Luận văn Pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động qua thực tiễn áp dụng tại tỉnh Ninh Thuận

pdf 80 trang vuhoa 24/08/2022 11340
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động qua thực tiễn áp dụng tại tỉnh Ninh Thuận", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phap_luat_ve_an_toan_ve_sinh_lao_dong_qua_thuc_tien.pdf

Nội dung text: Luận văn Pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động qua thực tiễn áp dụng tại tỉnh Ninh Thuận

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM TRẦN THANH MINH PHÁP LUẬT VỀ AN TOÀN, VỆ SINH LAO ĐỘNG QUA THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH NINH THUẬN LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Ninh Thuận, năm 2019
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM TRẦN THANH MINH PHÁP LUẬT VỀ AN TOÀN, VỆ SINH LAO ĐỘNG QUA THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH NINH THUẬN Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số môn học: 8380107 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN HUỲNH THANH NGHỊ Ninh Thuận, năm 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi tên Trần Thanh Minh – mã số học viên: 7701280051A, là học viên lớp Cao học Luật Ninh Thuận, Khóa 28, chuyên ngành Luật kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, là tác giả của Luận văn Thạc sĩ với đề tài “Pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động qua thực tiễn áp dụng tại tỉnh Ninh Thuận”. Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung được trình bày trong Luận văn này là kết quả nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của Thầy TS. Trần Huỳnh Thanh Nghị. Tư liệu, thông tin được sử dụng trong bài tập này là hoàn toàn khách quan và trung thực. Ninh Thuận, ngày 25 tháng 12 năm 2019 Học viên thực hiện Trần Thanh Minh
  4. MỤC LỤC TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BẢNG TÓM TẮT ABSTRACT PHẦN MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu 1 2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 2 3. Câu hỏi nghiên cứu 5 4. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu 5 5. Phạm vi nghiên cứu 6 6. Phương pháp nghiên cứu 6 7. Bố cục của Luận văn 7 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ AN TOÀN LAO ĐỘNG VÀ VỆ SINH LAO ĐỘNG. 8 1.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động 8 1.2. Vai trò của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động 11 1.3. Sơ lược về lịch sử phát triển của pháp luật về an toàn lao động và vệ sinh lao động tại Việt Nam 13 1.4. Quy định pháp luật về an toàn lao động và vệ sinh lao động 14 1.4.1. Quyền và nghĩa vụ về an toàn, vệ sinh lao động của người lao động 16 1.4.2. Quyền và nghĩa vụ về an toàn, vệ sinh lao động của người sử dụng lao động 18 1.4.3. Quyền và trách nhiệm của tổ chức công đoàn trong công tác an toàn, vệ sinh lao động 20
  5. 1.4.4. Các biện pháp phòng chống các yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại cho người lao động 22 1.4.5. Trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp 26 1.4.6. Bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động đối với một số lao động đặc thù 31 Kết luận Chương 1 35 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ AN TOÀN, VỆ SINH LAO ĐỘNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH THUẬN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT 36 2.1. Sơ lược về tình hình kinh tế – xã hội trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận 36 2.2. Sơ lược về tình hình doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận 37 2.3. Tình hình công nhân lao động và công tác an toàn, vệ sinh lao động trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận 38 2.3.1. Tình hình công nhân lao động 38 2.3.2. Tình hình công tác đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động cho công nhân lao động trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận 38 2.4. Những vướng mắc, bất cập của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động 46 2.5. Hoàn thiện pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động 47 2.5.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động Việt Nam47 2.5.2. Yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động 48 2.5.3. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động 49 2.5.4. Những giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động tại tỉnh Ninh Thuận 51 Kết luận Chương 2 53 KẾT LUẬN CHUNG 54 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN CÁC BẢNG PHỤ LỤC
