Luận văn Pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam và thực tiễn trên địa bàn tỉnh Nam Định

pdf 119 trang vuhoa 25/08/2022 6720
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam và thực tiễn trên địa bàn tỉnh Nam Định", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phap_luat_thue_gia_tri_gia_tang_o_viet_nam_va_thuc.pdf

Nội dung text: Luận văn Pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam và thực tiễn trên địa bàn tỉnh Nam Định

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TÔ TIẾN THÀNH PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2013
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TÔ TIẾN THÀNH PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Thương Huyền Hà Nội - 2013
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan bản luận văn là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của tôi. Các số liệu kết quả trong luận văn là trung thực và nguồn gốc rõ ràng. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Tô Tiến Thành i
  4. MỤC LỤC Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG VÀ PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG 6 1.1. Một số nhận thức về thuế giá trị gia tăng 6 1.1.1. Khái niệm thuế giá trị gia tăng 6 1.1.2. Đặc điểm của thuế giá trị gia tăng 8 1.1.3. Vai trò của thuế giá trị gia tăng trong hệ thống thuế 10 1.1.4. Điều kiện áp dụng thuế giá trị gia tăng 12 1.2. Pháp luật thuế giá trị gia tăng 15 1.2.1. Khái niệm và sự cần thiết khách quan của pháp luật thuế giá trị gia tăng 15 1.2.2. Nội dung chủ yếu của pháp luật thuế giá trị gia tăng 20 Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH 39 2.1. Tình hình chung 39 2.1.1. Về phía cơ quan thuế 39 2.1.2. Về phía người nộp thuế 41 2.2. Những hiệu quả tích cực khi áp dụng pháp luật thuế giá trị gia tăng trên địa bàn tỉnh Nam Định 43 2.2.1. Đối với kinh tế địa phương 43 2.2.2. Thuế giá trị gia tăng là nguồn thu quan trọng và ổn định của ngân sách tỉnh, tăng cường tài chính quốc gia, đảm bảo nguồn lực để phát triển ii
  5. kinh tế - xã hội, xoá đói, giảm nghèo và củng cố an ninh, quốc phòng trên địa bàn tỉnh 44 2.2.3. Đối với các doanh nghiệp 46 2.2.4. Đối với cơ quan thuế 46 2.2.5. Nguyên nhân đạt được những kết quả trên 46 2.3. Những bất cập, tồn tại trong quá trình áp dụng pháp luật thuế giá trị gia tăng trên địa bàn tỉnh Nam Định 48 2.3.1. Bất cập của các quy định về đối tượng nộp thuế và đối tượng chịu thuế 49 2.3.2. Bất cập về quy định căn cứ tính thuế và phương pháp tính thuế giá trị gia tăng 54 2.3.3. Bất cập về các quy định khấu trừ thuế 60 2.3.4. Bất cập về các quy định hoàn thuế giá trị gia tăng 64 2.3.5. Bất cập về chế độ hoá đơn chứng từ 70 2.3.6. Hệ thống văn bản pháp luật thuế giá trị gia tăng phức tạp và trồng chéo. 72 2.3.7. Tổ chức quản lý thuế chưa hiệu quả 73 2.3.8. Một số nguyên nhân của thực trạng trên 75 Chương 3: TIẾP TỤC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO THỰC HIỆN PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH 76 3.1. Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế giá trị gia tăng 76 3.1.1. Phương hướng hoàn thiện 76 3.1.2. Các giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật thuế giá trị gia tăng 77 3.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật thuế giá trị gia tăng trên địa bàn tỉnh Nam Định 96 iii
  6. 3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý thuế 96 3.2.2. Cải cách mạnh mẽ công tác thanh tra, kiểm tra thuế 99 3.2.3. Hiện đại hóa công tác quản lý thuế bằng công cụ tin học 100 3.2.4. Tăng cường công tác quản lý chứng từ, hóa đơn giá trị gia tăng 103 3.2.5. Đẩy mạnh dịch vụ tư vấn thuế 104 3.2.6. Đổi mới công tác quản lý thu thuế giá trị gia tăng 106 3.2.7. Cải cách đồng bộ hệ thống thể chế quản lý kinh tế xã hội 107 KẾT LUẬN 108 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 109 iv
