Luận văn Những vấn đề pháp lý về chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Những vấn đề pháp lý về chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_nhung_van_de_phap_ly_ve_chong_ban_pha_gia_hang_hoa.pdf
Nội dung text: Luận văn Những vấn đề pháp lý về chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ PHƯƠNG LINH NH÷NG VÊN §Ò PH¸P Lý VÒ CHèNG B¸N PH¸ GI¸ HµNG HãA NHËP KHÈU VµO VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. BÙI NGỌC CƯỜNG HÀ NỘI - 2014
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Vũ Phương Linh
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BÁN PHÁ GIÁ VÀ PHÁP LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ 5 1.1. Quan niệm về bán phá giá và chống bán phá giá 5 1.1.1. Bán phá giá 5 1.1.2. Chống bán phá giá 16 1.2. Pháp luật chống bán phá giá 22 1.2.1. Khái niệm và vai trò của pháp luật chống bán phá giá 22 1.2.2. Hiệp định chống bán phá giá của WTO và pháp luật chống bán phá giá của một nước trên thế giới 26 Chương 2: PHÁP LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ Ở VIỆT NAM 38 2.1. Khái lược về sự hình thành pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam 38 2.2. Nội dung cơ bản của pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam 40 2.2.1. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng 40 2.2.2. Xác định hàng hóa bị bán phá giá nhập khẩu vào thị trường Việt Nam 42 2.2.3. Điều kiện và nguyên tắc áp dụng biện pháp chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam 49 2.2.4. Các biện pháp chống bán phá giá 53
- 2.2.5. Thủ tục điều tra để áp dụng biện pháp chống bán phá giá 55 2.2.6. Áp dụng biện pháp chống bán phá giá 62 2.2.7. Rà soát việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá 68 2.2.8. Khiếu nại, khởi kiện, giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm pháp luật chống bán phá giá 69 Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 72 3.1. Thực trạng bán phá giá và chống bán phá giá ở Việt Nam 72 3.1.1. Một số hiện tượng bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam 72 3.1.2. Thực trạng áp dụng pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam – một số kết quả đạt được 73 3.1.3. Một số tồn tại, bất cập trong việc áp dụng pháp luật chống bán phá ở Việt Nam 76 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam 80 3.2.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam 80 3.2.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam 88 KẾT LUẬN 93 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 95
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ADA Hiệp định chống bán phá giá của WTO ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á CPSX Chi phí sản xuất EC Ủy ban Châu Âu EU Liên minh Châu Âu GATT Hiệp định chung về thuế quan thương mại GNK Giá nhập khẩu GTTT Giá trị thực tế GXK Giá xuất khẩu PLAD Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004 WTO Tổ chức Thương mại Thế giới
- MỞ ĐẦU 1 . Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia tổ chức kinh tế quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa và quốc tế nền kinh tế hiện nay là xu thế không thể đảo ngược lại đối với mỗi quốc gia khi phát triển kinh tế của mình. Trong quá trình phát triển kinh tế và thực hiện đường lối chủ động hội nhập kinh tế toàn cầu, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Thị trường rộng hàng hóa và dịch vụ trong nước được mở rộng, hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu được thúc đẩy mạnh mẽ hu hút được nhiều vốn đầu tư trong và ngoài nước, tác động tích cực tới việc chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, phát huy lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng cao và bền vững. Những thành tựu này đã tạo cơ hội cho Việt Nam tiếp tục những bước phát triển khả quan trong tương lai. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội to lớn đó thì quá trình hội kinh tế quốc tế, nước ta cũng phải đối mặt không ít với những khó nghiệp phải đương đầu. Việc Việt Nam tham gia vào ASEAN, APEC và đàm phán xin gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO đồng nghĩa với việc có sự thay đổi sâu sắc các chính sách thương mại liên quan đến việc mở cửa thị trường. Điều này dẫn tới hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, trong đó có vấn đề bán phá giá hàng hóa đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam sẽ gia tăng trên thị trường, có thể gây ra những tổn thất lớn cho các nhà sản xuất tương tự trong nước. Trước tình hình thực tế đặt ra, có thể thấy rằng vai trò của Nhà nước là không thể thiếu trong việc đưa ra các biện pháp chống lại việc bán phá giá nhằm bảo vệ nền sản xuất trong nước, tạo lập môi trường pháp lý vững chắc cho hoạt động thương mại, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia vào đời sống kinh tế quốc tế. Vì vậy, học viên chọn nghiên cứu và tìm hiểu đề tài luận văn: “Những vấn đề pháp lý về chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam”. 1
- 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển đã quá quen thuộc với vấn đề bán phá giá và pháp luật chống bán phá giá, tuy nhiên vấn đề này vẫn còn rất mới mẻ ở Việt Nam. Mặc dù đây là vấn đề còn mới mẻ nhưng cũng đã nhanh chóng thu hút sự quan tâm nghiên cứu ở Việt Nam. các nhà kinh tế và pháp lý nước ta đã có một số công trình tiêu biểu đề cập đến lĩnh vực này như: Bán phá giá và biện pháp, chính sách chống bán phá giá hàng nhập khẩu của Đoàn Văn Trường (NXB Thống Kê – 1998); Tìm hiểu pháp luật chống bán phá giá của WTO và Hoa Kỳ của TS. Hoàng Phước Hiệp (tạp chí Luật học, (1), 2003); Pháp luật chống bán phá giá của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam – 2004; Tìm hiểu ảnh hưởng của pháp luật chống bán phá giá đối với cạnh tranh của PGS.TS. Mai Hồng Quỳ và ThS. Trần Việt Dũng (tạp chí Nhà nước và Pháp luật – (12), 2004); Tìm hiểu luật và chính sách chống bán phá giá (anti-dumping) của Mỹ của tác giả Đỗ Tuyết Khanh đăng trên Tạp chí Thời đại mới số 01- tháng 03/2004; Pháp luật về chống bán phá giá trong thương mại quốc tế - Những vấn đề lý luận và thực tiễn của Nguyễn Thị Quỳnh Vân (Luận văn thạc sỹ Luật học – 2004); Pháp luật chống bán phá giá của WTO và vấn đề hoàn thiện pháp luật của Việt Nam về chống bán phá giá của Lê Như Phong (Luận văn thạc sỹ luật học – 2004); Một số vấn đề cơ bản về pháp luật chống bán phá giá của WTO của Trần Văn Hải (Luận văn thạc sĩ luật học - 2007); Pháp luật về chống bán phá giá thương mại quốc tế của Nguyễn Trần Duy (Luận văn thạc sỹ luật học - 2007); Quy trình một vụ điều tra bán phá giá của tác giả Bành Quốc Tuấn đăng trên Tạp chí Phát triển và Hội nhập số 6 - tháng 8/2010; Pháp luật chống bán phá giá của Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp Việt Nam của tác giả Hoàng Thị Phượng (Luận văn thạc sỹ luật học - 2012); Hoàn thiện pháp luật chống bán phá giá của ThS. Kim Thị Hạnh - Trưởng phòng Công tác Đại biểu, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Tây Ninh- 2013; Các công trình trên 2
- mặc dù có đóng góp to lớn vào việc nghiên cứu vấn đề bán phá giá và pháp luật chống bán pháp giá ở nước ta, tuy nhiên, phạm vi của những nghiên cứu của các công trình trên hoặc là còn quá hẹp, phần lớn mới chỉ dừng lại ở hình thức các bài viết trên báo hoặc tạp chí chuyên ngành, hoặc là mới chỉ tập trung nghiên cứu và lĩnh vực chống bán phá giá của WTO, Mỹ, EU và hàng hóa của Việt Nam bị chống bán phá giá ở nước ngoài. Đến nay hầu như chưa có một công trình nghiên nào cứu đầy đủ, toàn diện và công phu những khía cạnh pháp lý cơ bản và vấn đề thực thi pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam. 3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Trong khuôn khổ bàn luận văn này, tác giả chỉ đề cập một số nội dung pháp lý cơ bản, khái quát nhất của pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam. Tuy nhiên, do pháp luật chống bán phá giá là một lĩnh vực pháp luật còn mới mẻ, thậm chí là "xa lạ" ở Việt Nam, còn có