Luận văn Pháp luật phát hành trái phiếu của ngân hàng thương mại ở Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật phát hành trái phiếu của ngân hàng thương mại ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_phap_luat_phat_hanh_trai_phieu_cua_ngan_hang_thuong.pdf
Nội dung text: Luận văn Pháp luật phát hành trái phiếu của ngân hàng thương mại ở Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HUẾ PHÁP LUẬT PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2013
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HUẾ PHÁP LUẬT PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Lan Hương Hà nội – 2013
- MỤC LỤC Mục lục Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt Trang MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU CỦA NHTM Ở VIỆT NAM 4 1.1 Khái luận về Ngân hàng thương mại (NHTM). 6 1.2 Trái phiếu và hoạt động trái phiếu của Ngân hàng thương mại (NHTM) 6 1.2.1 Trái phiếu 6 1.2.2 Khái niệm và đặc điểm của trái phiếu do NHTM phát hành 8 1.2.3 Bản chất và đặc điểm của hoạt động phát hành trái phiếu của NHTM 9 1.3 Loại hình và hình thức trái phiếu 10 1.3.1 Trái phiếu không chuyển đổi: 10 1.3.2 Trái phiếu chuyển đổi: 11 1.4 Kỳ hạn trái phiếu 13 1.5 Đồng tiền phát hành và thanh toán trái phiếu 13 1.6 Vai trò của hoạt động phát hành trái phiếu của NHTM 14 1.7 Thực tiễn hoạt động phát hành trái phiếu của các doanh nghiệp ở một số nước trên thế giới. 16 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU CỦA NHTM Ở VIỆT NAM 24 2.1 Khái quát Pháp luật Việt Nam về hoạt động phát hành trái phiếu của NHTM. 24 2.2 Nguyên tắc phát hành trái phiếu của các NHTM 31 2.3 Chuyển nhượng trái phiếu 32 2.4 Phương thức phát hành trái phiếu. 32 2.5 Điều kiện phát hành trái phiếu 34 2.5.1. Đối với chào bán trái phiếu ra công chúng 34
- 2.5.2. Đối với trái phiếu phát hành riêng lẻ trong nước 36 2.5.3. Đối với phát hành trái phiếu quốc tế 38 2.6 Phương án phát hành trái phiếu và thẩm quyền phê duyệt 39 2.6.1. Đối với phát hành trái phiếu riêng lẻ trong nước 39 2.6.2. Đối với phát hành trái phiếu ra công chúng 41 2.6.3. Đối với phát hành trái phiếu quốc tế 41 2.7 Hồ sơ, phương thức và thời hạn xem xét việc phát hành trái phiếu của NHTM. 42 2.7.1 Hồ sơ phát hành trái phiếu 42 2.7.2. Phương thức phát hành trái phiếu 44 2.7.3 Thời hạn xem xét việc phát hành trái phiếu 45 2.8 Thông báo phát hành trái phiếu và công bố thông tin 45 2.8.1. Thông báo phát hành trái phiếu 45 2.8.2. Công bố thông tin phát hành trái phiếu 46 2.9 Quyền lợi của người mua trái phiếu và trách nhiệm của NHTM 49 CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU CỦA NHTM Ở VIỆT NAM. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP 56 3.1 Thực tiễn hoạt động phát hành trái phiếu của các NHTM ở Việt Nam 56 3.2 Đánh giá ưu và nhược điểm của việc phát hành trái phiếu của các Ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời gian qua. 71 3.3 Nguyên nhân hạn chế sự phát triển của hoạt động phát hành trái phiếu của NHTM ở Việt Nam trong thời gian qua. 77 3.5 Kiến nghị và giải pháp 82 KẾT LUẬN 101 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .103
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Công ty cổ phần: CTCP Luật các tổ chức tín dụng năm 2010: Luật TCTD 2010 Luật Chứng khoán: Luật CK Ngân hàng thương mại: NHTM Tổ chưc tín dụng: TCTD Nghị định: NĐ Phát hành trái phiếu: PHTP
- MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Những năm gần đây, Ngân hàng thương mại đã hình thành, tồn tại và phát triển gắn liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Các ngân hàng thương mại đã áp dụng nhiều kênh huy động vốn khác nhau trong đó hoạt động phát hành trái phiếu của các NHTM là tạo ra một kênh huy động vốn rất hiệu quả, nhất là trong thời buổi cạnh tranh ngày càng gay gắt. Trái phiếu NHTM được nhận định là rất thanh khoản, có thể sinh lời cao, lãi suất hấp dẫn, điều kiện linh hoạt nên các NHTM nhờ phát hành trái phiếu mà thu về hàng ngàn tỷ đồng vốn trung dài hạn. Vì thế, pháp luật cần có các quy định chặt chẽ về phát hành trái phiếu của các các ngân hàng thương mại để tăng cường hoạt động hiệu quả trong hoạt huy động vốn doanh cuả các ngân hàng thương mại. Vì vậy việc nghiên cứu và hoàn thiện các quy định của pháp luật về phát hành trái phiếu của ngân hàng thương mại ở Việt Nam là một vấn đề mang tính cấp thiết. 2. Tình hình nghiên cứu trong nước Đã có rất nhiều sách báo, tạp chí khoa học chuyên ngành nghiên cứu về phát hành trái phiếu của ngân hàng thương mại ở Việt Nam như tạp chí ngân hàng, tạp chí luật học, trong đó các tài liệu này đã nói khái quát về tổ chức và hoạt động của NHTMCP. Pháp luật Việt nam hiện hành cũng có các quy định về phát hành trái phiếu của các ngân hàng thương mại. Các nghiên cứu trước đó đã đánh giá một các khái quát về phát hành trái của các doanh nghiệp nói chung bao gồm cả ngân hàng thương mại ở Việt Nam, theo đó các nghiên cứu này đã đánh giá cao vai trò của hoạt động phát hành trái phiếu trong việc huy động vốn của các ngân hàng. Các nghiên cứu này cũng đã nhận xét về những ưu điểm cũng như nhược điểm của pháp luật Việt Nam hiện hành về phát hành trái phiếu của các Doanh nghiệp nói chung. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào chuyên sâu về phát hành trái phiếu của ngân hàng thương mại ở Việt Nam. 1
- 3. Mục tiêu nghiên cứu 3.1. Mục tiêu tổng quát Mục tiêu cuối cùng, chung nhất của vấn đề nghiên cứu là nhằm tăng cường hoạt động hiệu quả cho hoạt động phát hành trái phiếu của các NHTM ở Việt Nam và hạn chế rủi ro trong hoạt động phát hành trái phiếu của các ngân hàng này. 3.2 Mục tiêu cụ thể Phân tích các quy định cụ thể của pháp luật Việt Nam hiện hành về quy chế pháp lý của hoạt động phát hành trái phiếu của ngân hàng thương mại ở Việt Nam và đối chiếu, so sánh với các quy định của pháp luật các nước khác trên thế giới về để khắc phục, bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về phát hành trái phiếu của ngân hàng thương mại. 4. Tính mới và những đóng góp của đề tài - Luận văn nghiên cứu, đánh giá những quy định hiện hành của pháp luật Việt nam về phát hành trái phiếu của NHTM, thực tiễn áp dụng pháp luật của các NHTM trong hoạt động phát hành trái phiếu và so sánh những quy định này với pháp luật của một số nước trên thế giới. Trên cơ sở đó luận văn đưa ra những nhận xét đánh giá và phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt nam về phát hành trái phiếu của các ngân hàng thương mại. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam về phát hành trái phiếu của các NHTM và việc áp dụng các quy định này của pháp luật vào thực tiễn hoạt động của các NHTM. Phạm vi nghiên cứu là các quy định hiện hành của pháp luật Việt nam và pháp luật cuả một số nước trên thế giới về phát hành trái phiếu của NHTM. 2
- 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về mặt lý luận: Đây là công trình nghiên cứu chuyên khảo đồng bộ đầu tiên đề cập một cách có hệ thống và toàn diện những vẫn đề lý luận và thực tiễn về phát hành trái phiếu của NHTM ở Việt Nam ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học với những đóng góp về mặt khoa học đã nêu trên. Về mặt thực tiễn: Luận văn đã đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện những quy định của pháp luật về phát hành trái phiếu của NHTM ở Việt Nam, so sánh với một số nước trên thế giới, và chỉ ra những nguyên nhân tồn tại, yếu kém của hoạt động phát hành trái phiếu của các NHTM ở Việt Nam, cũng như những vướng mắc và bất cập của những quy định của pháp luật trong quá trình áp dụng. Nghiên cứu các giải pháp để hoàn thiện pháp luật về phát hành trái phiếu của NHTM ở Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương: CHƯƠNG 1: Những vấn đề khái quát về hoạt động phát hành trái phiếu của Ngân hàng thương mại (NHTM) ở Việt Nam. CHƯƠNG 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam đối với hoạt động phát hành trái phiếu của NHTM. CHƯƠNG 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động phát hành trái phiếu của NHTM ở Việt Nam. Một số kiến nghị và giải pháp. 3