  6. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ATLĐ An toàn lao động ATVSLĐ An toàn vệ sinh lao động BHTN Bảo hiểm thất nghiệp BHXH Bảo hiểm xã hội BHYT Bảo hiểm y tế BLLĐ Bộ Luật Lao động BNN Bệnh nghề nghiệp HĐLĐ Hợp đồng lao động TNLĐ Tai nạn lao động UBND Ủy ban nhân dân VSLĐ Vệ sinh lao động YTCH Yếu tố có hại YTNH Yếu tố nguy hiểm
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG PHỤ LỤC Phụ lục 1: Bảng thống kê tình hình tai nạn lao động. Phụ lục 2: Bảng thống kê tình hình tai nạn lao động giai đoạn 2013-2018 trong một số ngành, lĩnh vực có nguy cơ cao về tai nạn lao động. Phụ lục 3: Bảng thống kê tình hình khám, giám định bệnh nghề nghiệp. Phụ lục 4: Bảng thống kê tình hình thực hiện chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
  8. TÓM TẮT Thực tiễn tiếp cận pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động tại Ninh Thuận. Tác giả Luận văn nhận thấy người sử dụng lao động chưa quan tâm đầy đủ đến công tác an toàn, vệ sinh lao động cho người lao động. Việc triển khai phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật xuống cơ sở để doanh nghiệp, người sử dụng lao động, người lao động nắm bắt được còn rất hạn chế. Các cấp, các ngành, địa phương chưa quan tâm bố trí kinh phí cho hoạt động phổ biến pháp luật nên việc tuyên truyền và huấn luyện trong khu vực không có quan hệ lao động chưa được nhiều. Thông qua phương pháp phân tích và so sánh luật cùng với các phương pháp thống kê; phỏng vấn Tác giả làm sáng tỏ những điểm chưa hoàn thiện của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động. Chỉ ra những hạn chế của các cơ quan Nhà nước đối với công tác đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động. Luận văn đã đề cập đến một số nội dung cơ bản của quản lý Nhà nước về an toàn, vệ sinh lao động, đề xuất những ý tưởng và một số giải pháp hoàn thiện, cơ chế áp dụng pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động không ngoài mục đích góp phần ngăn chặn, phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong thời gian tới. Từ khóa: An toàn, vệ sinh lao động; Quản lý nhà nước về An toàn, vệ sinh lao động; Pháp luật về An toàn, vệ sinh lao động.
  9. ABSTRACT Through practical access to legislation on occupational safety and sanitation in Ninh Thuan, the author of the thesis finds that the employers have not paid enough attention to the work of occupational safety and sanitation for the employees. The dissemination of legal documents to grassroots level for enterprises, employers and employees to grasp is still very limited. All levels, sectors and localities have not paid attention to allocating funding for law dissemination activities, so the propaganda and training in the areas without labor relations is not much. Thanks to the method of analyzing and comparing laws along with statistical methods and interview, the author clarifies the incomplete points of the law on occupational safety and sanitation, points out the limitations of the State agencies to the work of occupational safety and sanitation. The thesis has mentioned some basic contents of State management on occupational safety and sanitation, proposed ideas and some complete solutions, mechanisms to apply laws on occupational safety and sanitation. These all aim to contribute to preventing labor accidents and occupational diseases in the coming time. Key words: Occupational safety and sanitation; State management on occupational safety and sanitation; Laws on occupational safety and sanitation.