rất nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cần luận giải, vì thế, luận văn chỉ đi vào tìm hiểu tất cả các quy định chủ yếu về chống bán phá giá trong lĩnh vực thương mại hàng hóa đối với hàng hóa được nhập khẩu và việt Nam bị bán phá giá, mà không có tham vọng đi vào tìm hiểu tất cả các quy định về chống bán phá giá trong lĩnh vực thương mại nói chung. Với phạm vi nghiên cứu này thì luận văn khó có thể giải quyết thỏa đáng được mọi khía cạnh của đề tài. Do đó, tác giả hy vọng sẽ được trở lại đề tài này trong một công trình nghiên cứu toàn diện hơn và với một yêu cầu cao hơn. 4. Phương pháp nghiên cứu đề tài Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu: phân tích, đối chiếu, tổng hợp, khái quát hóa, khảo sát thực tiễn và đặc biệt là phương pháp so sánh luật học, đồng thời vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước và pháp luật và những quan điểm của Đảng và Nhà nước về đổi mới kinh tế trong giai đoạn hội nhập hiện nay để giải quyết các vấn đề mà nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài đặt ra. 3
- 5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài Đề tài có mục đích và nhiệm vụ là tìm hiểu khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về bán phá giá, chống bán phá giá và pháp luật chống bán phá giá, từ đó đi vào tìm hiểu những nội dung cơ bản của pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam đồng thời đánh giá khái quát vấn đề thực thi pháp luật chống bán phá giá ở nước ta trong thời gian qua và thời gian sắp tới, qua đó luận văn đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi lĩnh vực pháp luật này. 6. Những đóng góp mới của luận văn Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ luận văn thạc sỹ nghiên cứu một cách có hệ thống và tương đối toàn diện pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam. Luận văn đã có những đóng góp sau đây: - Phân tích, đánh giá tương đối toàn diện, đầy đủ và có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về bán phá giá, chống bán phá giá, khái niệm và vai trò của pháp luật chống bán phá giá và pháp luật chống bán phá giá của một số nước trên thế giới. - Xác định và luận giải được những nội dung cơ bản của pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam. - Đánh giá được thực trạng thực thi pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam, từ đó đưa ra được một vài kiến nghị đối với Nhà nước và các doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi lĩnh vực pháp luật này. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn có kết cấu phù hợp với mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu. Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 03 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về bán phá giá và pháp luật chống bán phá giá. Chương 2: Pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam. Chương 3: Vấn đề thi hành pháp luật chống bán phá giá ở Việt Nam và một vài kiến nghị. 4
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BÁN PHÁ GIÁ VÀ PHÁP LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ 1.1. Quan niệm về bán phá giá và chống bán phá giá 1.1.1. Bán phá giá 1.1.1.1. Khái niệm bán phá giá * Dưới góc độ ngôn ngữ Theo cách hiểu thông thường, bán phá giá là bán dưới giá thị trường. Chẳng hạn như tại một nhà ga ai cũng bán đĩa cơm sườn với giá 5.000 đồng bỗng nhiên có người bán với giá 3.000 đồng, thì hành động đó bị coi là bán phá giá [16]. Theo từ điển tiếng Việt trực tuyến, phiên bản ngày 18/3/2004 của Trung tâm Từ điển học Việt Nam thì: “Bán phá giá là việc bán ồ ạt với giá thấp hơn giá thị trường, thậm chí chịu lỗ, để tăng khả năng cạnh tranh và chiếm đoạt thị trường” [32, tr.6]. Như vậy, giữa hai cách hiểu về bán phá giá như trên có những nét tương đồng đó là việc bán dưới – thấp hơn giá thị trường. Tuy nhiên, cách hiểu thứ nhất không quan tâm đến mục đích của việc bán phá giá là gì, có nhằm mục đích chiếm đoạt thị trường hay không, vì vậy, coi hành động đó là bán phá giá và chê trách hành động đó là chưa hẳn đã chính xác, thậm chí là sai. Bởi lẽ, trong nền kinh tế thị trường, cứ giá nào có người mua thì người ta có quyền bán, hơn nữa có thể hàng hóa của họ là hàng hóa dư thừa, tồn kho, mất mốt hoặc có nhu cầu quay vòng vốn nhanh, nên cần phải bán dưới giá thị trường để tiêu thụ được hàng hóa. Tuy nhiên, định nghĩa thuật ngữ bán phá giá của Từ điển tiếng Việt trực tuyến không chỉ quan tâm đến hiện tượng bán dưới giá thị trường mà lại chú trọng đến cả mục đích của hành động bán dưới giá thị trường đó là để tăng khả năng cạnh tranh và chiếm đoạt thị trường. Như vậy, theo định nghĩa này, bán phá giá rõ ràng là 5
- một hành vi cạnh tranh không lành mạnh và cần phải ngăn chặn, nếu muốn duy trì sự ổn định của thị trường và môi trường kinh doanh. Trong tiếng Anh, bán phá giá được dịch ra từ thuật ngữ “Dumping” [18, tr.11]. Tuy nhiên thuật ngữ này có nhiều nghĩa khác nhau, chẳng hạn theo nghĩa thông thường dumping có nghĩa là vứt bỏ thứ gì đó mà bạn không thích (to get rid of something you do not want), còn theo nghĩa chuyên ngành thương mại thì dumping có nghĩa là bán tống một món hàng với mức giá rất thấp, thường là bán sang nước khác (To get rid of goods by selling them at a very low prince, often in another country). Như vậy, theo định nghĩa huật ngữ dumping được hiểu là bán phá giá và để xác định có hay không có hành động bán phá giá người ta quan tâm đến mức giá bán hàng và thường là có sự so sánh giá giữa các thị trường quốc gia khác nhau. Trong tiếng Pháp, bán phá giá được dịch ra từ thuật ngữ “dumping commercial” [32, tr.7]. Đây là hiện tượng thương mại khi bán hàng hóa ở thị trường nước ngoài với mức giá thấp hơn mức hiện tại của thị trường trong nước. Với cách hiểu này thì bán phá giá là sự phân biệt giá cả giữa thị trường quốc gia khác nhau, theo đó nếu giá bán một món hàng X nào đó tại thị trường trong nước cao hơn giá bán món hàng X đó tại thị trường nước ngoài thì hành động đó bị coi là bán phá giá. Như vậy, qua khảo cứu cách hiểu thông thường của một số ngôn ngữ khác nhau về thuật ngữ bán phá giá, cho thấy, các cách hiểu này đều chưa phản ánh đầy đủ, nhưng đã nói lên phần nào dấu hiệu đặc trưng của bán phá giá. Đó là hiện tượng bán hàng thường là bán ra nước ngoài, với một mức giá rất thấp, nhằm mục tiêu nâng cao khả năng cạnh tranh và chiếm đoạt thị trường. * Dưới góc độ pháp lý Trong thương mại quốc tế, bán phá giá được hiểu là sự phân biệt giá cả giữa các thị trường quốc gia [26, tr.10]. Với cách hiểu này thì bán phá giá có 6
- thể xẩy ra các tình huống khác nhau, có thể là: người sản xuất / người xuất khẩu bán hàng hóa của mình tại thị trường trong nước với giá thấp hơn giá bán hàng hóa đó ở thị trường nước ngoài; hoặc người sản xuất / người xuất khẩu bán hàng hóa của mình với mức giá khác nhau ở các thị trường nước ngoài khác nhau. Như vậy, điểm mấu chốt của cách hiểu này là sự phân biệt giá cả của cùng một hàng hóa ở các thị trường quốc gia khác nhau, bất luận là cao hơn hay thấp hơn được tính ở mỗi thị trường. Tuy nhiên, trong các tình huống có thể xẩy ra như đã phan tích ở trên, thì thực tiễn hoạt động thương mại quốc tế đã chứng minh rằng chỉ có cách hiểu thứ hai đó là hàng hóa được bán ở thị trường trong nước với mức giá cao hơn mức giá bán ở thị trường nước ngoài thì mới có thể gây tổn hại đối với nước nhập khẩu, nhất là đối với các nhà sản xuất các hàng hóa tương tự ở nước nhập khẩu. Do đó, hành động bán phá giá này mới cần phải ngăn chặn. Với cách tiếp cận này thì bán phá giá có thể được hiểu như sau: Bán phá giá là sự phân biệt giá cả mang tính quốc tế, trong đó giá của một hàng hóa khi được bán tại thị trường của nước nhập khẩu với giá thấp hơn giá trị của hàng hóa đó được bán tại thị trường của nước xuất khẩu. Cách hiểu trên phù hợp với cách hiểu về bán phá giá của WTO. Theo Điều 2, Hiệp định thực thi Điều VI của GATT 1994 thì: một sản phẩm bị coi là bán phá giá (tức là được đưa vào lưu thông thương mại của một nước khác thấp hơn giá trị thông thường của sản phẩm đó) nếu như giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ một nước này sang một nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường. Theo định nghĩa trên, bán phá giá là hành động mang sản phẩm của một nước sang bán ở một nước khác với mức GXK thấp hơn GTTT của sản phẩm đó khi được bán ở trong nước. Thí dụ, người sản xuất vải ở Trung Quốc 7