- CHƯƠNG 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU CỦA NHTM Ở VIỆT NAM 1.1 Khái luận về Ngân hàng thương mại (NHTM). * Khái niệm về NHTM Ngân hàng thương mại (NHTM) là tổ chức kinh doanh tiền tệ tín dụng có vị trí quan trọng nhất trong nền kinh tế thị trường ở các nước. Có nhiều khái niệm khác nhau về ngân hàng thương mại: Ở Mỹ: NHTM là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính. Ở Pháp: NHTM là những xí nghiệp và cơ sở nào thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính. Ở Ấn Độ: NHTM là cơ sở nhận các khoản ký thác để cho vay hay tài trợ đầu tư. Theo Luật Các tổ chức tín dụng Việt Nam năm 2010: “Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”. Theo Nghị định số 59/2009/NĐ-CP ngày 16 tháng 07 năm 2009 của Chính Phủ quy định về tổ chức và hoạt động của NHTM thì : “Ngân hàng thương mại là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật. Từ những nhận định trên có thể thấy NHTM chúng ta có thể đưa ra khái niệm chung nhất về Ngân hàng thương mại: Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt kinh 4
- doanh về tiền tệ với hoạt động thường xuyên là huy động vốn, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cung cấp các dịch vụ tài chính và các hoạt động khác có liên quan. NHTM là tổ chức tài chính trung gian cung cấp danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất. Ngoài ra, NHTM còn cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội. Trong vài năm qua, những đóng góp của hệ thống NHTM Việt Nam vào quá trình đổi mới và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá là rất lớn. Cùng với quá trình cải cách và đổi mới, số lượng các NHTM VN đã tăng nhanh, đã và đang từng bước chuyển dần hướng tới một hệ thống tương thích của các nền kinh tế đang nổi và mới phát triển. Các NHTM không chỉ tiếp tục khẳng định là một kênh dẫn vốn quan trọng cho nền kinh tế, mà còn góp phần ổn định sức mua đồng tiền. * Hoạt động, chức năng, vai trò của NHTM Các hoạt động chủ yếu của NHTM bao gồm: Nhận tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các loại tiền gửi khác; phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu để huy động vốn trong nước và nước ngoài; cấp tín dụng; mở tài khoản thanh toán cho khách hàng; cung ứng các phương tiện thanh toán; cung ứng các dịch vụ thanh toán khác. Các hoạt động này được quy định trong Luật các tổ chức tín dụng và lần lượt được cụ thể hóa, quy định chi tiết hơn trong các nghị định của Chính phủ và các văn bản dưới luật. NHTM có các chức năng làm trung gian tín dụng, chức năng thanh toán, chức năng tạo tiền. Có thể nhận thấy, sau 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước làm thay đổi cơ bản nền kinh tế với những chỉ số kinh tế ngày càng khả quan, hệ thống ngân hàng đã đóng một vai trò quan trọng. Những đổi đóng góp của hệ thống ngân hành nói chung và của các NHTM nói riêng vào nền kinh tế của đất nước được coi là khâu đột phá, có những đóng góp tích cực cho nền kinh tế. 5
- 1.2 Trái phiếu và hoạt động trái phiếu của Ngân hàng thương mại (NHTM) 1.2.1 Trái phiếu Theo quy định tại Khoản 1, Điều 2 Nghị định 90/2011/NĐ-CP của Chính phủ về phát hành trái phiếu doanh nghiệp (sau đây goi tắt là Nghị định 90) thì “trái phiếu doanh nghiệp là loại chứng khoán nợ do doanh nghiệp phát hành, xác nhận nghĩa vụ trả gốc, lãi, và các nghĩa vụ khác (nếu có) của doanh nghiệp đối với chủ sở hữu trái phiếu. Trái phiếu doanh nghiệp được phát hành dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, với mệnh giá tối thiểu là 100.000 đồng. Các mệnh giá khác là bội số của 100.000 đồng. Tiền thu từ phát hành trái phiếu, doanh nghiệp chỉ được sử dụng cho mục đích thực hiện các khoản đầu tư, cơ cấu lại khoản vay trung và dài hạn hoặc tăng quy mô vốn hoạt động. Căn cứ mức độ uy tín của doanh nghiệp, hiệu quả của dự án đầu tư và tình hình