Luận văn Những vấn đề lý luận và thực tiễn về phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong luật hình sự Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Những vấn đề lý luận và thực tiễn về phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong luật hình sự Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_nhung_van_de_ly_luan_va_thuc_tien_ve_pham_toi_co_ti.pdf
Nội dung text: Luận văn Những vấn đề lý luận và thực tiễn về phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong luật hình sự Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TẠ THỊ NGÂN NHỮNG VẤN ĐỀ Lí LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHẠM TỘI Cể TÍNH CHẤT CHUYấN NGHIỆP TRONG LUẬT HèNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012 1
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TẠ THỊ NGÂN NHỮNG VẤN ĐỀ Lí LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHẠM TỘI Cể TÍNH CHẤT CHUYấN NGHIỆP TRONG LUẬT HèNH SỰ VIỆT NAM Chuyờn ngành : Luật hỡnh sự Mó số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH Lờ Văn Cảm HÀ NỘI - 2012 2
- Lời cam đoan Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn ch•a từng đ•ợc ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Tạ Thị Ngân 3
- mục lục Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng mở đầu 1 Ch•ơng 1: Một số vấn đề lý luận chung về phạm tội có 8 tính chất chuyên nghiệp 1.1. Khái niệm, đặc điểm của phạm tội có tính chất chuyên nghiệp 8 và phân biệt nó với các hình thức đa (nhiều) tội phạm 1.1.1. Khái niệm phạm tội có tính chất chuyên nghiệp 8 1.1.2. Các đặc điểm của phạm tội có tính chất chuyên nghiệp 12 1.1.3. Phân biệt phạm tội có tính chất chuyên nghiệp với phạm tội 14 nhiều lần 1.2. Khái l•ợc sự hình thành và phát triển những quy định về phạm 16 tội có tính chất chuyên nghiệp trong luật hình sự Việt Nam 1.2.1. Giai đoạn từ khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công 16 cho đến tr•ớc khi Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời 1.2.2. Giai đoạn từ khi Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời cho đến 23 tr•ớc khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 1.2.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 cho đến nay 27 Ch•ơng 2: Các quy định về phạm tội có tính chất 33 chuyên nghiệp trong Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành và thực tiễn áp dụng 2.1. Các quy định về phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong 33 4
- Phần chung của Bộ luật hình sự 2.1.1. Nguyên tắc xử lý đối với ng•ời phạm tội có tính chất chuyên 33 nghiệp trong Bộ luật hình sự 2.1.2. Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là một tình tiết tăng nặng 37 trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự 2.2. Các quy định về phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong 41 phần các tội phạm của Bộ luật hình sự 2.2.1. Các quy định về phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong 41 Ch•ơng XII- "Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con ng•ời" của Bộ luật hình sự 2.2.2. Các quy định về phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong 44 Ch•ơng XIV- "Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự 2.2.3. Các quy định về phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong 50 Ch•ơng XVI- "Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế" của Bộ luật hình sự 2.2.4. Các quy định về phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong 54 Ch•ơng XVIII- "Các tội phạm về ma túy" của Bộ luật hình sự 2.2.5. Các quy định về phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong 55 Ch•ơng XIX- "Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng" của Bộ luật hình sự 2.3. Thực tiễn áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất chuyên 56 nghiệp trong hoạt động xét xử của Tòa án 2.3.1. Những v•ớng mắc, sai lầm trong việc áp dụng tình tiết phạm 56 tội có tính chất chuyên nghiệp trong hoạt động xét xử của Tòa án 2.3.2. Thực tiễn áp dụng tình tiết "phạm tội có tính chất chuyên 61 nghiệp" trong hoạt động xét xử các tội phạm buôn bán ng•ời của Tòa án 5
- 2.3.3. Thực tiễn áp dụng "tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp" 64 trong hoạt động xét xử các tội xâm phạm sở hữu của Tòa án 2.3.4. Thực tiễn áp dụng những quy định về phạm tội có tính chất 71 chuyên nghiệp trong hoạt động xét xử các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của Tòa án 2.3.5. Thực tiễn áp dụng những quy định về phạm tội có tính chất 75 chuyên nghiệp trong hoạt động xét xử các tội phạm về ma túy của Tòa án 2.3.6. Thực tiễn áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất chuyên 78 nghiệp trong hoạt động xét xử các vụ án xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng của Tòa án Ch•ơng 3: Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình 83 sự việt nam về phạm tội có tính chất chuyên nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định này 3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp luật hình 83 sự Việt Nam về phạm tội có tính chất chuyên nghiệp 3.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về 86 phạm tội có tính chất chuyên nghiệp 3.3. Nâng cao chất l•ợng trong hoạt động đấu tranh phòng ngừa 88 và chống các loại tội phạm có tính chất chuyên nghiệp của các cơ quan t• pháp 3.3.1. Đối với cơ quan Công an 88 3.3.2. Đối với Tòa án nhân dân 91 3.3.3. Đối với Viện kiểm sát nhân dân 92 kết luận 95 danh mục tài liệu tham khảo 97 6