- bán vải lụa ở thị trường Trung Quốc với giá 20 USD/mét, nếu người đó xuất khẩu vải cùng loại sang thị trường Việt Nam và bán với giá 10 USD/mét, thì người đó đã hành dộng bán phá giá. Như vậy, trong thương mại quốc tế, trung tâm của khái niệm bán phá giá là có sự phân biệt về giá, khi GXK thấp hơn GTTT của sản phẩm đó ở trong nước xuất khẩu. Tuy nhiên, trên thực tế việc xác định hiện tượng bán phá giá là một vấn đề vô cùng phức tạp. Ở Việt Nam, thuật ngữ bán phá giá lần đầu tiên xuất hiện trong Luật thuế nhập khẩu 1993 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 1998), nhưng tại Luật này, thuật ngữ bán phá giá chưa được định nghĩa chi tiết, phải đến pháp luyện giá năm 2002, thuật ngữ bán phá giá mới chính thức được định nghĩa chi tiết như sau: bán phá giá là hành vi bán hàng hóa, dịch vụ với giá quá thấp so với giá thông thường trên thị trường Việt Nam để chiếm lĩnh thị trường, hạn chế cạnh tranh đúng pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh khác và lợi ích của nhà nước (Khoản 3, Điều 4). Tuy nhiên, định nghĩa bán phá giá này chỉ đề cập đến hàng hóa, dịch vụ được sản xuất trong nước được bán phá giá ở thị trường trong nước – phá giá nội địa, chứ hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam bị bán phá giá thì Pháp lệnh này không điều chỉnh. Hiện nay, vấn đề này đã chính thức được quy định tại Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004 (PLAD), nhưng PLAD này không trực tiếp định nghĩa thế nào là bán phá giá mà chỉ đưa ra cách xác định hàng hóa bị bán phá giá vào Việt Nam như sau: Hàng hóa có xuất xứ từ nước hoặc vùng lãnh thổ bị coi là bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam nếu hàng hóa đó được bán với giá thấp hơn giá thông thường và định nghĩa về biên độ bán phá giá là: khoảng cách chênh lệch có thể tính toán được giữa giá thông thường của hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam so với giá xuất khẩu hàng hóa đó vào Việt Nam. 8
- Như vậy, bán phá giá theo Pháp lệnh này được hiểu là hiện tượng khi giá xuất khẩu một hàng hóa nào đó vào Việt Nam thấp hơn giá trị thông thường của hàng hóa đó. Nhìn chung cách hiểu này là tương đồng với cách hiểu về bán phá giá trong thương mại quốc tế. 1.1.1.2. Bản chất của việc bán phá giá Khái niệm bán phá giá ngày càng được hoàn thiện như đã phân tích ở trên, tuy nhiên, vấn đề mấu chốt có ý nghĩa quan trọng hàng đầu là cần phải xác định khi nào thì hành vi bán phá giá là hành vi cạnh tranh không lành mạnh, khi nào thì hành vi đó là hành vi bình thường về mặt kinh tế cũng như việc chống hay không chống hành vi đó sẽ gây ra những tác động như thế nào đối với môi trường kinh doanh, lợi ích của toàn xã hội và của mỗi người tiêu dùng. Tìm hiểu bản chất của việc bán phá giá sẽ lý giải được những vấn đề nói trên. * Bán phá giá là sự phân biệt giá cả mang tính quốc tế Phân biệt giá cả mang tính quốc tể xẩy ra khi thị trường bị phân biệt là thị trường của các nước khác nhau. Theo đó, GXK của hàng hóa thường phải cao hơn so với giá của hàng hóa tại thị trường nội địa vì sản xuất / nhà xuất khẩu phải chịu thêm chi phí xuất khẩu như vận chuyển đến cảng / sân bay / nhà ga; chi phí bảo hiểm cho hàng hóa, Do đó, đúng ra là họ phải bán hàng hóa tại thị trường của nước nhập khẩu cao hơn so với giá bán hàng hóa đó tại thị trường của nước xuất khẩu. Tuy nhiên, vì theo đuổi hành vi phân biệt giá cả mang tính quốc tế, họ đã bán hàng hóa tại thị trường của nước nhập khẩu thấp hơn giá bán hàng hóa đó tại thị trường của nước xuất khẩu, do đó hành vi này bị coi là bán phá giá. Một doanh nghiệp được hưởng lợi thế thống lĩnh và độc quyền trên thị trường nội địa có thể bán sản phẩm trong nước với mức giá rất cao. Nếu chi phí xuất khẩu hàng hóa đó thấp hoặc là doanh nghiệp muốn thâm nhập vào 9
