Luận văn Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp

pdf 90 trang vuhoa 25/08/2022 7900
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_phap_luat_hinh_su_viet_nam_ve_toi_gay_roi_trat_tu_c.pdf

Nội dung text: Luận văn Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN LONG NHI PH¸P LUËT H×NH Sù VIÖT NAM VÒ TéI G¢Y RèI TRËT Tù C¤NG CéNG Vµ THùC TIÔN XÐT Xö TR£N §ÞA BµN TØNH §åNG TH¸P LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN LONG NHI PH¸P LUËT H×NH Sù VIÖT NAM VÒ TéI G¢Y RèI TRËT Tù C¤NG CéNG Vµ THùC TIÔN XÐT Xö TR£N §ÞA BµN TØNH §åNG TH¸P Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS. TSKH. LÊ VĂN CẢM HÀ NỘI - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được côn bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Trần Long Nhi
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 8 1.1. Khái niệm an toàn công cộng, trật tự công cộng 8 1.2. Khái niệm các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng 10 1.3. Khái niệm tội gây rối trật tự công cộng 16 1.4. Phân biệt tội gây rối trật tự công cộng với một số tội phạm gần giống trong pháp luật hình sự Việt Nam 19 1.4.1. Phân biệt tội gây rối trật tự công cộng với tội phá rối an ninh 19 1.4.2. Phân biệt tội gây rối trật tự công cộng với tội đua xe trái phép 21 1.4.3. Phân biệt tội gây rối trật tự công cộng với tội chống người thi hành công vụ 22 1.4.4. Phân biệt tội gây rối trật tự công cộng với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác 23 Chương 2: THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH CÓ LIÊN QUAN CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG TẠI TỈNH ĐỒNG THÁP 26 2.1. Thực trạng các quy định có liên quan của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội gây rối trật tự công cộng 26
  5. 2.1.1. Các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội gây rối trật tự công cộng 26 2.1.2. Hình phạt 33 2.2. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Đồng Tháp 37 2.3. Tình hình và kết quả xét xử tội gây rối trật tự công cộng của ngành Tòa án tỉnh Đồng Tháp 38 2.3.1. Tình hình xét xử tội gây rối trật tự công cộng của ngành Tòa án tỉnh Đồng Tháp 38 2.3.2. Kết quả xét xử tội gây rối trật tự công cộng của ngành Tòa án tỉnh Đồng Tháp 42 2.4. Một số tồn tại, vướng mắc trong hoạt động xét xử tội gây rối trật tự công cộng của ngành Tòa án tỉnh Đồng Tháp 47 2.5. Nguyên nhân của tồn tại, vướng mắc trong hoạt động xét xử tội gây rối trật tự công cộng của ngành Tòa án tỉnh Đồng Tháp 53 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÉT XỬ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG Ở TỈNH ĐỒNG THÁP 58 3.1. Sự cần thiết và ý nghĩa của việc hoàn thiện các quy định của bộ luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng 58 3.1.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng 58 3.1.2. Ý nghĩa của việc hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng 60 3.2. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội gây rối trật tự công cộng 61 3.2.1. Nhận xét chung 61 3.2.2. Nội dung sửa đổi, bổ sung cụ thể 64
  6. 3.3. Những giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử tội gây rối trật tự công cộng 66 3.3.1. Tăng cường công tác hướng dẫn, giải thích các quy định của Bộ luật hình sự trong tương quan với các văn bản pháp luật khác về hành vi gây rối trật tự công cộng 66 3.3.2. Kiện toàn cơ cấu tổ chức, nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, đổi mới tác phong làm việc của Thẩm phán và cán bộ, công chức trong ngành Tòa án 67 3.3.3. Nâng cao năng lực trình độ chuyên môn của Hội thẩm nhân dân 69 3.3.4. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân 70 3.3.5. Phối hợp các cơ quan, tổ chức với các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án để phòng ngừa, ngăn chặn và xét xử nghiêm minh tội gây rối trật tự công cộng 71 3.3.6. Đẩy mạnh công tác tổng kết kinh nghiệm xét xử của ngành Tòa án làm cơ sở cho hoạt xét xử vụ án hình sự nói chung, vụ án gây rối trật tự công công nói riêng được thực hiện thống nhất 72 KẾT LUẬN 74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 77