  7. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ODA : Hỗ trợ phát triển chính thức DN : Doanh nghiệp GDP : Tổng sản phẩm quốc nội GTGT : Giá trị gia tăng HHDV : Hàng hoá, dịch vụ KBNN : Kho bạc Nhà nước NSTƯ : Ngân sách trung ương NSĐP : Ngân sách địa phương NSNN : Ngân sách Nhà nước NNT : Người nộp thuế QLNN : Quản lý Nhà nước SXKD : Sản xuất kinh doanh WTO : Tổ chức thương mại thế giới v
  8. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng số 2.1: Số lượng người nộp thuế trên địa bàn tỉnh từ năm 2008-2012 41 Bảng số 2.2: Thu NSNN trên địa bàn và hoàn thuế giá trị gia tăng 44 Bảng số 2.3: Tổng sản phẩm trên địa bàn (GDP) và vốn đầu tư phát triển Giai đoạn từ năm 2008-2012 45 Bảng số 2.4: Kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2008 - 2012 45 Bảng số 2.5: Tổng hợp hoàn thuế các năm 2009 - 2012 67 Bảng số 3.1: Mức thuế suất và số lượng mức thuế suất thuế giá trị gia tăng của một số quốc gia tại thời điểm năm 2011 (%) 82 Bảng số 3.2: Ngưỡng doanh thu kê khai thuế giá trị gia tăng của một số nước 86 vi
  9. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thuế là một trong những công cụ để nhà nước điều chỉnh nền kinh tế vĩ mô, là một trong những nguồn thu có đóng góp lớn vào NSNN đảm bảo nhu cầu chi tiêu của nhà nước và xã hội. Hơn thế nữa, Thuế còn biểu thị sự đóng góp của nhân dân góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh điều đó đã được nâng lên thành “quyền và nghĩa vụ” của mỗi người trong xã hội. Lĩnh vực Thuế vì vậy mà có rất nhiều các quan hệ phức tạp, nhiều đối tượng trong đó có cả các quan hệ trong nước và ngoài nước, cho nên để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi các quyền, nghĩa vụ về thuế, giải quyết các xung đột về thuế, phù hợp với các quy định quốc tế về thuế thì rất cần thiết phải xây dựng đầy đủ các văn bản pháp luật thuế và hệ thống hóa pháp luật Thuế. Vấn đề này rất được Đảng và Nhà nước quan tâm đặc biệt là trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay. Thuế GTGT là một trong những sắc thuế lớn và quan trọng trong hệ thống thuế của nước ta, được áp dụng chính thức ở Việt Nam từ năm 1999 thay thế cho thuế doanh thu. Về mặt lý thuyết đây là loại thuế có tính khoa học rất cao, có khả năng tạo công bằng trong việc thu thuế, thúc đẩy các doanh nghiệp cải tiến quản lý, tăng năng suất lao động, hạ giá thành để cạnh tranh thuận lợi ở trong và ngoài nước, điều quan trọng hơn nữa là thuế GTGT có thể khắc phục được nhược điểm thu trùng lắp của thuế doanh thu trước đây. Thuế GTGT đóng góp phần lớn giá trị trong kế hoạch thu thuế của ngành thuế, điều đó nói lên vai trò quan trọng của nó trong hệ thống Thuế của nước ta hiện nay. Về mặt thực tế thì việc áp dụng luật thuế vào thực tiễn vẫn còn nhiều khó khăn, bất cập chưa được loại bỏ, kể từ năm 1999 khi luật thuế GTGT có hiệu lực cho đến nay, luật thuế này được sửa đổi hai lần đó là luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng số 07/2003/QH11 1
  10. và số 57/2005/QH11, Ngày 03/06/2008 tại kỳ họp thứ 3 quốc hội XII Quốc Hội đã thông qua Luật thuế giá trị gia tăng số 13/2008/QH12 thay thế luật thuế GTGT trước đó. Luật thuế giá trị gia tăng 2008 số 13/2008/QH12 ra đời đánh dấu sự phát triển mới về chính sách thuế giá trị gia tăng của nước ta và điều chỉnh bao quát, đầy đủ lĩnh vực thuế giá trị gia tăng nhất là trong mặt quản lý thuế. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế xã hội nhanh như hiện nay, các đối tượng nằm trong phạm vi chịu thuế, miễn thuế đã có nhiều thay đổi dẫn tới tình trạng những nhóm đối tượng này không được đối xử một cách công bằng, không khuyến khích được sản xuất, kinh doanh, gây thất thu cho ngân sách nhà nước. Ngoài ra, nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia ký kết các hiệp định song phương và đa phương về thuế, đặc biệt là tham gia vào WTO với những cam kết cắt giảm thuế theo lộ trình trong thời gian sắp tới đã được xây dựng và thông qua, vì thế pháp luật về thuế nói chung và pháp luật về thuế GTGT nói riêng cần phải được nghiên cứu một cách kỹ lưỡng để xây dựng được một hệ thống pháp luật thuế hoàn chỉnh phù hợp. Có thể thấy