chuyển nhanh chóng và sử dụng có hiệu quả. Ngược lại, trường hợp một hay một số NH “có vấn đề”, có thể ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống NH quốc gia và nền tài chính nói chung. Các chủ thể trong hệ thống giám sát tài chính, NH thực hiện theo những qui tắc, chỉ tiêu giám sát hiện đại, trong đó có hoạt động giám sát từ xa [98;(1)]. Trên cơ sở đó, tổ chức tham gia BHTG và đưa ra cảnh báo sớm về rủi ro đó để tổ chức tham gia BHTG áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Như vậy, có thể giúp ngăn chặn hoặc khắc phục tình trạng đổ vỡ NH, góp phần duy trì sự ổn định đối với hoạt động NH và hoạt động tài chính nói riêng. Hoạt động bảo hiểm tiền gửi thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức nhận tiền gửi, tạo điều kiện phát triển trong lĩnh vực tài chính. Hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tài chính luôn luôn có sự cạnh tranh, thậm chí cạnh tranh khốc liệt. Để thu hút tiền gửi của cá nhân, tổ chức trong XH, các tổ chức nhận tiền gửi thường đa dạng hóa, hiện đại hóa các dịch vụ tín dụng. Giữa các tổ chức nhận tiền gửi với qui mô lớn nhỏ khác nhau bao giờ cũng có “độ chênh lệch” về khả năng thu hút KH. Khi không có hoạt động BHTG, người gửi tiền thường có xu hướng chọn các tổ chức nhận tiền gửi có uy tín, được biết đến rộng rãi, có “bề dày kinh nghiệm” trong lĩnh vực tín dụng. Vì vậy, hoạt động bảo hiểm sẽ tạo điều kiện cho các tổ chức nhận tiền gửi nhỏ tiếp cận được với các nhóm KH khác nhau. Đối với các tổ chức nhận tiền gửi mới đi vào hoạt động, vai trò này 10
- của hoạt động BHTG có ý nghĩa rất lớn. Các tổ chức nhận tiền gửi có quy mô nhỏ và mới hoạt động có điều kiện thuận lợi hơn trong triển khai các hoạt động tín dụng của mình, có khả năng cạnh tranh với các tổ chức nhận tiền gửi qui mô lớn, góp phần tạo sự phát triển trong lĩnh vực tài chính - NH. Hoạt động bảo hiểm tiền gửi góp phần tái cấu trúc ngân hàng Trong nền KTTT, các tổ chức nhận tiền gửi, đặc biệt là các NH đứng trước cuộc cạnh tranh rất khốc liệt. Có NH đứng vững và phát triển mạnh. Ngược lại, có những NH bị đổ vỡ. Sự đào thải các NH “yếu, kém” là hiện tượng tất yếu. Tuy nhiên, sự “đổ vỡ” một hoặc một số NH có thể làm ảnh hưởng xấu đến cả hệ thống NH quốc gia. Do đó, cơ chế tiếp nhận và xử lý các NH “đổ vỡ” thông qua hoạt động nghiệp vụ BHTG sẽ góp phần tái cấu trúc các NH và tăng cường khả năng cạnh tranh của các NH trong nền kinh tế. 1.1.5 Phân biệt bảo hiểm tiền gửi với các loại hình bảo hiểm khác Bảo hiểm tiền gửi và các loại hình bảo hiểm thương mại khác bên cạnh những điểm giống nhau thì hoạt động BHTG có những điểm khác biệt, điều đó được thể hiện như sau: Về tính chất hoạt động: Cũng giống như các loại hình bảo hiểm thương mại khác, hoạt động BHTG mang tính chất chung của hoạt động bảo hiểm tức là dựa trên nguyên tắc lấy số đông bù số ít. Tuy nhiên, đây là một loại hình mang tính chất đặc thì vì BHTG là công cụ thực hiện chính sách công với vai trò cơ bản là bảo vệ người gửi tiền, góp phần đảm bảo sự phát triển an toàn và lành mạnh của hệ thống tài chính quốc gia. Tính đặc thù của BHTG so với các loại hình bảo hiểm thương mại khác được thể hiện ở các khía cạnh như cơ chế bảo hiểm, chủ thể tham gia bảo hiểm, đối tượng nộp phí, đối tượng được hưởng các quyền lợi bảo hiểm. Hình thức pháp lý tham gia: Tham gia BHTG là sự bắt buộc đối với tổ chức tham gia bảo hiểm, không thông qua hợp đồng bảo hiểm. Đây là sự khác biệt tương đối đặc trưng, còn ở các loại hình bảo hiểm thương mại khác là sự thỏa thuận giữa tổ chức bảo hiểm và người được bảo hiểm, phải thông qua hợp đồng bảo hiểm. Sở dĩ, không xuất hiện hợp đồng BHTG giữa tổ chức bảo hiểm tiền gửi và các tổ chức 11