thị trường tài chính - tiền tệ, doanh nghiệp phát hành trái phiếu quyết định lãi suất trái phiếu cho từng đợt phát hành. Lãi suất trái phiếu có thể xác định cố định cho cả kỳ hạn hoặc thả nổi trên thị trường. Trường hợp phát hành trái phiếu với lãi suất thả nổi, tổ chức phát hành công bố mức lãi suất tham chiếu để làm căn cứ xác định lãi suất phải trả cho người sở hữu trái phiếu. Trái phiếu doanh nghiệp bao gồm: trái phiếu chuyển đổi (loại trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông của cùng một tổ chức phát hành theo các điều kiện đã được xác định trong phương án phát hành) và trái phiếu không chuyển đổi (loại trái phiếu không có khả năng chuyển đổi thành cổ phiếu). Tuy nhiên, chỉ có công ty cổ phần mới được quyền phát hành trái phiếu chuyển đổi. Thông thường, trái phiếu có những đặc điểm chủ yếu sau: * Mệnh giá: 6
- Là giá trị danh nghĩa được thể hiện trên trái phiếu mà tổ chức phát hành cam kết sẽ hoàn trả cho người sở hữu trái phiếu vào ngày đáo hạn. * Lãi suất trái phiếu: Mỗi trái phiếu đều có một mức lãi suất mà tổ chức phát hành cam kết sẽ thanh toán cho chủ sở hữu trái phiếu một số tiền lãi vào một ngày xác định và có thể theo định kỳ. Trái phiếu phát hành với mức lãi suất danh nghĩa được xác định bởi các điều kiện thị trường tại thời điểm chào bán trái phiếu. Lãi suất thường được công bố theo tỷ lệ phần trăm (%) so với mệnh giá của trái phiếu. Số tiền lãi trái phiếu được tính bằng mệnh giá trái phiếu nhân với lãi suất trái phiếu. Thông thường, thời hạn trả lãi của trái phiếu được quy định một năm hoặc nửa năm một lần. * Giá trái phiếu: Đây là số tiền thực tế mà nhà đầu tư bỏ ra để được quyền sở hữu trái phiếu. Trái phiếu có thể được mua bằng mệnh giá, cao hơn hoặc thấp hơn mệnh giá (còn gọi là giá chiết khấu). Dù vậy, tiền lãi trả cho các trái chủ luôn được xác định trên mệnh giá trái phiếu; đồng thời, trái chủ sẽ được hoàn trả vốn gốc ban đầu bằng với mệnh giá trái phiếu vào ngày đáo hạn. * Kỳ hạn của trái phiếu: Kỳ hạn cho biết khoảng thời gian mà người nắm giữ trái phiếu nhận được tiền lãi định kỳ và thời điểm mà tổ chức phát hành phải hoàn trả khoản vốn gốc ban đầu cho các nhà đầu tư trái phiếu theo mệnh giá trái phiếu. Theo quy định tại Điều 6 Nghị định 90 thì: Trái phiếu doanh nghiệp có kỳ hạn từ một (01) năm trở lên; Doanh nghiệp phát hành quyết định kỳ hạn trái phiếu trên cơ sở nhu cầu sử dụng vốn và công bố tại phương án phát hành. Kỳ hạn trái phiếu có ý nghĩa rất quan trọng vì lợi tức trái phiếu phụ thuộc vào thời hạn trái phiếu. Kỳ hạn trái phiếu càng dài thì giá trái phiếu càng 7
- biến động lớn do sự ảnh hưởng của biến động lãi suất thị trường. Hay nói cách khác, sự biến động của giá trái phiếu thì phụ thuộc vào kỳ hạn của trái phiếu. Trái phiếu trên thị trường tài chính có rất nhiều loại, tuỳ theo tiêu chí khác nhau mà trái phiếu sẽ được phân thành các loại tương ứng. Nếu căn cứ vào tiêu chí đối tượng phát hành và mục đích phát hành, trái phiếu được phân thành hai loại là trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp. Theo đó, trái phiếu chính phủ (TPCP) là loại trái phiếu do Chính phủ hoặc chính quyền địa phương phát hành nhằm mục đích cân đối ngân sách, tài trợ cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng và được đảm bảo bằng ngân sách quốc gia hoặc ngân sách địa phương. Trái phiếu chính phủ là loại trái phiếu được đánh giá an toàn nhất, hầu như không có rủi ro vì nó được đảm bảo bằng nguồn vốn ngân sách. Trong khi đó, trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) là loại trái phiếu do các DN phát hành nhằm huy động vốn trung và dài hạn để đầu tư phát triển, mở rộng quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trái phiếu doanh nghiệp được đánh giá có mức rủi ro cao hơn trái phiếu chính phủ, vì vậy lãi suất của trái phiếu doanh nghiệp thường cao hơn lãi suất của trái phiếu chính phủ ở cùng kỳ hạn [16] 1.2.2 Khái niệm và đặc điểm của trái phiếu do NHTM phát hành Trái phiếu