- Danh mục các bảng Số hiệu Tên bảng Trang bảng 2.1 Báo cáo thống kê tổng kết 12 năm của Tòa án nhân dân 62 tối cao về tình hình xét xử sơ thẩm các vụ án buôn bán ng•ời có quy định phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt 2.2 Thống kê xét xử sơ thẩm các vụ án xâm phạm sở hữu 65 năm 2008 2.3 Thống kê xét xử sơ thẩm các vụ án xâm phạm sở hữu 66 năm 2009 2.4 Thống kê xét xử sơ thẩm các vụ án xâm phạm sở hữu 66 năm 2010 2.5 Số liệu xét xử sơ thẩm các vụ án kinh tế năm 2008 72 2.6 Số liệu xét xử sơ thẩm các vụ án kinh tế năm 2009 73 2.7 Số liệu xét xử sơ thẩm các vụ án kinh tế năm 2010 73 2.8 Số liệu thực tiễn xét xử sơ thẩm các vụ án sản xuất trái 78 phép chất ma túy trên cả n•ớc từ năm 2008 đến năm 2010 2.9 Số liệu xét xử sơ thẩm các vụ án đánh bạc từ năm 2008 80 đến năm 2010 7
- mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời là một b•ớc tiến lớn trong hoạt động lập pháp của Việt Nam nói chung và lập pháp hình sự nói riêng, nó là kết quả của quá trình kế thừa, phát triển pháp luật hình sự và tổng kết kinh nghiệm 40 năm đấu tranh phòng, chống tội phạm của Nhà n•ớc ta từ Cách mạng tháng Tám. Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời mang sứ mệnh là công cụ sắc bén của Nhà n•ớc chuyên chính vô sản để bảo vệ những thành quả của cách mạng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đấu tranh chống và phòng ngừa mọi hành vi phạm tội. Tuy nhiên, do Bộ luật hình sự năm 1985 đ•ợc xây dựng và ban hành trong điều kiện của nền kinh tế hiện vật, kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp, ch•a có nhiệm vụ và ch•a thể quy định những tội danh, những hành vi cần đ•ợc xử lý nghiêm khắc về mặt hình sự của nền kinh tế thị tr•ờng. Nhiều loại hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong nền kinh tế thị tr•ờng mà nếu không đ•ợc ngăn chặn kịp thời thì có thể gây ra nhiều hệ quả rất nguy hại. Bên cạnh đó, cũng cần phải xem xét, rà soát lại một cách toàn diện các tội phạm về kinh tế, về sở hữu để có những sửa đổi, bổ sung thích hợp cả về dấu hiệu pháp lý cũng nh• chính sách xử lý nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Tr•ớc tình hình đó, tại kỳ họp thứ 6 ngày 21-12-1999, Quốc hội n•ớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X đã thông qua Bộ luật hình sự (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 1999), nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp luật hình sự đã đ•ợc Bộ luật hình sự năm 1985 ban hành với những sửa đổi, bổ sung cần thiết và quan trọng. 8
- Trong điều kiện Đảng và Nhà n•ớc ta chủ tr•ơng phát triển nền kinh tế thị tr•ờng theo định h•ớng xã hội chủ nghĩa, đa dạng hóa các loại hình sở hữu, các thành phần kinh tế đều bình đẳng tr•ớc pháp luật và đều đ•ợc Nhà n•ớc bảo hộ nên Bộ luật hình sự năm 1999 cũng đã có những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới. Trong số các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đã đ•ợc quy định tại khoản 1 Điều 48 có ba tình tiết mới đ•ợc bổ sung là: tình tiết "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp", "phạm tội có tính chất côn đồ", và tình tiết "xâm phạm tài sản của Nhà n•ớc". Trong đó, tình tiết "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp" đ•ợc bổ sung nhằm mục đích đấu tranh một cách mạnh mẽ đối với những đối t•ợng coi việc phạm tội nh• một nghề kiếm sống- một loại hành vi phạm tội đang diễn ra một cách rất phổ biến do ảnh h•ởng tiêu cực từ sự phát triển của nền kinh tế thị tr•ờng. Hơn nữa, việc quy định này cũng nảy sinh từ đòi hỏi của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm trong thời gian qua là cần phải có chế tài xử lý nghiêm khắc để răn đe nhằm cải tạo, giáo dục đối với hình thức phạm tội nguy hiểm này. Tuy nhiên, do là một quy định mới trong Bộ luật hình sự năm 1999 nên trong khoa học luật hình sự Việt Nam, vấn đề phạm tội có tính chất chuyên nghiệp vẫn ch•a đ•ợc quan tâm, nghiên cứu một cách sâu sắc, đầy đủ, có hệ thống và toàn diện. Có rất nhiều vấn đề cần đ•ợc làm sáng tỏ để có quan điểm thống nhất và đầy đủ nh• về khái niệm, đặc điểm, điều kiện áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp theo quy định của Bộ luật hình sự. Mặt khác, thực tiễn áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp cũng đã đặt ra nhiều v•ớng mắc đòi hỏi khoa học luật hình sự phải nghiên cứu, giải quyết nh• căn cứ áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, tiêu chí xác định mức độ chuyên nghiệp của hành vi phạm tội, tiêu chí phân biệt tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp với các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự khác tại Điều 48 Bộ luật hình sự v.v Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa những vấn đề lý luận về phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong pháp luật hình sự để đ•a ra kiến 9