- tham gia bảo hiểm tiền gửi vì hợp đồng phải dựa trên cơ sở thỏa thuận còn mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia BHTG là theo hình thức bắt buộc. Đối tượng được hưởng các quyền lợi bảo hiểm: Mặc dù người gửi tiền được hưởng các quyền lợi trực tiếp từ chính sách bảo hiểm tiền gửi nhưng họ không phải trực tiếp tham gia bảo hiểm tiền gửi. Theo đó, trong trường hợp tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị giải thể hoặc phá sản thì tổ chức bảo hiểm tiền gửi sẽ thay mặt Chính phủ đứng ra chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền theo quy định của pháp luật mỗi quốc gia. Số tiền vượt quá hạn mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho mỗi khoản tiền gửi của cá nhân ở người gửi tiền sẽ được nhận trong quá trình thanh lý tổ chức tham gia BHTG với thự tự ưu tiên về vị trí chủ nợ theo quy định của pháp luật về giải thể hoặc phá sản. Tổ chức tham gia bảo hiểm được hưởng lợi gián tiếp từ việc tham gia BHTG: được giám sát bởi một cơ quan nhà nước, huy động vốn từ dân cư sẽ dễ dàng hơn do người gửi tiền biết họ sẽ được bảo hiểm khi gửi tiền tại tổ chức đã tham gia bảo hiểm. Về cơ chế bảo hiểm: Ở các loại hình bảo hiểm thương mại khác, một bên là tổ chức bảo hiểm và một bên là đối tượng được bảo hiểm. Còn ở BHTG thì khác, mặc dù người gửi tiền là người được hưởng lợi trực tiếp từ chính sách bảo hiểm tiền gửi nhưng không xuất hiện mối quan hệ trực tiếp về BHTG giữa người gửi tiền và tổ chức bảo hiểm trừ trường hợp xảy ra đổ vỡ của tổ chức tín dụng. Ngoài sự khác biệt nêu trên, còn có những khác biệt về mô hình tổ chức, về hoạt động, sản phẩm dịch vụ. 1.1.6. Bản chất pháp lý của bảo hiểm tiền gửi Chủ thể thực hiện hoạt động bảo hiểm tiền gửi Hoạt động BHTG mang tính đặc thù: chỉ hình thành trong lĩnh vực tài chính, NH nhằm thực hiện các mục tiêu chính sách công của mỗi nhà nước. Do đó, hoạt động BHTG không phải là biện pháp bảo đảm an toàn trong lĩnh vực NH một cách thuần túy. Hoạt động BHTG cũng không mang bản chất pháp lý của hoạt động BHTM. Chính vì vậy, hoạt động BHTG thường không được thực hiện bởi các DN hoạt động trong lĩnh vực BHTM.Cụ thể là “bảo vệ” tiền gửi thuộc sở hữu của cá 12
- nhân, tổ chức tại các tổ chức tham gia BHTG. Để thực hiện chức năng này, tổ chức thực hiện hoạt động này có các công cụ tài chính như quỹ BHTG, công cụ pháp lý như quyền hạn, trách nhiệm trong xác lập, chấm dứt quan hệ BHTG với tổ chức tham gia BHTG, tư vấn dịch vụ BHTG cho người gửi tiền.Ở mô hình hoạt động này chi trả với quyền hạn mở rộng hơn và giảm thiểu rủi ro, PL quy định mở rộng quyền hạn,trách nhiệm cho tổ chức BHTG. Đó là: tham gia xây dựng hệ thống tiêu chí và thực hiện giám sát, kiểm tra, đánh giá rủi ro, cảnh báo rủi ro “sớm” cho tổ chức tham gia BHTG. Hoạt động này được thực hiện trong sự phối hợp với các tổ chức, cơ quan giám sát tài chính, NH khác. Các hoạt động đó góp phần không nhỏ vào việc phát hiện sớm và ngăn chặn hiện tượng “đổ vỡ” NH. Như vậy, địa vị pháp lý của chủ thể thực hiện các hoạt động BHTG được qui định trong pháp luật về hoạt động BHTG là công cụ đặc biệt để nhà nước thực hiện các mục tiêu chính sách công của mình. Quyền hạn, trách nhiệm được pháp luật quy định là những phương tiện pháp lý để tổ chức tài chính đặc thù thực hiện có hiệu quả các hoạt động BHTG. Đối tượng được bảo hiểm Đối tượng được BH của hoạt động BHTG là nghĩa vụ trả các khoản tiền gửi của chủ thể nhận tiền gửi đối với người gửi tiền. Thực tế cho thấy, hoạt động vay và cho vay của các chủ thể nhận tiền gửi tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro. Do đó, đặt ra vấn đề là cần có sự bảo đảm về mặt pháp lý đối với những khoản tiền gửi tại các chủ thể nhận tiền gửi. Pháp luật về hoạt động BHTG của các nước và Việt Nam đều xác định loại tiền gửi được BH, loại tiền gửi không được BH, mức tiền gửi tối đa được BH, chủ sở hữu của các khoản tiền gửi được BH và không được BH. Tuy nhiên, những quy định cụ thể về đối tượng được BHTG có thể khác nhau, xuất phát từ mục tiêu chủ yếu trong chính sách công và các điều kiện về KT-XH ở mỗi nước. Chủ thể thụ hưởng từ hoạt động bảo hiểm tiền gửi Chủ thể thụ hưởng (được tổ chức thực hiện hoạt động BHTG chi trả tiền BH) từ hoạt động bảo hiểm tiền gửi không phải là chủ thể tham gia bảo hiểm tiền gửi - chủ thể đã nộp phí bảo hiểm tiền gửi mà là người gửi tiền. Đây là điểm chung của 13
- PL về hoạt động bảo hiểm tiền gửi của các nước. Người gửi tiền tại các tổ chức tài chính nhận tiền gửi có thể là cá nhân, tổ chức. Mục đích gửi tiền của các chủ thể cũng rất đa dạng như để thực hiện nghĩa vụ thanh toán, tiết kiệm, tích luỹ. Như trên đã phân tích, các nước đều xác định chủ thể tham gia BHTG thông qua nhiều tiêu chí, trong đó có các tiêu chí như loại tiền gửi, chủ thể gửi tiền, mục đích gửi tiền của chủ thể. Do đó, đối tượng được bảo hiểm tiền gửi có thể có sự khác nhau theo qui định của PL các nước. 1.2 Khái niệm pháp luật về bảo hiểm tiền gửi Bất kỳ một thiết chế mới nào khi được thành lập và đi vào hoạt động đều cần phải dựa trên một hệ thống các quy định PL, chính vì thế đi cùng nó tất yếu phải có một khung pháp lý về bảo hiểm tiền gửi phù hợp. Do đó, việc xây dựng một khung PL hoàn chỉnh, đồng bộ, rõ ràng về bảo hiểm tiền gửi là rất cần thiết để vận hành có hiệu quả của BHTG. Đây là một hoạt động đặc thù, mục tiêu của nó là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của người gửi tiền, qua đó đảm bảo an toàn cho hoạt động của các NH, tạo ra sự ổn định của cả hệ thống tài chính. Để đạt được mục tiêu này thì PL về BHTG cần phải đảm bảo rằng: Các phương thức được tổ chức BHTG sử dụng phải phù hợp với đối tượng được bảo hiểm và mô hình hoạt động. Xác định rõ trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan BHTG quyền và nghĩa vụ của tổ chức tham gia BHTG. Quy định rõ ràng cơ chế, đó là những vấn đề liên quan đến việc thanh toán bảo hiểm bao gồm việc quyết định các loại TCTD bắt buộc phải tham gia BHTG, các loại tài chính thuộc diện được bảo hiểm và mức độ thanh toán bảo hiểm. Cụ thể hóa các quy định về giải quyết đổ vỡ NH ngay trong khung PL về BHTG. Xác định rõ tổ chức, cá nhân nào có trách nhiệm xem xét, giải quyết khi xảy ra tranh chấp về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia . Trong PL của các nước cũng như trong hệ thống PL củaViệt Nam, PL về BHTG là cơ sở pháp lý để BHTG hoạt động có hiệu quả, đúng với mục đích được đề ra. Trên cơ sở những lý luận chung về BHTG và các quy định, có thể đưa ra khái 14