do NHTM phát hành là một loại trái phiếu doanh nghiệp. Trái phiếu doanh nghiệp là loại trái phiếu được phát hành bởi các doanh nghiệp nhằm huy động vốn trung dài hạn cho đầu tư phát triển. Doanh nghiệp (bao gồm các NHTM) sẽ phát hành trái phiếu khi có nhu cầu huy động vốn lớn để tài trợ cho việc đầu tư mở rộng, phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh trong trường hợp không đủ điều kiện hoặc không muốn phát hành cổ phiếu, hoặc tùy thuộc vào chiến lược quản lý vốn của mỗi doanh nghiệp. Về bản chất, trái phiếu doanh nghiệp chính là chứng khán xác nhận nợ của doanh nghiệp phát hành, trong đó doanh nghiệp phát hành trái phiếu là người đi vay còn người mua trái phiếu (trái chủ) chính là người cho vay. Trái phiếu doanh nghiệp 8
- chính là sự chứng nhận về mặt pháp lý, ghi nhận sự liên hệ giữa quyền của chủ nợ đối với doanh nghiệp và những nghĩa vụ tài chính mà doanh nghiệp phải thực hiện. Thông thường, trái phiếu doanh nghiệp được trả lãi theo thời hạn một năm hoặc nửa năm một lần. Trong trường hợp doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, các trái chủ được quyền ưu tiên thanh toán trước các cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi. Trong phân khúc trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu do các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính phát hành thường được phân loại thành một nhánh riêng. Về bản chất, trái phiếu do NHTM phát hành có thể coi là một dạng huy động tiết kiệm đặc biệt của các ngân hàng. 1.2.3 Bản chất và đặc điểm của hoạt động phát hành trái phiếu của NHTM Việc phát hành trái phiếu của NHTM thực chất là một hình thức huy động vốn, có thể chính các công ty chứng khoán mua kinh doanh. Hoạt động phát hành trái phiếu của các NHTM là tạo ra một kênh huy động vốn rất hiệu quả, nhất là trong thời buổi cạnh tranh ngày càng gay gắt. Trái phiếu NHTM được nhận định là rất thanh khoản, có thể sinh lời cao, lãi suất hấp dẫn, điều kiện linh hoạt nên các NHTM nhờ phát hành trái phiếu mà thu về hàng ngàn tỷ đồng vốn trung dài hạn. Bởi lãi suất trái phiếu ngân hàng có mức trên dưới 10,5% một năm, bên mua có quyền bán lại trái phiếu cho bên bán khi chưa đến kỳ đáo hạn. Lãi suất được thanh toán cuối kỳ hoặc hàng năm Một số doanh nghiệp hiện trích một phần vốn ra đầu tư trái phiếu ngân hàng trong lúc chưa có dự án hoặc do vẫn có nguồn vốn nhàn rỗi nhưng chưa triển khai được dự án nên đầu tư vào trái phiếu và họ có thể bán lại cho ngân hàng thu hồi vốn khi có nhu cầu vốn. Thực tế trên thị trường, lãi suất tiết kiệm VND hiện được các ngân hàng đẩy lên cao, sát trần cho vay , cùng nhiều khuyến mãi, tiện ích để khuyến khích khách hàng gửi tiền. Trong khi đó, người dân không mấy mặn mà với gửi kỳ hạn dài. Với các mức lãi suất cao, ngân hàng lại có thêm những điều kiện ràng buộc như món tiền gửi lớn, không được rút trước hạn, lĩnh lãi cuối kỳ Điều này không phù hợp với tính toán của khách hàng 9
- cũng như nhu cầu rút vốn linh hoạt để rót vào các kênh đầu tư khác đang hấp dẫn. Đại diện một số NHTM thừa nhận, nhu cầu vốn trung dài hạn thường rất lớn trong khi nguồn vốn trung dài hạn không nhiều. Thời gian qua, tình hình huy động vốn trên thị trường chứng khoán của doanh nghiệp gần như tê liệt. Doanh nghiệp phải làm hồ sơ đến ngân hàng đề nghị tài trợ vốn trung dài hạn. Để huy động vốn trung dài hạn, phát hành trái phiếu trung dài hạn là bài toán được các ngân hàng áp dụng linh hoạt. Nhờ đó các ngân hàng đã huy động được hàng ngàn tỷ đồng vốn trung dài hạn từ phát hành trái phiếu. Thông qua hoạt động phát hành trái phiếu, theo đánh giá của các chuyên gia, các NHTM cùng lúc đạt được nhiều mục đích như vừa cải thiện vốn trung – dài hạn, vừa có cơ sở tăng vốn điều lệ từ nguồn vốn phát hành trái phiếu. Với nguồn vốn mới này, các NHTM có khả năng đa dạng hóa kênh đầu tư thông qua việc đầu tư vào các loại giấy tờ có đặc biệt là TPCP, trái phiếu của chính các NHTM hoặc các tổ chức kinh tế [21]. 