rằng, việc hoàn thiện pháp luật về thuế GTGT là hết sức cần thiết để Luật thuế GTGT được thực thi tốt hơn, phát huy được hết vai trò quan trọng của nó trong giai đoạn hiện nay, cũng như trong tương lai một cách ổn định và bền vững. Xuất phát từ yêu cầu này, đề tài nghiên cứu “Pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam và thực tiễn trên địa bàn tỉnh Nam Định” được người viết lựa chọn. 2. Tình hình nghiên cứu Để xây dựng được một hệ thống pháp lý hoàn chỉnh về pháp luật thuế GTGT, điều cần thiết là phải chỉ ra được những vướng mắc, những điểm không phù hợp với thực tế cả trong và ngoài nước và bổ sung những quy định mới hợp lý. Từ đó, ta mới có cơ sở để thảo luận đánh giá, đề ra 2
  11. phương hướng và phương pháp giải quyết các vướng mắc chính xác và có hiệu quả thực tế cao. Cùng với sự ra đời của luật thuế GTGT năm 2008, các quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực này cũng đã được xây dựng và bổ sung kịp thời đáp ứng nhu cầu của hoạt động thực tiễn phát sinh. Bên cạnh đó, nhiều cuộc hội thảo đánh giá kết quả đạt được của việc thực hiện luật này, cũng như những điểm còn hạn chế cần phải khắc phục trong thời gian tới cho phù hợp. Nhiều ý kiến, bài viết tham gia đánh giá của các chuyên gia, các giáo viên và các cá nhân, tổ chức nghiên cứu về thuế và thực hiện công việc liên quan đến thuế. Các ý kiến tham gia đó đã góp phần bổ sung thêm vào quá trình hoàn thiện hơn pháp luật về thuế GTGT. Dựa trên những cơ sở đó, người viết lựa chọn đề tài “Pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam và thực tiễn trên địa bàn tỉnh Nam Định” làm luận văn với suy nghĩ có thể tìm hiểu rõ hơn về loại hình thuế GTGT, các vấn đề pháp lý hiện hành điều chỉnh thuế GTGT, những vướng mắc, bất cập trong các quy định pháp luật, đồng thời đưa ra các đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về thuế GTGT, đưa ra các kiến nghị có liên quan để giúp cho việc thực hiện luật thuế GTGT đạt được hiệu quả hơn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Thông qua việc nghiên cứu có hệ thống các vấn đề lý luận về thuế GTGT, các quy định của pháp luật thực định về thuế GTGT, thực tế áp dụng pháp luật thuế GTGT trên địa bàn tỉnh Nam Định luận văn nhằm mục đích làm sáng tỏ các cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoàn thiện khung pháp luật về thuế GTGT, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng luật thuế GTGT nói chung và trên địa bàn phạm vi tỉnh Nam định nói riêng. Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là: 3
  12. Thứ nhất: Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về thuế GTGT và pháp luật thuế GTGT cũng như những quy định cụ thể của pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam. Thứ hai: Nghiên cứu, phân tích các số liệu liên quan đến thuế GTGT phát sinh trên địa bàn tỉnh Nam Định và các vấn đề pháp lý liên quan đến quá trình áp dụng pháp luật thuế GTGT vào thực tiễn trên địa bàn tỉnh Nam Định. Thứ ba: Căn cứ vào cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật thuế GTGT, luận văn chỉ ra những vướng mắc, bất cập trong các quy định của pháp luật về thuế GTGT hiện hành, đồng thời đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm đảm bảo thực hiện pháp luật thuế GTGT có hiệu quả trên địa bàn tỉnh Nam Định. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận về pháp luật thuế GTGT và thực tiễn của việc áp dụng luật thuế GTGT. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là: + Về mặt không gian: Trên địa bàn Tỉnh Nam Định + Về mặt thời gian : số liệu thống kê được lấy từ năm 2008-2012 5. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận để nghiên cứu đề tài này là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp song song với các phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh, sơ đồ. Phương pháp phân tích dùng để làm rõ khái niệm về thuế, các khái niệm liên quan đến thuế GTGT, bản chất của các đối tượng trong phạm vi của thuế GTGT và làm rõ thực trạng áp dụng thuế GTGT trên địa bàn tỉnh Nam Định. Phương pháp thống kê, so sánh được sử dụng để làm rõ sự khác biệt của công tác áp dụng thuế GTGT trong từng thời điểm. Ngoài ra, luận văn 4
  13. còn sử dụng các bản biểu, số liệu thống kê để phân tích, chứng minh các nội dung liên quan. Trên cơ sở đó, phương pháp tổng hợp được sử dụng để khái quát hoá nhằm đưa ra các đề xuất, kiến nghị của luận văn. 6. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm ba chương với kết cấu như sau: Chương 1: Thuế giá trị gia tăng và pháp luật thuế giá trị gia tăng Chương 2: Thực tiễn áp dụng thuế giá trị gia tăng trên địa bàn tỉnh Nam Định Chương 3: Tiếp tục hoàn thiện pháp luật thuế giá trị gia tăng và giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật thuế giá trị gia tăng trên địa bàn tỉnh Nam Định 5
  14. Chương 1 THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG VÀ PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG 1.1. Một số nhận thức về thuế giá trị gia tăng 1.1.1. Khái niệm thuế giá trị gia tăng Thuật ngữ thuế GTGT, tiếng anh là Value Added Tax (VAT), tiếng pháp là Taxe Sur la Valeur Ajoutee (TAV), thường được dùng để chỉ một loại thuế gián thu, tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Theo quy định tại Điều 2 Luật thuế GTGT năm 2008 thì: thuế GTGT là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng [11, tr.1]. So với thuế doanh thu thì thuế GTGT không tính trên phần doanh thu thu được từ việc bán hàng hay cung cấp dịch vụ mà là phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ. Vấn đề cơ bản là phải xác định được giá trị gia tăng ở mỗi giai đoạn sản xuất kinh doanh, có như vậy mới tính được một cách chính xác số thuế giá trị gia tăng của giai đoạn đó. Giá trị tăng thêm có thể được xác định theo nhiều phương thức tính khác nhau nhưng nguyên lý chung thì được xác định bằng chênh lệch giữa tổng giá trị hàng hoá, dịch vụ bán ra với tổng trị giá hàng hoá, dịch vụ mua vào tương ứng trong kỳ tính thuế: Tổng giá trị hàng hoá, Tổng giá trị hàng hoá, dịch Giá trị gia tăng = - dịch vụ bán ra vụ mua vào tương ứng Số thuế GTGT của hàng hóa, Thuế suất thuế GTGT của = x GTGT dịch vụ chịu thuế hàng hóa, dịch vụ đó (Nguồn Luật thuế GTGT) 6
  15. Điều cần lưu ý là trong khi thuế doanh thu thường được thiết kế theo hướng tiếp cận theo ngành thì thuế GTGT lại được tiếp cận theo quá trình. Nghĩa là, đối với thuế doanh thu, việc tính thuế không phụ thuộc vào quy trình sản xuất và tiêu thụ của sản phẩm. Bất kỳ hoạt động sản xuất, kinh doanh nào phát sinh doanh thu chịu thuế theo quy định đều phải nộp thuế doanh thu. Nói cách khác, do không được khấu trừ thuế doanh thu đầu vào nên các hoạt động mua hàng và bán hàng hay quá trình từ sản xuất, lưu thông, phân phối đến tiêu dùng có tính độc lập tương đối với nhau. Trong khi đó, do bản chất của thuế GTGT là thuế tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ nên yếu tố đầu vào cũng giữ một vai trò quan trọng như yếu tố đầu ra. Thuế GTGT đã đưa ra những khái niệm mới so với thuế doanh thu là khấu trừ và hoàn thuế. Các quá trình sản xuất, lưu thông và tiêu dùng là những mắt xích gắn kết với nhau rất chặt chẽ. Nhà phân phối mua sản phẩm của nhà sản xuất rồi bán lại cho người tiêu dùng sẽ được khấu trừ thuế đầu vào nhưng phải nộp thuế đầu ra. Điều này có nghĩa là nhà phân phối chỉ phải chịu khoản thuế GTGT tính trên phần giá trị tăng thêm ở khâu phân phối. Trước đó, nhà sản xuất đã phải nộp khoản thuế GTGT cho sản phẩm đầu ra bán cho nhà phân phối. Khoản thuế này cũng chính là khoản thuế mà nhà phân phối sẽ được hoàn lại. Người tiêu dùng mua hàng để sử dụng cuối cùng sẽ không được hoàn thuế GTGT đầu vào. Khoản thuế GTGT đầu vào của người tiêu dùng cũng chính là khoản thuế GTGT mà nhà phân phối phải nộp cho chính phủ. Theo cách tư duy mắt xích như vậy thì người tiêu dùng cuối cùng mới chính là người phải gánh chịu khoản thuế GTGT, trong khi đó nhà phân phối và nhà sản xuất chỉ là người “nộp thay” khoản thuế này cho người tiêu dùng. Như vậy, thuế GTGT là một loại thuế gián thu đánh vào hành vi tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ. Tuy nhiên về bản chất, thuế GTGT khác với các loại thuế gián thu khác, điều này thể hiện qua các đặc điểm của thuế GTGT. 7