  10. 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu An toàn, vệ sinh lao động là một chính sách kinh tế - xã hội lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam, là nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn coi việc bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động là lợi ích thiết thực nhất đối với người lao động. Ngày 18/6/2012, tại Kỳ họp thứ III, Quốc hội khóa XIII thông qua Bộ luật lao động năm 2012. Tuy nhiên, đây cũng mới chỉ là một chương trong Bộ Luật lao động. Để phù hợp với yêu cầu và tầm quan trọng của công tác an toàn, vệ sinh lao động trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhu cầu cấp thiết đặt ra là phải xây dựng một luật riêng về an toàn, vệ sinh lao động cho Việt Nam. Trong hoàn cảnh đó, ngày 25/6/2015, tại Kỳ họp thứ IX, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật An toàn, vệ sinh lao động, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016. Những năm qua, cùng với sự phát triển chung của cả nước, kinh tế tỉnh Ninh Thuận tiếp tục có chuyển biến tích cực, vốn đầu tư toàn xã hội tăng nhanh, nhiều công trình kết cấu hạ tầng có quy mô lớn được triển khai xây dựng. Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận phát triển đa dạng. Đội ngũ công nhân lao động trong tỉnh tăng nhanh về số lượng, nâng cao về chất lượng và đa dạng hơn về cơ cấu. Các chương trình, các dự án đầu tư, sự mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước và sự phát triển của các doanh nghiệp dân doanh đã thu hút hàng nghìn lao động. Tiền lương, thu nhập đáp ứng được yêu cầu cho cuộc sống tối thiểu của người lao động, đồng thời việc thực hiện pháp luật lao động trong các doanh nghiệp nhìn chung được bảo đảm, quan hệ lao động từng bước được cải thiện. Tuy nhiên, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận chủ yếu vẫn là doanh nghiệp có quy mô nhỏ chiếm đa số; lao động phần lớn xuất thân từ nông dân nên thường xuyên biến động, thiếu tính ổn định lâu dài. Thu nhập, đời sống của công
  11. 2 nhân, người lao động còn có sự chênh lệch giữa các khu vực, các ngành, nghề khác nhau. Đa phần công nhân chưa có tác phong công nghiệp; ý thức tổ chức kỷ luật, trình độ hiểu biết về chính sách, pháp luật của Nhà nước nói chung và về an toàn, vệ sinh lao động nói riêng còn nhiều hạn chế. Công tác đào tạo, huấn luyện về an toàn, vệ sinh lao động cho người lao động chưa được quan tâm đúng mức, tình hình vi phạm pháp luật lao động, an toàn, vệ sinh lao động ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động trong các doanh nghiệp dân doanh vẫn còn xảy ra. An toàn lao động, vệ sinh lao động có liên quan trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng của người lao động. Xuất phát từ tầm quan trọng này, Nhà nước quy định chặt chẽ chế độ bảo hộ lao động từ khâu ban hành văn bản pháp luật đến tổ chức thực hiện và xử lý vi phạm. Nhà nước giao cho cơ quan có thẩm quyền lập chương trình quốc gia về bảo hộ lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động. Ban hành hệ thống tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm, về an toàn lao động, vệ sinh lao động. Các đơn vị sử dụng lao động có nghĩa vụ cụ thể hóa các quy định này cho phù hợp với đơn vị mình và nghiêm chỉnh tuân thủ các quy định này. Có thể nói trong số các chế định của pháp luật lao động, chế định về an toàn lao động, vệ sinh lao động có tính chất bắt buộc cao mà các chủ thể hầu như ít được thỏa thuận như các chế định khác. Do vậy, việc thực thi pháp luật lao động nói chung và Luật An toàn, vệ sinh lao động 2016 nói riêng trong công nhân lao động tỉnh Ninh Thuận ngày càng trở thành một vấn đề đáng quan tâm, nhằm mục đích bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho người lao động đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Ninh Thuận trong thời gian tới. Xuất phát từ thực tế trên, tác giả quyết định lựa chọn đề tài“Pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động qua thực tiễn áp dụng tại tỉnh Ninh Thuận” làm Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế cho mình. 2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Thời gian qua, tại Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến pháp luật về vệ sinh, an toàn lao động dưới nhiều góc độ khác nhau, cụ thể như sau:
  12. 3 Luận văn của Lê Thị Phương Thúy (2008), Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội: An toàn, vệ sinh lao động đối với lao động nữ trong pháp luật lao động Việt Nam. Tác giả nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật an toàn, vệ sinh lao động, sự cần thiết của việc ban hành các quy định pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động đối với lao động nữ. Trong đó tác giả tập trung phân tích, đánh giá thực trạng các quy định về an toàn, vệ sinh lao động đối với lao động nữ và việc thực thi pháp luật trên thực tế trong các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam. Đánh giá kết quả, những bất cập và nguyên nhân của những bất cập, tồn tại. Đề xuất một số yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động đối với lao động nữ. Luận văn của Nguyễn Thị Hải Yến (2012), Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội: Quản lý Nhà nước trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động theo pháp luật lao động Việt Nam. Tác giả nghiên cứu tìm hiểu, tổng hợp một vấn đề mới với hy vọng đóng góp góc nhìn khái quát hơn cho việc nghiên cứu, xây dựng và ban hành pháp luật lao động liên quan đến sự quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động. Làm rõ vấn đề lý luận quản lý Nhà nước trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động theo quy định của pháp luật Việt Nam. Đánh giá thực trạng quản lý Nhà nước trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động trong giai đoạn hiện nay. Luận văn của Phan Thị Hải Yến (2013), Trường Đại học Bách khoa Hà Nội: Một số giải pháp nâng cao công tác an toàn, vệ sinh lao động và phòng chống cháy nổ tại Công ty xăng dầu khu vực 1- Công ty TNHH một thành viên. Tác giả nghiên cứu làm rõ những vấn đề đang tồn tại trong thực tiễn hoạt động an toàn, vệ sinh lao động, phòng chống cháy nổ tại các đơn vị trực thuộc Công ty xăng dầu khu vực 1. Từ đó đề xuất một số giải pháp phát triển công tác an toàn, vệ sinh lao động, phòng chống cháy nổ cho Công ty xăng dầu khu vực 1. Luận văn của Lê Thị Kim Thương (2014), Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội: Bảo vệ người lao động trong lĩnh vực việc làm, tiền lương trong pháp luật lao
  13. 4 động Việt Nam – thực tiễn tại thành phố Đà Nẵng. Tác giả nghiên cứu làm rõ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc bảo vệ người lao động trong lĩnh vực quan trọng là việc làm, tiền lương và thu nhập trong Bộ Luật lao động 2012, từ đó đưa ra một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật lao động ở nước ta hiện nay. Luận văn của Kiều Thị Vân (2018), Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam: Bảo đảm quyền của lao động nữ theo pháp luật lao động Việt Nam. Tác giả nghiên cứu một số vấn đề về quyền của lao động nữ, pháp luật bảo vệ quyền của lao động nữ. Đánh giá thực trạng luật bảo vệ quyền của lao động nữ, chỉ ra những điều còn hạn chế và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền cho lao động nữ. Luận án của Phạm Thị Lý (2018), Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh: Thị trường lao động thành phố Hồ Chí Minh trong hội nhập quốc tế. Tác giả nghiên cứu về thị trường lao động trong bối cảnh hội nhập quốc tế; trong đó tác giả tập trung phân tích tác động của các nhân tố bên trong và yếu tố hội nhập quốc tế đến các kết quả của thị trường lao động. Luận án của Phan Tấn Hùng (2018), Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh: Quan hệ lao động trong các doanh nghiệp ngoài kinh tế Nhà nước trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả nghiên cứu về quan hệ lao động trong doanh nghiệp mà chủ yếu nghiên cứu về lợi nhuận tiền và lương giữa người lao động và người sử dụng lao động. Trong đó tác giả nêu rõ bản chất quan hệ bóc lột làm thuê ở các doanh nghiệp ngoài Nhà nước ở Việt Nam nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, những quan hệ hài hòa và mâu thuẫn trong quan hệ lao động trong các doanh nghiệp ngoài Nhà nước trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh và xu hướng vận động của quan hệ lao động trong các doanh nghiệp ngoài Nhà nước trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và Việt Nam nói chung. Luận án của Đào Quang Thắng (2018), Học viện khoa học xã hội: Chính sách việc làm cho lao động ở Hà Tĩnh. Tác giả phân tích và đánh giá thực trạng chính sách việc làm ở Hà Tĩnh giai đoạn 2011-2015, từ đó đề xuất một số quan