1.3 Loại hình và hình thức trái phiếu Phân loại dựa vào tính chất thì trái phiếu có hai loại là trái phiếu không chuyển đổi và trái phiếu chuyển đổi; phân loại theo mức độ đảm bảo thanh toán của chủ thế phát hành thì trái phiếu bao gồm: trái phiếu có bảo đảm và trái phiếu không có bảo đảm. Trái phiếu không chuyển đổi có thể được phát hành bởi công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn, riêng đối với trái phiếu không chuyển đổi có kèm chứng quyền thì chỉ được phép phát hành bởi CTCP. Trái phiểu chuyển đổi có thể chuyển thành cổ phiếu phổ thông nếu doanh nghiệp phát hành là CTCP và theo các điều kiện đã được xác định trước đó trong phương án phát hành. 1.3.1 Trái phiếu không chuyển đổi: Khoản 1 Điều 5, Nghị định 90 quy định Trái phiếu không chuyển đổi như sau: 10
- a) Trái phiếu không chuyển đổi là trái phiếu có bảo đảm hoặc trái phiếu không có bảo đảm, trái phiếu kèm theo chứng quyền hoặc trái phiếu không kèm theo chứng quyền; b) Đối tượng phát hành trái phiếu không chuyển đổi là công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn. Đối tượng phát hành trái phiếu không chuyển đổi có kèm chứng quyền là công ty cổ phần. Theo đó, trái phiếu không chuyển đổi là loại trái phiếu không có khả năng chuyển đổi thành cổ phiếu. Việc phát hành loại trái phiếu này phải tuân theo nguyên tắc: công khai mục đích sử dụng nguồn thu từ phát hành trái phiếu; tổng mức phát hành không vượt hạn mức phát hành được duyệt. Trên thực tế thì việc phát hành trái phiếu không chuyển đổi không hấp dẫn các nhà đầu tư bằng loại hình trái phiếu chuyển đổi vì nhược điểm của loại hình trái phiếu này là không có khả năng chuyển đổi thành cổ phiếu. 1.3.2 Trái phiếu chuyển đổi: Khoản 2 điều 5 Nghị định 90 quy định trái phiếu chuyển đổi như sau: a) Trái phiếu chuyển đổi là trái phiếu có bảo đảm hoặc trái phiếu không có bảo đảm, trái phiếu kèm theo chứng quyền hoặc trái phiếu không kèm theo chứng quyền; b) Đối tượng phát hành trái phiếu chuyển đổi là công ty cổ phần.[15] Như vậy theo Nghị định thì doanh nghiệp là công ty cổ phần bao gồm cả các ngân hàng thương mại cổ phần được phép phát hành cả trái phiếu không chuyển đổi và trái phiếu chuyển đổi. Cũng theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị định 90 thì : “Trái phiếu chuyển đổi là loại trái phiếu do công ty cổ phần phát hành, có thể chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông của doanh nghiệp phát hành theo điều kiện đã được xác định trong phương án phát hành trái phiếu”. Loại trái phiếu này có đặc điểm là lãi suất cố định và tương đối thấp so với các loại trái phiếu khác, song trái phiếu chuyển đổi hứa hẹn đem lại cho 11
- nhà đầu tư lợi nhuận lớn hơn khi chuyển đổi thành loại cổ phiếu thường doanh nghiệp và đây cũng chính là điểm hấp dẫn của trái phiếu chuyển đổi. Về bản chất kinh tế, trái phiếu chuyển đổi được coi là một sản phẩm lồng ghép giữa trái phiếu DN và quyền mua cổ phiếu do chính DN phát hành. Quyền mua cổ phiếu cho phép người nắm giữ có quyền, mà không có nghĩa vụ mua cổ phiếu tại một thời điểm trong tương lai với một mức giá xác định trước. Sự khác biệt của trái phiếu chuyển đổi so với trái phiếu không chuyển đổi đó là quyền chuyển đổi sang cổ phiếu theo một tỷ lệ cố định trong tương lai của trái chủ. Do đó, trái phiếu chuyển đổi thường có giá trị hơn trái phiếu thông thường [35]. Những ưu điểm và nhược điểm của việc phát hành 2 loại hình trái phiếu này: Ưu điểm: Việc phát hành loại hình trái phiếu chuyển đổi của các NHTM nói riêng và các doanh nghiệp nói chung có những ưu điểm mà việc phát hành trái không chuyển đổi không có như: Chi phí phát hành và lãi suất phải trả thấp hơn so với phát hành trái phiếu thông thường cũng như so với lãi suất ngân hàng và điều này đồng nghĩa với việc giảm rủi ro đối với tổ chức phát hành; tăng vốn cổ phần trong tương lai khi chuyển từ trái phiếu thành vốn cổ phần; giá cổ phiếu thường không bị sụt giảm do tránh được tình trạng tăng số lượng cổ phiếu một