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Tổng số vụ án hình sự, số bị cáo đã xét xử và tổng số vụ, số bị cáo đã xét xử về tội gây rối trật tự công cộng trong 5 năm (2009 - 2013) 42 Bảng 2.2: Tổng số vụ, số bị cáo bị đưa ra xét xử về tội gây rối trật tự công cộng trong 5 năm (2009 - 2013) 43 Bảng 2.3: Tổng số vụ án, số bị cáo bị đưa ra xét xử về tội gây rối trật tự công cộng trong tương quan với các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng trong 5 năm (2009 - 2013) 44 Bảng 2.4: Phân tích đặc điểm nhân thân của các bị cáo đưa ra xét xử về tội gây rối trật tự công cộng trong 5 năm (2009 - 2013) 45
  8. DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Số hiệu Tên biểu đồ Trang biểu đồ Biểu đồ 2.1. Biểu đồ thể hiện tình hình hoạt động xét xử các vụ án hình sự của ngành Tòa án tỉnh Đồng Tháp thời gian từ 2009 - 2013 39 Biểu đồ 2.2. Biểu đồ thể hiện tình hình xét xử tội gây rối trật tự công cộng của ngành Tòa án tỉnh Đồng Tháp trong thời gian từ 2009 – 2013 40 Biểu đồ 2.3. Biểu đồ thể hiện tỉ lệ xét xử các vụ án về gây rối trật tự công cộng và vụ án hình sự của ngành Tòa án tỉnh Đồng Tháp (2009 - 2013) 41 Biểu đồ 2.4. Biểu đồ thể hiện tỉ lệ số bị cáo đưa ra xét xử về tội gây rối trật tự công cộng và số bị cáo đưa ra xét xử trong các vụ án hình sự của ngành Tòa án tỉnh Đồng Tháp (2009 - 2013) 41
  9. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bộ Luật hình sự được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009 được coi là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, góp phần đắc lực vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức; góp phần duy trì trật tự an toàn xã hội, trật tự quản lý kinh tế, bảo đảm cho mọi người được sống trong một môi trường xã hội và sinh thái an toàn, lành mạnh, mang tính nhân văn cao. Đồng thời, pháp luật hình sự góp phần tích cực loại bỏ những yếu tố gây cản trở cho tiến trình đổi mới và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh [1, tr.2]. Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, trong những năm qua, đời sống kinh tế xã hội có những thay đổi đáng kể, từ đó có những tác động tích cực đến đời sống nhân dân cả nước. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được, chúng ta không thể không thấy những nguy cơ và thách thức to lớn đặt ra với toàn Đảng và toàn dân về trong sự phát triển nói chung đó, đặc biệt là sự gia tăng của các loại tội phạm ở các thành phố lớn như: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ, và một số tỉnh, thành khác trong đó có tỉnh Đồng Tháp. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, từ năm 2009 đến năm 2013, ở tỉnh Đồng Tháp có tổng số vụ phạm pháp luật hình sự là 4.081, trong đó hành vi đánh nhau gây rối trật tự công cộng là 67 vụ, chiếm 1.64% tổng số vụ án hình sự đưa ra xét xử. Bên cạnh đó, dưới góc độ thực tiễn xét xử cho thấy nếu năm 2011, tổng số vụ án về tội gây rối trật tự công cộng đưa ra xét xử 1
  10. 15 vụ và 47 bị cáo; năm 2012 là 13 vụ và 50 bị cáo; năm 2013 là 16 vụ và 61 bị cáo. Qua kết quả xét xử nói trên cho thấy, giữa các năm có sự khác nhau về số vụ nhưng số bị cáo ngày càng gia tăng với quy mô, mức độ ngày càng nghiêm trọng [43]. Trước tình hình đó, các cơ quan chức năng tỉnh Đồng Tháp đã tập trung lực lượng xử lý loại tội phạm gây rối trật tự công cộng và đã đạt nhiều kết quả đáng kể. Tuy nhiên, công tác xét xử các vụ án gây rối trật tự công cộng trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp còn có những hạn chế và gặp nhiều khó khăn. Do đó, vấn đề này ở Đồng Tháp cần được nghiên cứu, tổng kết một cách toàn diện, có hệ thống. Thông qua việc nghiên cứu sẽ xác định được các nguyên nhân làm hạn chế công tác xét xử đối với các tội gây rối trật tự công cộng. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả xét xử đối với loại tội phạm này. Với những lý do trên, tôi chọn “Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp” làm luận văn Thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu và điểm mới khoa học của luận văn Chương XIX Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định về các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Trong đó các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội gây rối trật tự công cộng đã được một số nhà khoa học - luật gia hình sự quan tâm nghiên cứu và được thể hiện ở một số sách chuyên khảo, tham khảo, bình luận và giáo trình đại học, chẳng hạn như: 1. GS.TS. Đỗ Ngọc Quang, Chương XIX - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng; Trong sách: "Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm)", do GS.TSKH. Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003. 2. GS.TS. Võ Khánh Vinh, Chương X - Các tội xâm phạm an toàn công 2