  16. 1.1.2. Đặc điểm của thuế giá trị gia tăng Thứ nhất, thuế GTGT là một loại thuế gián thu đánh vào đối tượng tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT, là một yếu tố cấu thành trong giá cả hàng hoá và dịch vụ, là khoản thu được cộng thêm vào giá bán của người cung cấp, hay nói cách khác giá cả hàng hoá, dịch vụ mà người tiêu dùng mua bao gồm cả thuế GTGT. Tính gián thu của thuế GTGT biểu hiện: người mua hàng hoá, dịch vụ là người phải trả khoản thuế này thông qua giá mua của hàng hoá, dịch vụ. Như vậy, người mua không trực tiếp nộp thuế GTGT vào NSNN mà trả thuế thông qua giá thanh toán hàng hoá và dịch vụ cho người bán, trong đó bao gồm cả khoản thuế GTGT mà người mua trả. Người bán thực hiện nộp khoản thuế GTGT phải nộp đã được người mua trả vào NSNN. Thứ hai, phạm vi đối tượng thu thuế rất rộng, bao gồm mọi tổ chức, cá nhân có tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ. Thuế GTGT được áp dụng với cả hàng hoá, dịch vụ trong nước kể cả hàng nhập khẩu loại trừ một số hàng hoá, dịch vụ thuộc diện không chịu thuế theo quy định cụ thể của từng nước. Đặc điểm này thể hiện ưu tính của thuế GTGT đó là mặc dù mức thuế suất quy định không cao nhưng kết quả đem lại số thu cho Ngân sách Nhà nước rất lớn, lại là loại thuế gắn liền với giá bán nên dễ thu hơn các loại thuế trực thu khác. Thứ ba, thuế GTGT đánh vào giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ phát sinh ở các giai đoạn từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ đó. Tổng số thuế GTGT thu được ở tất cả các giai đoạn sẽ bằng số thuế GTGT tính trên giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng. Như vậy, về nguyên tắc chỉ cần thu thuế ở khâu bán hàng cuối cùng. Tuy nhiên, trên thực tế khó xác định được đâu là khâu bán hàng cuối cùng, đâu là khâu bán hàng trung gian. Do vậy cứ có hành vi mua bán hàng hóa chịu thuế là 8
  17. phải tính thuế. Số thuế GTGT ở khâu trước sẽ được tự động chuyển vào giá bán hàng ở khâu sau và người tiêu dùng cuối cùng là người phải trả toàn bộ số thuế GTGT đánh trên hàng hoá đó. Tổng số thuế người tiêu dùng cuối cùng phải trả bằng tổng số thuế phát sinh qua từng giai đoạn của quá trình sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ. Giả sử vải bán trên thị trường được luân chuyển qua các khâu: từ bông kéo thành sợi, sợi dệt thành vải và bán trên thị trường, thuế suất thuế GTGT ở mỗi khâu là 10%, ta có ví dụ sau: Cơ sở kinh Giá bán (chưa Giá trị Số thuế GTGT Giá mua doanh có thuế GTGT) gia tăng phải nộp (1) (2) (3) (4) = (3) - (2) (5) = (4)*10% Bông - 1000 1000 100 Sợi 1000 1500 500 50 Vải 1500 2300 800 80 Bán trên thị 2300 3000 7000 70 trường Tổng cộng 3000 300 Qua ví dụ trên ta thấy ở mỗi khâu luân chuyển thì cơ sở kinh doanh đều phải nộp thuế GTGT trên GTGT tương ứng của khâu đó, và tổng số thuế GTGT ở các khâu cộng lại chính bằng số thuế cuối cùng mà người tiêu dùng phải chịu (100 + 50 + 80 + 70 = 300). So sánh với thuế doanh thu ta thấy: thuế doanh thu quy định doanh thu phát sinh là cơ sở để thực hiện chế độ thu nộp thuế. Do đó Nhà nước đánh thuế trên toàn bộ doanh thu phát sinh của sản phẩm qua mỗi lần chuyển dịch từ khâu sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Nếu các sản phẩm, hàng hoá chịu thuế càng qua nhiều khâu thì số thuế Nhà nước thu cũng tăng thêm qua các khâu nên việc áp dụng thuế doanh thu dẫn đến tình trạng thuế thu trùng lặp đối với phần doanh thu đã chịu thuế ở công đoạn trước. Ðiều đó mang tính bất hợp lý, tác 9