cách nhanh chóng trên thị trường; trước khi trái phiếu được chuyển đổi sẽ không làm giảm thu nhập của các cổ đông hiện hữu so với phát hành cổ phiếu; dễ dàng hơn trong việc huy động vốn do tính hấp dẫn của việc có thể chuyển đổi từ trái phiếu sang cổ phiếu [41]. Nhược điểm: Tuy nhiên, việc phát hành trái không chuyển đổi cũng có những nhược điểm như: do cổ đông thường tham gia vào việc quản lý công ty nên khi chuyển đổi có thể gây ra một sự thay đổi trong việc kiểm soát công ty; khi trái phiếu được chuyển đổi, vốn chủ sở hữu bị "pha loãng" do tăng số cổ phiếu lưu hành nên mỗi cổ phần khi đó 12
- đại diện cho một tỷ lệ thấp hơn của quyền sở hữu trong công ty; kết quả chuyển đổi sẽ làm giảm chi phí trả lãi, tức là làm tăng thu nhập chịu thuế của công ty,do đó, công ty phải trả thuế nhiều hơn khi chuyển đổi. Những nhược điểm của việc phát hành trái phiểu chuyển đổi cũng là những ưu điểm của việc phát hành trái phiếu không chuyển đổi. Trên thực tế thì việc các NHTM phát hành trái phiếu chuyển đổi dễ dàng huy động vốn và thu hút nhiều nhà đầu tư hơn so với việc phát hành trái phiếu không chuyển đổi do tính hấp dẫn của việc có thể chuyển đổi từ trái phiếu sang cổ phiếu. 1.4 Kỳ hạn trái phiếu Kỳ hạn hay còn gọi là thời hạn trái phiếu là khoảng thời gian từ ngày phát hành đến ngày đến hạn thanh toán ( theo khoản 8 Điều 4 về Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của tổ chức tín dụng Ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ- NHNN ngày 24 tháng 3 năm 2008 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước) [13]. Doanh nghiệp bao gồm các Ngân hàng thương mại tự quyết định về kỳ hạn của trái phiếu trên cơ sở nhu cầu thời hạn mong muốn sử dụng vốn vay, tuy nhiên trái phiếu phát hành có kỳ hạn tối thiểu phải là từ một năm trở lên, kỳ hạn trái phiếu phải được công bố trong phương án phát hành. 1.5 Đồng tiền phát hành và thanh toán trái phiếu Điều 7, Nghị định 90 quy định về đồng tiền phát hành trái phiếu như sau: 1. Đối với trái phiếu phát hành tại thị trường trong nước, đồng tiền phát hành là đồng Việt Nam. 2. Đối với trái phiếu phát hành ra thị trường quốc tế, đồng tiền phát hành là ngoại tệ tự do chuyển đổi. 3. Đồng tiền sử dụng để thanh toán gốc, lãi trái phiếu cùng loại với đồng tiền phát hành. [15] 13
- Như vậy, đồng tiền phát hành và thanh toán trái phiếu phải tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam. 1.6 Vai trò của hoạt động phát hành trái phiếu của NHTM Nhu cầu về vốn là một trong những nhu cầu được xem là bức xúc nhất hiện nay của DN nói chung và của các NHTM nói riêng, nhằm mục đích huy động vốn để tài trợ cho đầu tư phát triển, mở rộng quy mô hoạt động, đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ, tăng cường khả năng cạnh tranh của các NHTM trên cả thị trường quốc tế cũng như thị trường nội địa; đặc biệt sau khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO. Tùy vào nhu cầu và điều kiện cụ thể của mình, các NHTM có thể lựa chọn phương án huy động vốn phù hợp. Xét về mặt tổng thể, việc huy động vốn bằng phương thức phát hành trái phiếu thường có một số ưu điểm nổi bật so với các hình thức tài trợ vốn khác. * Đối với nền kinh tế Thứ nhất, hoạt động phát hành trái phiếu của các NHTM cũng như các DN là một trong những kênh huy động vốn của thị trường tài chính, thu hút nguồn vốn từ những nhà đầu tư có vốn tiết kiệm nhàn rỗi sang những người có nhu cầu thật sự về vốn, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, tạo nên những hoạt động đầu tư, kinh doanh thực sự có hiệu quả. Thứ hai, hoạt động phát hành trái phiếu của các NHTM góp phần đa dạng hóa các công cụ tài chính. Bên cạnh thị trường cổ phiếu với mức độ rủi ro cao thi trái phiếu được xem là kênh đầu tư an toàn hơn và có hiệu quả cao trong đầu tư dài hạn. * Đối với NHTM Thứ nhất, việc các NHTM phát hành trái phiếu là tạo ra một kênh huy động vốn hiệu quả, nhất là trong thời buổi cạnh tranh ngày càng gay gắt. Phát hành trái phiếu sẽ 14