  11. cộng, trật tự công cộng, Trong sách: "Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm)", do GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001. 3. GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Chương XXV - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Trong sách: "Giáo trình Luật hình sự Việt Nam", (Tập II), do GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2010. 4. TS. Phạm Văn Beo, Bài 10 - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Trong sách: "Luật hình sự Việt Nam" (Quyển 2 - Phần các tội phạm), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010. 5. TS. Trương Quang Vinh, Bình luận các điều 241 đến 256, Trong sách: "Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999" (tái bản có sửa chữa, bổ sung), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008. 6. TS. Trần Minh Hưởng (chủ biên), TS. Đỗ Đức Hồng Hà, TS. Trịnh Tiến Việt và tập thể tác giả, Chương XIX - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Trong sách: "Tìm hiểu Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và những văn bản hướng dẫn thi hành", Nxb Lao động, Hà Nội, 2010. 7. TS. Trần Minh Hưởng, Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2002. 8. TS. Nguyễn Đức Mai, Chương XIX - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Trong sách: "Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999", Tập thể tác giả, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001. 9. ThS. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học chuyên sâu Bộ luật hình sự - Phần các tội phạm, Tập VI - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2005. 10. Luật gia Nguyễn Thanh Hải, tội gây rối trật tự công cộng trong 3
  12. Luật hình sự Việt Nam, do TS.Trịnh Tiến Việt (chủ biên), Nxb Công an nhân dân, 2010. 11. Vũ Thế Công, Trật tự công cộng và một số biện pháp phòng chống gây rối trật tự công cộng, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2007. 12. Nguyễn Thanh Hải, tội gây rối trật tự công cộng trong Luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Luật học, năm 2010. 13. Phan Vũ Linh, phòng ngừa tội gây rối trật tự công cộng trên địa bàn thành phố Cần Thơ, Luân văn Thạc sỹ luật học, 2011. Tuy nhiên, qua nghiên cứu các công trình trên cho thấy: một số công trình có phạm vi nghiên cứu rộng, trong đó tội gây rối trật tự công cộng chỉ là một phần nhỏ trong nội dung nghiên cứu của tác giả nên chưa được phân tích sâu về mặt lý luận và thực tiễn; có công trình chỉ xem xét tội gây rối trật tự công cộng với ý nghĩa là một tội phạm để bình luận các dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt hoặc chỉ xem xét dưới góc độ tội phạm học - phòng ngừa cả nhóm tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng; có công trình nghiên cứu tội gây rối trật tự công cộng nhưng đã được tiến hành cách đây khá lâu, do vậy giá trị về lý luận và thực tiễn không cao. Đối với tỉnh Đồng Tháp, cho tới nay chưa có một công trình nào nghiên cứu về tội gây rối trật tự công cộng gắn với thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp. Do đó việc nghiên cứu Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp ở cả góc độ luật hình sự và tội phạm học là một đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, phục vụ trực tiếp cho địa bàn tỉnh Đồng Tháp. 3. Mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục tiêu nghiên cứu 3.1.1. Mục tiêu chung Tìm hiểu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam, phân tích thực 4