- một thị trường mới, thì mức giá bán hàng hóa tại thị trường của nước nhập khẩu do doanh nghiệp đặt ra có thể thấp hơn nhiều so với giá bán hàng hóa đó ở thị trường trong nước. Trong trường hợp này doanh nghiệp bị coi là bán phá giá. Bản chất của hành vi bán phá giá kể trên không phải là do doanh nghiệp áp đặt giá thấp của nước nhập khẩu mà do doanh nghiệp đã áp đặt giá cao ở thị trường trong nước. Do đó, nếu bán phá giá xẩy ra dưới hình thức phân biệt giá mang tính quốc tế thì biện pháp chống bán phá giá sẽ không mang lại lợi ích kinh tế mà trước hết là phải loại trứ mức giá cao bất hợp lý tại thị trường nội địa. Bán phá giá hình thành do lạm dụng vị thế thống lĩnh và vị thế độc quyền của doanh nghiệp trên thị trường nội địa chứ không phải trên thị trường của nước nhập khẩu. Chính sức mạnh thống lĩnh và độc quyền ở thị trường trong nước đã làm giảm lợi ích của toàn xã hội của nước xuất khẩu và ngược lại với mức giá thấp sẽ tạo ra những tác động tích cực đến lợi ích kinh tế của nước nhập khẩu. Bởi vậy, việc chống bán phá giá vẫn còn là một vấn đề cần phải cân nhắc trước khi áp dụng. Cho nên, có quan điểm không ủng hộ cho việc phá giá không làm giá ở thị trường của nước nhập khẩu thay đổi, nên không làm ảnh hưởng đến lợi ích của nước nhập khẩu, và vì thế thì không cần có biện pháp chống lại hành động này. Thậm chí có quan điểm cho rằng: “nước A xuất khẩu một món hàng sang nước B mà giá bán tại nước B thì thấp hơn giá bán tại nước A. Bán giá rẻ hơn ở nước B không phải là phá giá” [16]. Tác phẩm này dưa ra ví dụ và giải thích như sau: Một chiếc xe ô tô làm ra ở Nhật, bán ở Nhật thì giá 40.000 USD mà chở qua Mỹ bán thì giá chỉ 20.000 USD. Nếu các bạn thấy vô lý, thì tôi phải gióng chuông báo động các bạn coi chừng đang rơi vào tư duy kinh tế chỉ huy, chứ không phải kinh tế thị trường nếu đã nói đến kinh tế thị trường, thì phải chấp nhận nguyên tắc căn bản, đó là giá mua giá bán một món hàng chỉ tùy thuộc cung cầu mà 10
- thôi. Cung cao mà cầu thấp thì giá thấp, cung thấp mà cầu cao thì giá cao Xét theo tinh thần kinh tế thị trường và mậu dịch tự do, không có lý do gì để cấm một hàng không thể xuất khẩu với giá thấp hơn giá bán trong nội địa [5]. Quan điểm thứ nhất cho rằng nếu việc bán phá giá xẩy ra với một số lượng lớn, trong một thời gian dài thì sẽ làm giảm giá mặt hàng tương tự tại thị trường của nước nhập khẩu. Điều này sẽ gây ra những tác động tiêu cực đối với các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng tương tự tại thị trường nước nhập khẩu, chủ doanh nghiệp bị giảm lợi nhuận do phải hạ giá để cạnh tranh với mặt hàng nhập khẩu, công nhân làm việc trong doanh nghiệp có nguy cơ bị giảm tiền công vì hàng hóa bán được với giá thấp. Tuy nhiên, nếu giá bán của hàng hóa nhập khẩu thấp hơn giá bán của hàng hóa nội địa tương tự thì người tiêu dùng sẽ được lợi, họ được hưởng lợi thế về giá và được tiếp cận hàng ngoại với giá rẻ. Vì vậy, trước khi áp dụng biện pháp chống bán phá giá cần phải cân nhắc việc áp dụng biện pháp nào sẽ có lợi hơn đối với nền kinh tế của nước nhập khẩu. Xét dưới góc độ toàn cục, lợi ích cuối cùng mà nước nhập khẩu cần phải bảo vệ là lợi ích của người tiêu dùng. Và lợi ích của người tiêu dùng thì rõ ràng lớn hơn nhiều những thiệt hại mà các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa tương tự phải gánh chịu. Do đó, nếu muốn bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp trong nước thì việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá sẽ không phải là giải pháp tối ưu. Quan điểm thứ hai cho rằng việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá sẽ gây sức ép làm tăng tính cạnh tranh tại thị trường nước xuất khẩu bằng cách xóa bỏ các hàng rào thương mại - công cụ tạo thế độc quyền cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Tuy nhiên, quan điểm này cũng cần phải cân nhắc vì tăng tính cạnh tranh tại thị trường nước xuất khẩu chưa chắc đã là điều mà nước nhập khẩu mong muốn khi áp dụng biện pháp chống bán phá giá này. 11