  18. động tiêu cực đến sản xuất và lưu thông hàng hoá. Như vậy, đặc điểm trên cho thấy thuế GTGT đã khắc phục được nhược điểm của thuế doanh thu là “thuế chồng lên thuế”. Thứ tư, thuế GTGT là loại thuế mang tính trung lập cao bởi vì mục đích của nó không nhằm điều chỉnh sự chênh lệch về thu nhập hay tài sản như thuế thu nhập, thuế tài sản. Tính trung lập biểu hiện ở hai khía cạnh: - Thuế GTGT không chịu ảnh hưởng bởi kết quả kinh doanh của người nộp thuế, do người nộp thuế chỉ là người “thay mặt” người tiêu dùng nộp hộ khoản thuế này vào NSNN. Do vậy thuế GTGT không phải là yếu tố của chi phí sản xuất mà chỉ đơn thuần là một khoản thu được cộng thêm vào giá bán của người cung cấp hàng hoá dịch vụ. - Thuế GTGT không bị ảnh hưởng bởi quá trình tổ chức và phân chia quá trình sản xuất kinh doanh, bởi tổng số thuế ở tất cả các giai đoạn luôn bằng số thuế tính trên giá bán ở giai đoạn cuối cùng bất kể số giai đoạn nhiều hay ít. Thứ năm, thuế GTGT chỉ đánh vào hoạt động tiêu dùng diễn ra trong phạm vi lãnh thổ, không đánh vào hành vi tiêu dùng ngoài lãnh thổ. Đặc điểm này tạo ra sự công bằng trong những giao dịch quốc tế thông qua việc không thu thuế đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu và đánh thuế đối với hàng hoá, dịch vụ nhập khẩu. Ngoài ra, thuế GTGT còn có một số đặc điểm khác như là loại thuế gián thu điển hình, được tính dựa trên giá trị sản phẩm hàng hoá và dịch vụ chứ không căn cứ vào hình thái hiện vật cũng như công dụng của chúng. 1.1.3. Vai trò của thuế giá trị gia tăng trong hệ thống thuế Thuế là công cụ rất quan trọng để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi nền kinh tế 10
  19. nước ta đang trong quá trình vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Là một sắc thuế gián thu, thuế GTGT góp phần bổ sung và hoàn thiện hệ thống thuế của mỗi quốc gia. Nếu như trước đây việc áp dụng thuế doanh thu đã gây rất nhiều khó khăn cho cả công tác thu thuế của các cơ quan thuế lẫn nghĩa vụ nộp thuế của các đối tượng nộp thì sự ra đời của thuế GTGT đã giúp cho những công việc đó trở nên đơn giản và nhanh gọn hơn nhiều. Rất nhiều nước, thuế GTGT tạo nguồn thu chủ yếu trong các nguồn thu từ thuế, do đó thuế giá trị gia tăng có vai trò rất quan trọng và được thể hiện như sau: Một là, thuế GTGT có tác dụng điều tiết thu nhập của tổ chức, cá nhân tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT. Hai là, huế GTGT là khoản thu quan trọng của Ngân sách nhà nước. Thuế giá trị gia tăng tạo được nguồn thu lớn và tương đối ổn định cho ngân sách nhà nước. Ở Việt Nam, thuế GTGT hiện nay chiếm tỷ trọng khoảng 20-23% trong tổng thu từ thuế, phí và lệ phí. Ba là, thuế GTGT chỉ tính vào giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ qua các khâu sản xuất, lưu thông, tiêu dùng, không tính vào phần giá trị đã chịu thuế GTGT ở các khâu trước, thuế đã nộp ở các khâu trước được tính khấu trừ ở khâu sau nên khuyến khích các tổ chức, cá nhân bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, khuyến khích chuyên môn hoá, hợp tác hoá sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, phù hợp với phát triển kinh tế thị trường. Bốn là, khuyến khích xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ thông qua áp dụng thuế suất 0%, doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ không những không phải chịu thuế GTGT ở khâu xuất khẩu mà còn được hoàn 11
  20. toàn bộ số thuế đầu vào đã thu ở khâu trước nên có tác dụng giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh về giá hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu. Năm là, thúc đẩy thực hiện chế độ hạch toán kế toán; sử dụng hoá đơn, chứng từ và thanh toán qua ngân hàng vì việc tính thuế đầu ra, khấu trừ thuế GTGT đầu vào quy định rõ phải căn cứ trên hoá đơn mua vào, bán ra. Tóm lại: Thuế GTGT là một sắc thuế tiên tiến, việc áp dụng thuế GTGT khắc phục nhược điểm của thuế doanh thu trước đây là “thuế chồng lên thuế”, áp dụng thuế GTGT có nhiều ưu điểm, tác dụng tích cực tới khuyến khích sản xuất kinh doanh, xuất khẩu, tăng cường đầu tư, tăng thu cho NSNN. 1.1.4. Điều kiện áp dụng thuế giá trị gia tăng Tuy là một sắc thuế tiến bộ, đã và đang được rất nhiều nước nghiên cứu áp dụng nhưng không phải trong điều kiện nào cũng có