  13. trạng xét xử đối với tội gây rối trật tự công cộng trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp, từ đó chỉ ra các hạn chế bất cập còn tồn tại và đề xuất những phương hướng, các giải pháp thích hợp nhằm nâng cao vai trò của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp trong việc áp dụng pháp luật để xét xử các vụ án về gây rối trật tự công cộng, góp phần tăng cường hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp. 3.1.2. Mục tiêu cụ thể - Phân tích một số vấn đề lý luận cơ bản về tội gây rối trật tự công cộng. - Khảo sát, đánh giá thực trạng vi phạm pháp luật về trật tự công cộng trong những năm gần đây và công tác xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp đối với loại tội phạm này, tìm ra nguyên nhân của thực trạng đó. - Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử tội gây rối trật tự công cộng của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp. 3.3. Phạm vi nghiên cứu - Một số vấn đề chung về tội gây rối trật tự công cộng theo pháp luật hình sự Việt Nam. - Thực tiễn xét xử tội gây rối trật tự công cộng tại tỉnh Đồng Tháp. - Những giải pháp cơ bản hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả xét xử tội gây rối trật tự công cộng ở tỉnh Đồng Tháp. 4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, về xây dựng Nhà nước và 5
  14. pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm; quan điểm của Đảng và Nhà nước về đấu tranh chống tội phạm nói chung; thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như lịch sử pháp luật, xã hội học pháp luật, luật hình sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự; những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học pháp lý chuyên ngành. 4.2. Các phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin về trật tự công cộng và hành vi gây rối trật tự công cộng; quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về công tác bảo vệ trật tự xã hội. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp phân tích tài liệu, phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp và phương pháp so sánh. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn nghiên cứu của luận văn 5.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về tội gây rối trật tự công cộng trong Luật hình sự Việt Nam, phân biệt tội phạm này với một số tội phạm khác hay có sự nhầm lẫn trong thực tiễn; làm sáng tỏ các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử ở tỉnh Đồng Tháp (2009-2013). Qua đó, chỉ ra những mâu thuẫn, bất cập của các quy định hiện hành và các sai sót trong quá trình áp dụng để tìm ra nguyên nhân và đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự trong việc xét xử tội gây rối trật tự công cộng ở khía cạnh lập pháp và thực tiễn. 5.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận, có thể sử dụng để nghiên cứu, học tập. Những đề xuất, kiến nghị của luận văn sẽ cung cấp 6
  15. những luận cứ khoa học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng Bộ luật hình sự Việt Nam liên quan đến tội gây rối trật tự công cộng, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội này trong giai đoạn hiện nay trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về tội gây rối trật tự công cộng theo pháp luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Thực trạng các quy định có liên quan của Bộ luật Hình sự năm 1999 và thực tiễn xét xử tội gây rối trật tự công cộng tại tỉnh Đồng Tháp. Chương 3: Một số phương pháp trong quá trình hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả xét xử tội gây rối trật tự công cộng ở tỉnh Đồng Tháp. 7
  16. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm an toàn công cộng, trật tự công cộng Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã viết: Mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hoà bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội [18, tr.7]. Muốn thực hiện được nhiệm vụ quan trọng này, trước tiên phải xây dựng được hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, bảo đảm Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bởi lẽ, "pháp chế như là tính thiêng liêng của pháp luật, tính bền vững của các quy phạm pháp lý Pháp chế có mối quan hệ chặt chẽ với pháp luật, với bình đẳng và với sự tuân thủ luật pháp, không một ai, không một người nào có bất kỳ một đặc quyền nào trước pháp luật [58, tr.100-102]. Đồng thời, phải tổ chức được mọi tầng lớp nhân dân cùng các cơ quan bảo vệ pháp luật và các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội tham gia vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm mọi hành động xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân, trật tự công cộng, an toàn xã hội đều bị xử lý nghiêm minh, kịp thời và đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, tránh làm oan người vô tội [58, tr.10]. Luật hình sự với tư cách là một ngành luật duy nhất trong hệ thống 8