- giúp cho các NHTM huy động được một lượng vốn lớn với chi phí sử dụng vốn thấp hơn so với vốn cổ phần, đồng thời giới hạn trách nhiệm của NHTM đối với các khoản nợ khi phát hành trái phiếu cũng ít bị ràng buộc hơn so với khi phát hành cổ phiếu. Mặt khác, việc huy động nguồn vốn thông qua phát hành trái phiếu có thể giúp NHTM giảm được chi phí sử dụng vốn do lãi suất trả cho các trái chủ được tính vào chi phí của NHTM nên số thuế thu nhập mà NHTM phải nộp sẽ được giảm đi, trong khi phần cổ tức thanh toán cho các cổ đông là phần thu nhập còn lại sau khi DN đã nộp thuế. Hay nói cách khác, chi phí sử dụng vốn từ trái phiếu là chi phí không phải chịu thuế còn chi phí vốn cổ phần là chi phí phải chịu thuế. Bên cạnh đó, trái phiếu là công cụ huy động vốn có thời hạn nên trách nhiệm của NHTM đối với các trái chủ sẽ được chấm dứt khi trái phiếu đáo hạn, còn cổ phiếu thể hiện đặc tính sở hữu một cách lâu dài nên các ngân hàng phải có trách nhiệm đối với các cổ đông trong suốt thời gian ngân hàng tồn tại. Thứ hai, phát hành trái phiếu làm tăng tổng tài sản của các ngân hàng. Có thể nói, tổng tài sản lớn đang là một thế mạnh mà các ngân hàng rất quan tâm khai thác. Ngân hàng nào cũng muốn mình có tổng tài sản lớn nhất vì cổ đông và khách hàng của họ cứ thấy ngân hàng nào có tổng tài sản lớn nhất là yên tâm. Điều này hàm chứa nhiều rủi ro vì trên thực tế có tình trạng là ngân hàng này phát hành trái phiếu, ngân hàng khác mua vào và cứ như thế tổng tài sản của các ngân hàng đều tăng lên. Thứ ba, việc các ngân hàng phát hành trái phiếu để tăng khả năng cho vay trung và dài hạn. Trái phiếu NHTM được nhận định là rất thanh khoản, có thể sinh lời cao, lãi suất hấp dẫn, điều kiện linh hoạt nên các NHTM nhờ phát hành trái phiếu mà thu về hàng ngàn tỷ đồng vốn trung dài hạn. Điều này cho thấy hệ thống ngân hàng vẫn là kênh trung chuyển vốn chính. Thị trường chứng khoán vẫn còn ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển, chỉ một số ít doanh nghiệp có thể tiếp cận vốn trực tiếp từ thị trường này. 15
- *Đối với nhà đầu tư Tùy vào tình hình tài chính và khả năng mạo hiểm, nhà đầu tư có thể lựa chọn cho mình kênh đầu tư thích hợp. Nếu như đầu tư vào cổ phiếu mang lại lợi nhuận cao hơn nhưng bên cạnh đó mức độ rủi ro tương đối cao thì trái phiếu là giải pháp an toàn dài hạn. Hơn thế nữa, nếu một doanh nghiệp giải thể hay phá sản thì trái chủ luôn được ưu tiên thanh toán trước các cổ đông. 1.7 Thực tiễn hoạt động phát hành trái phiếu của các doanh nghiệp ở một số nước trên thế giới. Sự phát triển của thị trường trái phiếu là yếu tố quan trọng làm nên sự phát triển bền vững của hoạt động phát hành trái phiếu của các doanh nghiệp nói chung và của các NHTM cổ phần nói riêng. Cùng với quá trình xây dựng và phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) (bao gồm cả trái phiếu của NHTM cổ phần) Việt Nam, bên cạnh việc phân tích và đánh giá thực trạng tình hình thị trường trong nước thì vấn đề nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới, từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm trong việc phát triển thị trường TPDN là hết sức quan trọng và cần thiết. * Hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp ở Mỹ: Đa số các doanh nghiệp đều áp dụng phương thức phát hành TPDN để huy động vốn, chủ yếu là các trái phiếu có thời gian đáo hạn từ 2 năm đến 50 năm. Thị trường TPDN Mỹ đã trở thành thị trường phát hành phi chính phủ lớn nhất thế giới kể từ những năm 1920. Thị trường TPDN Mỹ là thị trường phi tập trung giữa các nhà kinh doanh và công chúng. Việc phát hành TPDN ở Mỹ phát triển mạnh theo cả hai phương diện về số lượng DN phát hành cũng như về giá trị trái phiếu đang lưu hành. Ở Mỹ, trái phiếu do các công ty nước ngoài phát hành bằng USD gọi là trái phiếu Yankee và loại trái phiếu này có một khu vực thị trường đặc biệt trong thị trường TPDN gọi là thị trường trái phiếu Yankee. Trái phiếu Yankee có các đặc điểm tương tự như TPDN 16