- Quan điểm thứ ba lại cho rằng việc bán phá giá có thể gây lãng phí nguồn lực tại nước nhập khẩu do nươc này phải điều chỉnh giá để đạt mức giá thấp hơn. Cho nên cần phải chống bán phá giá. Tuy nhiên, qua điểm này chỉ đúng khi hàng nhập khẩu bị bán phá giá trong thời gian ngắn với số lượng nhỏ, còn nếu việc bán phá giá với số lượng lớn, trong một thời gian dài thì việc điều chỉnh nguồn lực tại nước nhập khẩu là hoàn toàn hợp lý và không hề lãng phí. * Bán phá giá là bán dưới hình thức chi phí làm ra món hàng đó (chi phí sản xuất) Trong thương mại quốc tế, bán há giá còn bao gồm cả tình huống GXK hàng hóa thấp hơn chi phí sản xuất ra món hàng hóa đó. Bởi lẽ, đây cũng là một hình thức phân biệt giá, vì doanh nghiệp không thể duy trì việc bán hàng dưới chi phí sản xất ra món hàng đó nếu không bù lỗ cho phần này ằng những phần bán hàng trên chi phí tại các thị trường khác. Thông thường việc doanh nghiệp ban phá giá trong trường hợp này không phải nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận mà nhằm các mục tiêu sau đây: Độc chiếm thị trường: Mục đích của hành vi bán phá giá này là doanh nghiệp bán hàng với giá thấp nhằm thôn tính, độc chiếm thị trường. Sau một thời gian chịu lỗ, doanh nghiệp sẽ loại được đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị trường và khi đạt được điều này, doanh nghiệp sẽ tăng giá để thu lợi nhuận độc quyền. Trong trường hợp này, doanh nghiệp đã hy sinh lợi nhuận ngắn hạn để tối đa hóa lợi nhuận dài hạn. Hành vi này không chỉ gây những thiệt hại lớn cho cá doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng cạnh tranh của nước nhập khẩu mà thậm chí sau một thời gian ngắn được hưởng lợi về gia thì người tiêu dùng cũng sẽ bị thiệt hại khi doanh nghiệp đẩy giá lên cao để thu lợi nhuận độc quyền Vì vậy, hành vi này cần phải được ngăn chặn. Đây cũng là lý luận cổ điển của các học giả và nhà 12
- lập pháp ủng hộ quan điểm áp dụng các biện pháp chống bán phá giá [22]. Tuy nhiên, trên thực tế việc bán phá giá theo cách này khó có thể thực hiện, vì để đạt được mục tiêu tiêu diệt đối thủ cạnh tranh đó, doanh nghiệp không những phải loại bỏ tất cả các đối thủ cạnh tranh khác ra khỏi thị trường mà còn phải tìm loại bỏ tất cả cách ngăn chặn sự quy trở lại của các đối thủ cạnh tranh khi giá bị đẩy lên cao. Đây là việc làm rất khó khăn vì khi đã thôn tính được thị trường, nước nhập khẩu có thể triệt tiêu sứ mạnh độc quyền của doanh nghiệp bằng cách đánh thuế đối với lợi nhuận độc quyền. Thực tế cho thấy, tỷ lệ các vụ tranh chấp thương mại liên quan đến hành vi bán phá giá nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh là rất hiếm. Tuy nhiên, lịch sử thương mại quốc tế cũng đã chứng kiến có vụ bán phá giá theo kiểu như vậy, đó là trường hợp Nhật Bản bán phá giá hàng tivi tại thị trường Mỹ. Vào đầu những năm 1960, sáu công ty điện tử hàng đầu của Nhật là Hitachi, Misushita, Sanyo, Sharp, Misubishi và Tosiba đã cạnh tranh gay gắt với nhau. Nhưng đến cuối năm 1964, các công ty này đã thỏa thuận với nhau nhằm thống nhất nâng giá bán, quy định sản lượng của mỗi công ty. Kết quả của việc thỏa thuận này là trong nhiều năm, người tiêu dùng Nhật Bản phải trả 700 USD cho một chiếc tivi màu, trong khi các công ty đó bán ở Mỹ chỉ với giá 400 USD một tivi màu cùng loại (CPSX ra một chiếc tivi màu là 450 USD). Việc bán phá giá đó đã làm cho các công ty sản xuất tivi của Mỹ không chịu nổi quá trình cạnh tranh và cho đến cuối năm 1989, nhiều hãng tivi của Mỹ bị phá sản, công nghiệp sản xuất tivi của Mỹ bị suy yếu mạnh [26, tr. 27]. Như vậy, sau một thời gian chịu thua lỗ, các công ty của Nhật đã chiếm lĩnh được thị trường tivi tại Mỹ và khi đạt được mục đích này, họ bắt đầu chiến lược nâng giá để thu lợi nhuận độc quyền. * Cạnh tranh giành thị phần Một số doanh nghiệp xuất khẩu hàng với mức giá thấp hơn chi phí 13