thể vận dụng thành công loại thuế này. Để đạt được hiệu quả cao nhất trong việc triển khai luật thuế GTGT cần phải có các điều kiện sau: Một là, nền kinh tế phát triển ổn định: thuế GTGT được nghiên cứu và vận dụng thay cho thuế doanh thu bởi khắc phục được sự trùng lặp trong tính thuế, tuy nhiên nếu vận dụng loại thuế này trong nền kinh tế không ổn định, giá cả của các loại hàng hoá thường xuyên thay đổi một cách thất thường thì thuế đầu ra của các cơ sở sản xuất kinh doanh sẽ nhỏ hơn thuế GTGT đầu vào, như vậy Nhà nước không những không thu được thuế mà còn phải hoàn thuế. Bởi vậy nền kinh tế ổn định đảm bảo nguồn thu cũng ổn định cho ngân sách Nhà nước từ thuế GTGT, giảm các trường hợp hoàn thuế. Hai là, Nhà nước phải thực sự quản lý được nền kinh tế bằng pháp luật: nếu để nền kinh tế tự do hoat động thì mọi nỗ lực thu thuế của Nhà nước đều trở nên vô nghĩa. Chúng ta đều biết rằng thuế GTGT đánh trên 12
  21. phần giá trị tăng thêm của mỗi giai đoạn sản xuất, bởi vậy nếu pháp luật không quy định rõ ràng thì việc thất thoát thuế đối với các khâu trước là hoàn toàn có thể xảy ra. Thu thuế và quản lý thuế là hai mặt của một quá trình thống nhất biện chứng với nhau, nên ngoài việc tập trung thu thuế cũng luôn chú trọng đến cơ chế quản lý thuế sao cho thật đồng bộ và đúng quy định của pháp luật. Ba là, các cơ sở kinh doanh đều thực hiện việc ghi chép, sổ sách kế toán phải thống nhất, hoá đơn chứng từ cần được sử dụng trong mọi giao dịch. Việc khấu trừ thuế GTGT đầu vào phụ thuộc vào hoá đơn chứng từ trong các giao dịch, bởi vậy không những bắt buộc người mua và bán phải lập hoá đơn chứng từ mà còn buộc người nộp thuế phải hạch toán đầy đủ, chính xác hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Ngoài ra, trong nền kinh tế thị trường có rất nhiều thành phần kinh tế tham gia trao đổi kinh doanh với nhau mà mỗi một thành phần đều bình đẳng trước pháp luật, yêu cầu có sự thống nhất hệ thống tài khoản, các hoá đơn chứng từ càng trở nên cần thiết. Bốn là, quan hệ thanh toán trong nền kinh tế phát triển: nền kinh tế thị trường cùng với tốc độ giao dịch diễn ra rất nhanh chóng, khối lượng lớn, vì thế các chủ thể tham gia khó thực hiện việc thanh toán thủ công. Hệ thống ngân hàng phát triển giúp cho quan hệ thanh toán trở nên thuận tiện và hiệu quả hơn. Thông qua việc thanh toán qua ngân hàng Nhà nước có thể nắm bắt được các hoạt động cũng như kết quả kinh doanh của các đơn vị kinh tế từ đó kiểm tra được việc kê khai, nộp thuế của các đối tượng này. Năm là, trình độ của cán bộ quản lý, thu thuế: cán bộ quản lý, thu thuế phải được đào tạo về chuyên môn, có năng lực thực hiện các quy trình, kỹ thuật quản lý thu thuế theo đúng quy định của pháp luật. Trên 13
  22. thực tế, việc thất thu thuế mà nguyên nhân là do đội ngũ cán bộ thuế cũng là vấn đề đang được lưu tâm. Một phần do phẩm chất thoái hoá của một số cán bộ cố tình làm ngơ cho các đối tượng nộp thuế trốn thuế để tư lợi cá nhân, một phần do trình độ hạn chế đã không phát hiện ra được các thủ đoạn tinh vi của các đối tượng nhằm chiếm đoạt tiền thuế. Bởi vậy, để có kết quả tốt nhất đối với sắc thuế GTGT thì công tác đào tạo cán bộ là điều kiện không thể thiếu. Sáu là, các cơ sở kinh doanh phải có ý thức chấp hành pháp luật nói chung và tính tự giác trong kê khai nộp thuế: một sắc thuế cho dù được nghiên cứu, xây dựng kỹ lưỡng đến đâu mà áp dụng trong môi trường mọi tổ chức, cá nhân đều không có ý thức tuân thủ pháp luật và tính tự giác kê khai nộp thuế thì cũng không thể đạt được hiệu quả cao. Bảy là, trình độ dân trí tương đối cao: người dân phải hiểu về nghĩa vụ đóng thuế, biết ghi chép, đọc, viết, lưu giữ hoá đơn chứng từ. Đó là cơ sở cho việc tính thuế. Điều này sẽ giúp cho luật thuế đi vào cuộc sống một cách nhanh chóng, tránh được nhiều thắc mắc của người dân đối với các sắc thuế, đồng thời cũng đảm bảo cho quyền lợi cũng như nghĩa vụ của họ. Tám là, phải có sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật hiện đại trong quản