  14. 5 điểm, phương hướng, mục tiêu và giải pháp hoàn thiện chính sách nhằm giải quyết việc làm cho người lao động ở Hà Tĩnh trong thời gian tới. Tuy nhiên, về tổng thể, các công trình nghiên cứu trên nhìn chung chỉ đề cập tới tổng quan lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động đối với lao động nữ; an toàn vệ sinh lao động – phòng chống cháy nổ; bảo vệ quyền lao động nữ; thị trường lao động; các chính sách giải quyết việc làm cho lao động; pháp luật lao động đối với các doanh nghiệp siêu nhỏ ở Việt Nam trong điều kiện nước ta thực hiện chính sách pháp luật lao động, cũng như đặc thù áp dụng pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động của các địa phương trên cả nước. Vì thế vẫn chưa có công trình khoa học nào xem xét đến khía cạnh pháp luật an toàn, vệ sinh lao động trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận, do đó có thể nói đề tài “Pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động qua thực tiễn áp dụng tại tỉnh Ninh Thuận” là Luận văn Thạc sĩ đầu tiên nghiên cứu về an toàn, vệ sinh lao động trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận. 3. Câu hỏi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu đề tài: Pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động qua thực tiễn áp dụng tại tỉnh Ninh Thuận nhằm hướng đến trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu sau: Thứ nhất, pháp luật thực định của Việt Nam có những quy định cụ thể gì để điều chỉnh quan hệ về an toàn, vệ sinh lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động ? Thứ hai, thực tiễn áp dụng pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động tại tỉnh Ninh Thuận thời gian qua có những thành công và hạn chế gì ? Thứ ba, cần có những giải pháp cụ thể nào để hoàn thiện pháp luật và thực thi có hiệu quả pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động tại tỉnh Ninh Thuận trong thời gian tới ? 4. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn nghiên cứu đề tài Pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động qua thực tiễn áp dụng tại tỉnh Ninh Thuận nhằm làm rõ các vấn đề lý luận liên quan an toàn, vệ sinh lao động theo quy định của Luật An toàn, vệ sinh lao động 2016, đồng thời
  15. 6 đánh giá thực trạng thực thi pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận. Trên cơ sở đó, Luận văn đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động tại Việt Nam cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động tại tỉnh Ninh Thuận trong thời gian tới. Để đạt được các mục đích nghiên cứu trên, Luận văn có những nhiệm vụ cụ thể sau: Một là, nghiên cứu làm rõ những nội dung cơ bản của quản lý Nhà nước trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động, đặc biệt là nội dung trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động theo Luật An toàn, vệ sinh lao động 2016. Hai là, phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động đối với người lao động và việc thực thi trên thực tiễn tại tỉnh Ninh Thuận, đánh giá những kết quả cũng như sự bất cập, nguyên nhân của tồn tại, bất cập. Ba là, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả, hiệu lực của quản lý Nhà nước trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động. 5. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Luận văn phân tích, đánh giá quá trình thực hiện pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động tại tỉnh Ninh Thuận. Về thời gian: Luận văn phân tích thực trạng thực hiện pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động tại tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2013-2018, đặc biệt từ khi Luật An toàn, vệ sinh lao động có hiệu lực từ 01/7/2016 đến nay. Về không gian nghiên cứu: Trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận 6. Phương pháp nghiên cứu Trong Chương 1 tác giả sẽ sử dụng các phương pháp: Phương pháp nghiên cứu tài liệu; Phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, quy nạp, diễn giải; để làm rõ cơ sở pháp lý về an toàn, vệ sinh lao động. Trong Chương 2 tác giả sẽ sử dụng các phương pháp: Phương pháp định tính; Phương pháp thống kê toán học; Phương pháp phỏng vấn (phỏng vấn lãnh đạo Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, lãnh đạo Liên đoàn Lao động, người
  16. 7 trực tiếp làm công tác an toàn, vệ sinh lao động) để xác định và thống kê các tình hình an toàn, vệ sinh lao động. Và phương pháp tìm lỗi; phương pháp lựa chọn giải pháp thông qua so sánh hiệu quả để lựa chọn và đề ra các giải pháp. 7. Bố cục của Luận văn Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn được chia thành 2 Chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về an toàn lao động và vệ sinh lao động. Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật.