- biên nhằm mục tiêu chiếm được thị phần cao hơn trên thị trường của nước nhập khẩu. Trong trường hợp này, doanh nghiệp đã bán phá giá hàng hóa. Tuy nhiên, mục tiêu của doanh nghiệp là không định thôn tính toàn bộ thị trường mà chỉ cố tăng thị phần của mình. Vì vậy, việc áp dụng các biện pháp chống phá giá trong trường hợp này cũng không phải là giải pháp tối ưu. Bởi các lý do sau đây: - Đối với các thị trường lần đầu tiên thâm nhập, để cạnh tranh với hàng hóa cùng loại ở trong nước, các doanh nghiệp thường sử dụng hành động này vì hàng hóa nhập khẩu mới chưa được người tiêu dùng biết đến về mẫu mã, bao bì, chủng loại và chất lượng, như thế nào nên doanh nghiệp phải có các chiêu xúc tiến thương mại như hạ giá để người tiêu dùng tiếp cận hàng hóa. Sau một thời gian dùng thử hàng hóa, nếu người tiêu dùng chấp nhận được thì doanh nghiệp có thể tăng giá để bù đắp phần lỗ trước đó. Hành động bán phá giá này của doanh nghiệp sẽ tạo cơ hội cho người tiêu dùng được sử dụng hàng hóa nhập ngoại chất lượng tốt, mẫu mã đẹp giá lại rẻ. Cho dù sau đó, doanh nghiệp có thể tăng giá cho đúng giá trị của hàng hóa thì cũng là quy luật bình thường. - Thông qua hoạt động này, doanh nghiệp có thể tiếp nhận được các thông tin phản hồi từ phá người tiêu dùng để có kế hoạch kịp thời sửa chữa, cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng hàng hóa và thái độ phục vụ, sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Một khi doanh nghiệp đáp ứng được các đòi hỏi khắt khe đó của thương trường thì chắc chắn doanh số bán hàng của doanh nghiệp sẽ tăng mạnh trong tương lai nên hiện tại họ sẵn sàng bán hàng với giá thấp hơn chi phí sản xuất. Trong ngắn hạn, người tiêu dùng ở nước nhập khẩu sẽ được hưởng lợi do mua được hàng ngoại nhưng giá lại rẻ hơn hàng nội. Trong dài hạn, khả năng này vẫn có thể diễn ra do chi phí sản xuất vẫn luôn có xu hướng giảm vì sức ép của việc cải 14
- tiến, đổi mới trang thiết bị, nâng cao năng lực sản xuất đáp ứng nhu cầu cạnh tranh. Thậm chí cac doanh nghiệp trong nước cũng được hưởng lợi từ hành động này của các doanh nghiệp xuất khẩu vì muốn tồn tại và đứng vững trong cuộc cạnh tranh khốc liệt đó thì họ buộc phải học hỏi các đối thủ của mình để nâng cao năng lực cạnh tranh, còn nếu không họ sẽ bị các doanh nghiệp nước ngài bỏ xa và có nguy cơ bị đào thải. Thu hồi lại một phần vốn hoặc quay vòng vốn nhanh Một số doanh nghiệp có thể xuất khẩu với mức giá thấp hơn chi phí sản xuất nhằm mục tiêu thu hồi lại một phần vốn hặc muốn quy vòng vốn nhanh đã bỏ vào kinh doanh. Trong trường hợp này, doanh nghiệp cũng đã bán phá giá hàng hóa, tuy nhiên mục tiêu của doang nghiệp không phải là nhằm thôn tính thị trường cũng như mục tiêu tăng thị phần mà đơn giản chỉ vì họ muốn thu hồi lại một phần vốn đối với các hàng hóa dư thừa, tồn kho hoặc ế ẩm như hàng hóa đã lỗi mốt, hết mùa, Các loại hàng hóa này không thể giải quyết được theo cơ chế giá bình thường mà phải co các giải pháp thích hợp để tiêu thụ chúng. Hoặc là, họ nhằm mục đích quay vòng vốn nhanh nên đã bán tống bán tháo hàng hóa với giá rất thấp để thu hồi lại vốn để sản xuất mặt hàng "ngon ăn" hơn. Việc bán phá giá hàng hóa với mục tiêu như vậy, rõ ràng không gây thiệt hại đến lợi ích của nước nhập khẩu, biện pháp tốt nhất là hãy tận dụng số hàng hóa ngoại bán với giá rất rẻ này. Tóm lại, có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng bán phá giá như đã phân tích ở trên, nhưng không phải mọi trường hợp phá giá đều là hành vi thương mại tiêu cực, đều có thể áp dụng biện pháp ngăn cản. Bởi lẽ, nếu mọi trường hợp đều gán cho cái mác là "bán phá giá" và áp dụng các biện pháp ngăn cản thì sẽ tạo ra sự bảo hộ không cần thiết cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước, làm giảm lợi ích của người tiêu dùng và toàn xã hội. Chính vì vậy, khi có hiện tượng bán phá giá xẩy ra cần phải điều tra chính xác 15