- nghị và các giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định này trong giai đoạn hiện nay không những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Đây cũng là lý do luận chứng cho việc chúng tôi quyết định chọn đề tài "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong luật hình sự Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Là một điểm mới của Bộ luật hình sự năm 1999 so với Bộ luật hình sự năm 1985, vấn đề phạm tội có tính chất chuyên nghiệp vẫn ch•a đ•ợc nghiên cứu một cách đồng bộ, có hệ thống và toàn diện. Tại Việt Nam, vấn đề phạm tội có tính chất chuyên nghiệp đã đ•ợc đề cập, phân tích trong một số giáo trình và sách tham khảo nh•: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2003; Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 1997; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), tập thể tác giả do TSKH. Lê Cảm chủ biên, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001 và 2003 (tái bản lần thứ nhất); Tội phạm học nhập môn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2009 của TS. D•ơng Tuyết Miên; Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2010, của GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999- Phần chung, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2000 của ThS. Đinh Văn Quế; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, do TS. Uông Chu L•u (chủ biên); Thực tiễn áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong công tác xét xử của Tòa án và một số kiến nghị, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Tòa án nhân dân tối cao, 2009, tập thể tác giả do ThS. Đinh Văn Quế làm chủ nhiệm; Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng Phần chung của Bộ luật hình sự năm 1999, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Tòa án nhân dân tối cao, 2001, tập thể tác giả do ThS. Đinh Văn Quế làm chủ nhiệm 10
- Ngoài ra, vấn đề phạm tội có tính chất chuyên nghiệp còn đ•ợc đề cập ở các mức độ khác nhau trong các công trình của một số tác giả khác nh•: Về việc áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, của tác giả Vũ Thành Long, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 20, 2006; Về các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm 1999 và một số kiến nghị, của tác giả Trịnh Tiến Việt, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 13, 2004; Những hạn chế trong các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và h•ớng khắc phục, của tác giả Hồ Sỹ Sơn, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 16, 2008; Một số vấn đề cần chú ý khi áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, của tác giả Đinh Văn Quế, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 04, 2010. Tuy nhiên, tất cả những nghiên cứu trên đây của các tác giả mới ở d•ới dạng là các bài viết đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành, là một phần, mục trong các giáo trình, sách tham khảo hay sách bình luận, hoặc mới chỉ xem xét vấn đề ở cấp độ trao đổi ý kiến. Có nghĩa là cho đến nay trong khoa học luật hình sự của Việt Nam ch•a có công trình nghiên cứu nào đề cập đến chế định này một cách t•ơng đối có hệ thống, t•ơng đối đồng bộ và ở cấp độ một luận văn thạc sĩ hay một luận án tiến sĩ luật học. Hơn nữa, nhiều vấn đề lý luận - thực tiễn xung quanh vấn đề phạm tội có tính chất chuyên nghiệp cũng đòi hỏi cần phải đ•ợc tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên khảo và sâu sắc hơn. 3. Phạm vi và mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong Bộ luật hình sự năm 1999, d•ới góc độ pháp luật hình sự, đồng thời luận văn cũng có đề cập đến một số các quy định của pháp luật chuyên khác nhằm hỗ trợ cho việc giải quyết nhiệm vụ và đối t•ợng nghiên cứu. Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là một vấn đề mới, có nhiều nội dung liên quan đến các chế định khác của Bộ luật hình sự. Bởi vậy, mục đích 11