  17. pháp luật của Nhà nước quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là các tội phạm và danh mục hình phạt và các biện pháp pháp lý hình sự cần áp dụng đối với những người đã thực hiện các hành vi nguy hiểm cho xã hội đó. Luật hình sự đã xác định các khách thể cần được xác lập và bảo vệ trong Điều 1 Bộ luật hình sự. Do đó, với tư cách là khách thể quan trọng được luật hình sự bảo vệ, đòi hỏi phải làm rõ hai phạm trù "an toàn công cộng" và "trật tự công cộng" [44, tr.11-12]. Theo từ điển Tiếng Việt thì ‚‘‘an toàn" được hiểu: "Yên ổn hoàn toàn không nguy hiểm" [50, tr.26], còn "công cộng" được hiểu là "chung cho hoặc thuộc về mọi người" [50, tr.345]. Do vậy, "an toàn công cộng" có thể hiểu là trạng thái ổn định, hoàn toàn không có nguy hiểm đối với mọi người xung quanh hoặc an toàn xã hội đối với mọi người. Theo Từ điển Luật học thì trật tự công cộng là: Trạng thái ổn định, có tổ chức, có kỷ luật ở nơi công cộng. Những nơi phục vụ lợi ích công cộng như đường phố, quảng trường, công viên, bệnh viện, nhà hát, rạp chiếu bóng, bãi biển, khu nghỉ mát được tổ chức sắp xếp ngăn nắp, các quy ước chung được mọi người tôn trọng, thực hiện nghiêm chỉnh. Quy tắc bắt buộc phải tuân theo để bảo vệ lợi ích chung của xã hội, thể hiện toàn bộ yêu cầu cơ bản của xã hội về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội [49, tr.809]. Như vậy, xét riêng trong lĩnh vực chung của xã hội, an toàn công cộng, trật tự công cộng được coi là điều kiện bảo đảm cho mọi công dân có cơ hội tồn tại, phát triển và sử dụng tốt năng lực, cống hiến của mình để xây dựng một xã hội văn minh, dân chủ, giàu đẹp, có cuộc sống ấm no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc. Cho nên, dưới bất kỳ hình thức nào, bằng cách này hay cách khác, việc giữ gìn và bảo vệ an toàn công cộng, trật tự công cộng không 9
  18. những là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa của Nhà nước, mà đến lượt mình, Nhà nước lại đòi hỏi tất cả các cơ quan, tổ chức và mọi công dân phải tuân thủ một cách nghiêm túc pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội xã hội chủ nghĩa. Cho nên, dưới góc độ pháp lý, tất cả các hành vi xâm phạm "an toàn công cộng, trật tự công cộng" đều gây nên những thiệt hại nhất định cho cuộc sống bình thường của công dân cần thiết phải bị xử lý, tùy theo tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm mà áp dụng hình thức xử lý khác nhau từ xử phạt hành chính đến xử lý hình sự [44, tr.13]. 1.2. Khái niệm các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc bảo vệ an toàn công cộng, trật tự công cộng không chỉ bằng việc ban hành hàng loạt các văn bản có liên quan đến lĩnh vực này, mà còn có những biện pháp thiết thực để đưa các văn bản đó vào thực tiễn cuộc sống. Hiến pháp Việt Nam năm 1992 đã nhấn mạnh: "Công dân có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản của Nhà nước và lợi ích công cộng" (Điều 78) và "Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, giữ gìn bí mật quốc gia, chấp hành những quy tắc của sinh hoạt công cộng" (Điều 79). Nói một cách khác, tôn trọng và bảo vệ, An toàn công cộng, trật tự công cộng là một trong những thước đo, tiêu chí để đánh giá sự ổn định của xã hội, đánh giá sức mạnh của các cơ quan bảo vệ pháp luật, khả năng quản lý của các cơ quan, tổ chức, đồng thời nó cũng đánh giá được ý thức pháp luật, văn minh pháp lý của công dân [22, tr.439]. Nhằm từng bước nâng cao nhận thức của toàn xã hội về trách nhiệm đấu tranh phòng, chống tội phạm; tạo lập cơ chế phối hợp đồng bộ, phát huy được sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân tham 10