lý thu thuế, đó chính là hệ thống máy tính cần được trang bị đồng bộ không những trong nội bộ cơ quan thuế mà còn giữa cơ quan thuế với các ngành và đơn vị kinh doanh, điều này sẽ góp phần gắn kết cơ quan thuế với các ngành, các đối tượng nộp thuế đồng thời còn làm cho quá trình kê khai, nộp thuế diễn ra nhanh chóng, chính xác và đỡ tốn kém chi phí. Tóm lại: nếu áp dụng pháp luật thuế GTGT trong môi trường đầy đủ các điều kiện trên thì sẽ đạt hiệu quả rất cao, không những phát huy tối đa những ưu điểm mà còn có thể hạn chế đến mức tối thiểu các nhược điểm của bản thân sắc thuế này. 14
  23. 1.2. Pháp luật thuế giá trị gia tăng 1.2.1. Khái niệm và sự cần thiết khách quan của pháp luật thuế giá trị gia tăng a. Khái niệm pháp luật thuế giá trị gia tăng Thuế nói chung và thuế GTGT nói riêng là nghĩa vụ pháp lý phát sinh trên cơ sở hành vi hợp pháp, hành vi sản xuất, kinh doanh của các thể nhân, pháp nhân được nhà nước thừa nhận và bảo hộ. Nghĩa vụ pháp lý này phát sinh trên cơ sở bắt buộc của Nhà nước bằng luật và phát sinh giữa các thể nhân, pháp nhân với nhà nước trong mối quan hệ với luật công. Nghĩa vụ thuế GTGT được hiểu là mức độ, khả năng xử sự cần phải có của các bên khi tham gia quan hệ thuế GTGT, được pháp luật quy định và được nhà nước bảo đảm thực hiện. Nội dung của nghĩa vụ thuế GTGT bao gồm: - Các chủ thể phải tiến hành những xử sự nhất định để đáp ứng quyền của chủ thể bên kia, như để đáp ứng quyền thu thuế GTGT của nhà nước, đối tượng nộp thuế GTGT phải thực hiện các xử sự bắt buộc như đăng ký, kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế ngược lại để đảm bảo quyền của đối tượng nộp thuế GTGT Nhà nước cũng phải thực hiện một số hành vi nhất định như khấu trừ thuế, hoàn thuế, xét miễn giảm thuế - Các chủ thể phải chịu trách nhiệm pháp lý khi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các xử sự bắt buộc về thuế GTGT mà pháp luật đã quy định. Mức độ, khả năng xử sự cần phải có của các chủ thể đều được pháp luật quy định, vì vậy khi nói đến nghĩa vụ thuế GTGT là phải nói đến cơ sở pháp lý của nó. Ở Việt Nam qua khảo sát thực tiễn pháp lý, có thể thấy cơ sở pháp lý của nghĩa vụ thuế GTGT bao gồm: - Hiến pháp: Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước, quy định những vấn đề chung nhất, cơ bản nhất của một nước, trong đó thuế là nghĩa 15
  24. vụ cơ bản của công dân, vì vậy nghĩa vụ này trước hết được quy định trong hiến pháp. Hiến pháp năm 1992 của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Điều 80 quy định: “Công dân có nghĩa vụ đóng thuế và lao động công ích theo quy định của pháp luật”. - Luật thuế GTGT: xuất phát từ nguyên tắc thuế phải do luật định, không có Luật thuế thì không có nghĩa vụ thuế. Vì vậy Luật thuế GTGT là cơ sở pháp lý cơ bản của thuế GTGT. - Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết thi hành luật thuế GTGT. - Thông tư của Bộ Tài chính và các Bộ khác có liên quan hướng dẫn thi hành luật thuế GTGT. Các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ thuế GTGT được thể hiện dưới các hình thức văn bản khác nhau và do nhiều cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, song cần phải khẳng định Luật thuế GTGT là cơ sở pháp lý làm phát sinh nghĩa vụ thuế GTGT, là bộ phận cơ bản có giá trị pháp lý chi phối các văn bản pháp luật khác trong hệ thống các văn bản pháp luật về thuế GTGT. Như vậy, pháp luật thuế GTGT là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ thuế GTGT. Hệ thống các quy phạm pháp luật về thuế GTGT, căn cứ vào nội dung các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế GTGT mà các quy phạm pháp luật đó điều chỉnh có thể phân thành: - Nhóm các quy phạm pháp luật về vật chất: nhóm các quy phạm pháp luật này điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể nghĩa vụ thuế GTGT với nhà nước, bao gồm những quy định về phạm vi áp dụng thuế GTGT (đối tượng chịu thuế GTGT), phạm vi không thuộc diện áp dụng thuế GTGT (đối tượng không thuộc diện chịu thuế GTGT), đối 16