  17. 8 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ AN TOÀN LAO ĐỘNG VÀ VỆ SINH LAO ĐỘNG 1.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động Theo nghĩa chung, an toàn lao động, vệ sinh lao động là các hoạt động đồng bộ trên các phương diện pháp lý, tổ chức quản lý, kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ nhằm cải thiện điều kiện lao động, phòng chống tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, bảo vệ tính mạng và sức khoẻ cho con người trong lao động. Theo quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều 3 Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2016 thì khái niệm an toàn lao động là giải pháp phòng, chống tác động của các yếu tố nguy hiểm nhằm bảo đảm không xảy ra thương tật, tử vong đối với con người trong quá trình lao động, còn vệ sinh lao động là giải pháp phòng, chống tác động của yếu tố có hại gây bệnh tật, làm suy giảm sức khỏe cho con người trong quá trình lao động. ATLĐ và VSLĐ là những chế định quan trọng của pháp luật lao động bao gồm những quy phạm pháp luật quy định việc đảm bảo ATLĐ, VSLĐ nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe của người lao động, đồng thời duy trì tốt khả năng làm việc lâu dài của người lao động. Bởi lẽ, ATLĐ không tốt thì sẽ gây ra tai nạn lao động, VSLĐ không tốt thì sẽ gây ra bệnh nghề nghiệp. Trước đây, ATLĐ, VSLĐ là một bộ phận trong chế định bảo hộ lao động - là những quy định của Nhà nước liên quan đến ATLĐ, VSLĐ và các chế độ, thể lệ bảo hộ lao động khác. Như vậy, nếu hiểu theo nghĩa này thì bảo hộ lao động có nghĩa quá rộng và khó phân biệt với nhiều vấn đề khác của pháp luật lao động, có chức năng chung là bảo vệ người lao động. Khi đó tiền lương, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, bảo hiểm lao động đều thuộc phạm trù “bảo hộ lao động”. Nếu dùng khái niệm “bảo hộ lao động” với nghĩa hẹp, chỉ bao gồm những quy định ATLĐ và VSLĐ thì không tương xứng với khái niệm này. Chính vì vậy, tại Chương IX Bộ Luật lao động 2012 sử dụng tiêu đề ATLĐ và VSLĐ. Như vậy, các quy định tại Chương IX của BLLĐ 2012 chủ yếu đề
  18. 9 cập đến an toàn, vệ sinh lao động. Tuy nhiên, ATLĐ, VSLĐ và bảo hộ lao động có quan hệ mật thiết với nhau, do đó trong ộ m t chừng mực nhất định khi phân tích những vấn đề về ATLĐ và VSLĐ thì vấn đề bảo hộ lao động cũng sẽ được đề cập. Dưới góc độ pháp lý, ATLĐ và VSLĐ là tổng hợp những quy phạm pháp luật quy định các biện pháp bảo đảm ATLĐ và VSLĐ nhằm ngăn ngừa TNLĐ, BNN và cải thiện điều kiện lao động cho người lao động. Từ khái niệm trên, có thể rút ra một số đặc điểm của pháp luật về ATLĐ và VSLĐ như sau: Thứ nhất, pháp luật về ATLĐ và VSLĐ bao gồm toàn bộ các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ giữa người sử dụng lao động với người lao động trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ liên quan đến ATLĐ, VSLĐ. Đây là khung pháp lý quan trọng trong việc hướng dẫn, bắt buộc các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân phải tuân thủ nhằm đảm bảo an toàn tính mạng, tài sản của doanh nghiệp, Nhà nước và Nhân dân. Khác biệt với quy định pháp luật trên các lĩnh vực khác, pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động có tính chất quyền uy và phục tùng, được quy định chặt chẽ và phải thực hiện nghiêm. Vì nếu không tuân thủ hoặc tuân thủ không đầy đủ sẽ dẫn đến nguy cơ TNLĐ, BNN. Nội dung quy phạm ATVSLĐ không có sự thỏa thuận hay tính bình đẳng mà chỉ có thuộc tính bắt buột hay nghĩa vụ thực hiện. Bởi vì các quy định này liên quan trực tiếp đến sức khỏe, thể lực và sinh mạng con người, liên quan rất nhiều đến trình tự và thủ tục phức tạp buộc phải tuân thủ nghiêm ngặt, trong quá trình áp dụng không thể thay đổi nếu không hậu quả xảy ra sẽ khó lường. Trong việc thực hiện các quy chuẩn kỹ thuật không được phép lơ là, châm chước trong bất kỳ thủ tục và giai đoạn nào, pháp luật về ATVSLĐ còn chịu sự tác động rất lớn của các văn bản của nhiều cơ quan và các lĩnh vực khác nhau. Vì ở lĩnh vực nào có sản xuất, kinh doanh, có lao động thì ở đó có nguy cơ mất ATVSLĐ, cho nên các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải có các quy định riêng cho từng lĩnh vực, nhằm đảm bảo ATVSLĐ cho lĩnh vực mà ngành mình phụ trách. Do tính đặc thù của ATVSLĐ mà phạm vi điều chỉnh rất rộng, phủ kín toàn bộ mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cả trong các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế trong
  19. 10 nước và nước ngoài, các trang trại, trong nông nghiệp, trong các cơ quan hành chính Nhà nước có sử dụng người lao động. Thứ hai, đối tượng điều chỉnh của pháp luật về ATVSLĐ rất phong phú bao gồm mọi người lao động có giao kết hay không giao kết hợp đồng lao động đang làm việc trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, pháp luật về ATVSLĐ có tác động sâu rộng đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đòi hỏi các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, hiệp hội và các cá nhân có liên quan đều phải thực hiện. Pháp luật về ATVSLĐ có vị trí quan trọng trong các chính sách của Nhà nước. Do các quy định về ATVSLĐ có tính phòng ngừa cao, nếu vi phạm các quy định này sẽ dẫn đến chết người, mất của, sự thiệt hại cả vật chất và tinh thần là vô cùng lớn, vì thế, các quy định về ATVSLĐ phải chặt chẽ và phải được đảm bảo thực hiện, không để xảy ra mất an toàn. Trong pháp luật ATVSLĐ thì tính phòng ngừa có ý nghĩa vô cùng quan trọng, vì sự phòng ngừa càng tốt bao nhiêu, càng chuẩn bị kỹ bao nhiêu thì hiệu quả của ATVSLĐ càng tốt bấy nhiêu và ngược lại, nếu các biện pháp phòng ngừa không được quan tâm chuẩn bị kỹ lưỡng hoặc chuẩn bị sơ sài sẽ gây mất ATVSLĐ, dẫn đến hậu quả thiệt hại về người và tài sản và sự trả giá là không đo đếm được. Do vậy, tính phòng ngừa là một trong những đặc điểm riêng có của pháp luật về ATVSLĐ. Thứ ba, do tính phòng ngừa quan trọng nên các quy định về ATVSLĐ phải tính đến các điều kiện, yếu tố ảnh hưởng, tác động đến điều kiện lao động trước khi hoạt động, những đối tượng liên quan có trách nhiệm phải chuẩn bị và phải có kế hoạch chu đáo. Pháp luật về ATVSLĐ có tính quần chúng, chỉ khi quần chúng lao động, mọi người lao động và người sử dụng lao động nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác ATVSLĐ và tự giác thực hiện thì mới đạt hiệu quả. Bởi vì người lao động là những người trực tiếp thực hiện quy phạm, quy chuẩn kỹ thuật và các biện pháp kỹ thuật an toàn, tự mình gánh chịu hậu quả nếu vi phạm và cũng tự mình phát hiện sự cố, sai sót trong quy định để đề xuất cách thức cải tiến kỹ thuật, biện pháp an toàn. Vì vậy chỉ khi chính người lao động tự giác thực hiện thì yếu tố phòng
  20. 11 ngừa mới đạt hiệu quả. Nếu quần chúng lao động chỉ biết thực hiện mang tính bị động theo mệnh lệnh, theo pháp luật thì hiệu quả không cao. 1.2. Vai trò của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động Công tác ATVSLĐ là thông qua các biện pháp về khoa học kỹ thuật, pháp luật, tổ chức, hành chính, kinh tế - xã hội để loại trừ các yếu tố nguy hiểm và yếu tố có hại phát sinh trong sản xuất, tạo nên một điều kiện lao động tiện nghi, thuận lợi và môi trường lao động ngày càng được cải thiện tốt hơn để ngăn ngừa TNLĐ và BNN, hạn chế ốm đau và giảm sút sức khoẻ cũng như những thiệt hại khác đối với người lao động, nhằm bảo đảm an