  19. gia phòng, chống tội phạm; từng bước kiềm chế sự gia tăng của các loại tội phạm, làm giảm một số loại tội phạm nghiêm trọng; giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ngày 31/7/1998, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP về Tăng cường công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới; Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 138/1998/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm. Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 09/CP và Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm từ nay đến năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 37/2004/Ct-TTg "Về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP và Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm của Chính phủ đến năm 2010" ngày 08/11/2004, trong đó nhấn mạnh: Một là, về mục tiêu, yêu cầu: 1. Giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trong mọi tình huống, tạo ra môi trường xã hội ổn định phục vụ công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Giữ vững kỷ cương pháp luật, sự nghiêm minh của pháp chế xã hội chủ nghĩa [13]. Hai là, về chủ trương, biện pháp: 3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về Nghị quyết số 09/CP và Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm để mọi người dân nhận thức đầy đủ và tự giác thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; kịp thời biểu dương những gương người tốt, việc tốt và các điển hình tiên tiến trong phong trào toàn dân phòng, chống tội phạm 6. Tiếp tục thực hiện bốn đề án của Chương trình là: Phát 11
  20. động toàn dân tham gia phòng ngừa, phát hiện, tố giác tội phạm; cảm hóa, giáo dục, cải tạo người phạm tội tại gia đình và cộng đồng dân cư; Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tội phạm, tăng cường tuyên truyền giáo dục pháp luật và trách nhiệm công dân về bảo vệ an ninh trật tự; Đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm có tổ chức, tội phạm hình sự nguy hiểm và tội phạm có tính quốc tế; Đấu tranh phòng, chống các loại tội xâm hại trẻ em; tội phạm trong lứa tuổi chưa thành niên [13]. Nghiên cứu, xây dựng trình Chính phủ bổ sung một số đề án, dự án, chương trình hành động nhằm tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc mới nổi lên về an ninh trật tự và nâng cao năng lực hoạt động phòng, chống tội phạm. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu tội phạm học và khoa học phòng, chống tội phạm. Nâng cao chất lượng công tác nắm tình hình, nghiên cứu dự báo tình hình tội phạm trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế [13]. Theo quy định của Bộ Luật hình sự hiện hành, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh; trật tự, an toàn xã hội; quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức; xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa [37, tr.6]. Hiến pháp Việt Nam năm 2013 đã nhấn mạnh: “Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật; tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng” [34, tr.26]. An toàn công cộng, trật tự công cộng được coi là điều kiện bảo đảm cho mọi 12
  21. công dân có cơ hội tồn tại, phát triển và sử dụng tốt năng lực, cống hiến của mình để xây dựng một xã hội văn minh, dân chủ, giàu đẹp, có cuộc sống ấm no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc. Các hành vi xâm phạm "an toàn công cộng, trật tự công cộng" đều gây nên những thiệt hại nhất định cho cuộc sống bình thường của công dân và cần thiết phải bị xử lý, tùy theo tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm mà áp dụng hình thức xử lý khác nhau từ xử phạt hành chính đến xử lý hình sự. Để bảo vệ "an toàn công cộng, trật tự công cộng" với tư cách là khách thể quan trọng được luật hình sự xác lập và bảo vệ, ngay từ Bộ luật hình sự đầu tiên của nước ta năm 1985, nhóm tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng được xếp chung tại Chương VIII: "Các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính" với ba nhóm quan hệ xã hội được luật hình sự xác lập và bảo vệ - an toàn công cộng, trật tự công cộng và trật tự quản lý hành chính. Quá trình áp dụng pháp luật cho thấy, các tội phạm được quy định ở chương này có các khách thể loại khác nhau. Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng xâm phạm vào những quy định, quy tắc bảo đảm an toàn, trật tự trong cuộc sống của mọi công dân. Còn các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính xâm phạm vào hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội. Mặt khác, nhóm các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng chiếm số lượng lớn nhất so với các loại tội phạm ở các chương khác Bộ luật hình sự, do đó, cần phải tách riêng nhóm tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng với nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính. Vì vậy, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định Chương XIX - "Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng" để làm cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự những người có hành vi xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, qua đó gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, của tổ chức, thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của công dân, xâm phạm đến các hoạt động bình thường, ổn định của xã hội và nơi công cộng [44, tr.16-17]. 13
  22. Tuy nhiên dưới góc độ khoa học, về khái niệm "các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng" có nhiều quan điểm khác nhau. Có tác giả quan niệm: Các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định tại Chương XIX của Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến an toàn công cộng, trật tự công cộng, gây ra những thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe của nhân dân, gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước và của cá nhân [51, tr.401]. Quan điểm này nêu tương đối đầy đủ nội dung, nhưng trong dấu hiệu chủ thể của nhóm tội phạm này còn chưa nêu dấu hiệu "đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự", vì đây là một dấu hiệu hoàn toàn khác với dấu hiệu "có năng lực trách nhiệm hình sự". Cũng có tác giả quan niệm: Các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, xâm phạm vào những quy định của nhà nước về an toàn, trật tự công cộng trong các lĩnh vực giao thông vận tải, phòng cháy chữa cháy, tin học, lao động sản xuất, quản lý vũ khí, phương tiện, công cụ hỗ trợ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, và trong những lĩnh vực khác của trật tự xã hội gây nên những thiệt hại về tính mạng, tổn hại đến sức khỏe, tài sản của Nhà nước và của công dân [29, tr.494]. Quan điểm này có nhân tố hợp lý là đã phân loại đầy đủ và chi tiết từng nhóm tội xâm phạm đến các lĩnh vực khác nhau liên quan đến an toàn công cộng, trật tự công cộng, tuy nhiên lại chưa thấy nêu dấu hiệu chủ thể của nhóm tội phạm này trong khái niệm đã nêu. 14
  23. Tác giả khác lại cho rằng: Các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, do người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm vào những quy định của Nhà nước về an toàn công cộng, trật tự công cộng, gây ra những thiệt hại về tài sản của Nhà nước, của tổ chức, thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của công dân, xâm phạm đến hoạt động bình thường ở những nơi công cộng [22, tr.439]. Quan điểm này nêu tương đối đầy đủ nội dung, trong đó nhấn mạnh thêm việc các hành vi xâm phạm đến cả "hoạt động bình thường ở những nơi công cộng, nhưng trong dấu hiệu chủ thể của nhóm tội phạm này còn chưa nêu dấu hiệu "đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự" như quan điểm đã nêu trên, vì đây là một dấu hiệu hoàn toàn khác với dấu hiệu "có năng lực trách nhiệm hình sự". Mặc dù, về khái niệm "các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng" trong khoa học pháp lý có nhiều quan điểm khác nhau, song tựu trung lại tổng hợp các quan điểm đó vẫn thống nhất trong việc nêu ra bản chất pháp lý của nhóm tội phạm này. Dưới góc độ khoa học luật hình sự, các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng bao gồm các quy phạm pháp luật hình sự, quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội, do những người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm vào các quy định của Nhà nước về an toàn công cộng, trật tự công cộng, gây ra những thiệt hại về tài sản của Nhà nước, của tổ chức, thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của công dân, đồng thời còn xâm phạm đến hoạt động bình thường, ổn định xã hội ở những nơi công cộng. 15