toàn, bảo vệ sức khoẻ và tính mạng người lao động, trực tiếp góp phần bảo vệ và phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động và bảo vệ môi trường. Vì vậy pháp luật ATVSLĐ có những vai trò sau: Thứ nhất, tạo khung pháp lý để các cơ quan quản lý Nhà nước về ATVSLĐ thực hiện các chức năng quản lý để tạo ra môi trường lao động an toàn, đồng thời cũng tạo khung pháp lý để các chủ thể thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình về ATVSLĐ một cách tự nguyện và bình đẳng. Thứ hai, pháp luật về ATVSLĐ thể chế hóa, triển khai những quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về an toàn lao động một cách kịp thời, đồng bộ, rộng khắp với quy mô cả nước, là công cụ quản lý Nhà nước về an toàn lao động. Để có môi trường làm việc đảm bảo an toàn, trước hết người sử dụng lao động phải đầu tư, thực hiện nhiều hành vi, chi phí tốn kém cả về vật chất và tinh thần. Điều đó cho thấy người sử dụng lao động tự nguyện, thoải mái thực hiện tạo ra điều kiện lao động đảm bảo an toàn lao động là không dễ, vì vậy Nhà nước phải có biện pháp bắt buộc người sử dụng lao động phải thực hiện, khi đó pháp luật về ATVSLĐ là công cụ thực hiện chức năng quản lý. Khi xảy ra sự cố, mất an toàn, thiệt hại về người và tài sản mà không có sự can thiệp của cơ quan công quyền thì việc giải quyết hậu quả rất khó khăn, hơn nữa pháp luật về ATVSLĐ lại thể hiện chức năng can thiệp, yêu cầu các chủ thể thực hiện nghĩa vụ theo quy định.
  21. 12 Thứ ba, pháp luật về ATVSLĐ thể hiện vai trò bảo vệ lợi ích của người lao động, người sử dụng lao động, bảo vệ lợi ích xã hội, lợi ích quốc gia và bảo vệ tính mạng, tài sản của các chủ thể. Thứ tư, pháp luật ATVSLĐ giúp Nhà nước kiểm tra, kiểm soát mọi hoạt động của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và tất cả người lao động thực hiện công tác về ATVSLĐ. Thứ năm, pháp luật ATVSLĐ còn đóng vai trò to lớn cho xã hội, góp phần không nhỏ trong chiến lược phát triển kinh tế đất nước, đó là lợi ích kinh tế. Nếu các quy định về ATVSLĐ được thực thi một cách nghiêm túc thì TNLĐ, nguy cơ xảy ra sự cố mất an toàn lao động sẽ giảm, mang lại lợi ích kinh tế rất lớn như: Người sử dụng lao động không phải trả chi phí hoặc bồi thường TNLĐ, không phải chi phí y tế từ sơ cấp cứu cho người bị TNLĐ. Chẳng hạn, trường hợp người bị TNLĐ không tử vong mà bị tàn phế suốt đời, người sử dụng lao động phải chi phí cho việc điều trị bệnh rất nhiều tiền; nếu TNLĐ xảy ra, có sự cố cháy nổ, mất an toàn về điều kiện lao động thì người sử dụng lao động còn phải chi phí cho công xưởng, máy móc, thiết bị bị hư hỏng. Tùy vào sự cố xảy ra lớn hay nhỏ, phạm vi rộng hay hẹp mà người sử dụng lao động phải chịu hậu quả, thậm chí có nhiều trường hợp có sự cố cháy nổ, không những chết người mà còn thiệt hại tài sản như nhà xưởng mà người sử dụng lao động tự mình không thể bù đắp nổi, những trường hợp như vậy thì Nhà nước phải can thiệp, hỗ trợ; khi có TNLĐ, Bảo hiểm xã hội phải giải quyết chế độ, chính sách cho gia đình người bị nạn, thậm chí có nhiều trường hợp và phải chi phí cho con em họ dưới 18 tuổi, đây là một nguồn tài chính không hề nhỏ; nếu pháp luật ATVSLĐ đi vào cuộc sống thì khi đó môi trường lao động đảm bảo an toàn, người lao động sẽ yên tâm, tự tin trong lao động sản xuất, thoải mái tinh thần dẫn đến hăng say lao động, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật và do vậy năng suất lao động tăng thì doanh thu tăng, lợi ích kinh tế cho kinh tế xã hội cũng tăng lên; trong thời kỳ hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa, pháp luật điều chỉnh các quan hệ ATVSLĐ còn đóng vai trò đảm bảo sự cam kết của Việt Nam khi tham