- của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý luận những nội dung cơ bản của vấn đề phạm tội có tính chất chuyên nghiệp theo luật hình sự Việt Nam và việc áp dụng chế định này trong thực tiễn, xác định những bất cập và từ đó đ•a ra các giải pháp hoàn thiện các quy định này trong pháp luật hình sự Việt Nam. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả luận văn tập trung giải quyết các vấn đề sau: Về mặt lý luận, nghiên cứu khái niệm, các đặc điểm cơ bản của phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, sự khác nhau giữa tình tiết tăng nặng phạm tội có tình chất chuyên nghiệp với các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự khác, ý nghĩa của việc quy định phạm tội có tính chất chuyên nghiệp với tính chất là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; những quy định về phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự hiện hành để làm sáng tỏ bản chất và nội dung pháp lý của chế định phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong luật hình sự Việt Nam. Về mặt thực tiễn, nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong thực tiễn xét xử của Tòa án, đồng thời phân tích những tồn tại xung quanh việc áp dụng chế định này nhằm đề xuất và luận chứng sự cần thiết phải hoàn thiện và đ•a ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng tình tiết này trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ở n•ớc ta. 5. Cơ sở lý luận và ph•ơng pháp nghiên cứu Những cơ sở lý luận của luận văn là các thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý nh•: luật hình sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài đăng trên tạp chí của các nhà khoa học - luật gia Việt Nam và n•ớc ngoài, cũng nh• các văn 12
- bản pháp luật của Nhà n•ớc và những giải thích thống nhất có tính chất chỉ đạo của thực tiễn xét xử thuộc lĩnh vực pháp luật hình sự do Tòa án nhân dân tối cao hoặc (và) các cơ quan bảo vệ pháp luật ở Trung •ơng ban hành có liên quan đến chế định phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Ngoài ra, luận văn cũng đã sử dụng một số ph•ơng pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa học từng vấn đề t•ơng ứng, đó là các ph•ơng pháp nghiên cứu nh•: lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào số liệu thống kê trong các báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an và một số các vụ án hình sự trong thực tiễn xét xử, cũng nh• thông tin trên mạng Internet để phân tích, tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề nghiên cứu. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ý nghĩa lý luận - thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ tác giả đã làm rõ khái niệm, bản chất pháp lý và các đặc điểm cơ bản của phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, nội dung và điều kiện áp dụng của tình tiết này trên cơ sở xem xét các quy định của pháp luật hình sự hiện hành, đồng thời đ•a ra các kiến nghị hoàn thiện các quy định về phạm tội có tính chất chuyên nghiệp ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng chúng trong thực tiễn. Đặc biệt, để góp phần cụ thể hóa hơn nữa chính sách hình sự của Nhà n•ớc ta và để phù hợp với các yêu cầu của thực tiễn xét xử và pháp luật hình sự các n•ớc, tác giả luận văn kiến nghị bổ sung những tội danh có thể quy định tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là tình tiết định khung hình phạt, nh•ng lại ch•a đ•ợc nhà làm luật n•ớc ta quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành. Ngoài ra, ở một chừng mực nhất định có thể khẳng định rằng, đây là nghiên cứu chuyên khảo đồng bộ đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ đề cập đến vấn đề phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong khoa học luật hình 13
- sự Việt Nam; do đó nó còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cho các cán bộ làm công tác nghiên cứu khoa học, giảng dạy; nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành luật nói chung, luật hình sự nói riêng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 ch•ơng: Ch•ơng 1: Một số vấn đề lý luận chung về phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Ch•ơng 2: Các quy định về phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong Bộ luật hình sự và thực tiễn áp dụng. Ch•ơng 3: Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. 14
- Ch•ơng 1 Một số vấn đề lý luận chung về phạm tội có tính chất chuyên nghiệp 1.1. Khái niệm, đặc điểm của phạm tội có tính chất chuyên nghiệp và phân biệt nó với các hình thức đa (nhiều) tội phạm Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là một dạng phạm tội khá phổ biến và nguy hiểm hiện nay. Vì vậy khi sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự năm 2003, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp đ•ợc quy định là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Đối với những tội phạm co tính chất chuyên nghiệp, tính nguy hiểm cao cho xã hội của tội phạm này thể hiện ở các khía cạnh: + Thể hiện ở hành vi khách quan: Ng•ời phạm tội lấy việc phạm tội làm nguồn sống, triền miên, lặp đi lặp lại. + Thể hiện ở các tình tiết về nhân thân ng•ời phạm tội: Phạm tội từ 5 lần trở lên, do đó nguy hiểm hơn so với phạm tội nhiều lần từ 2 lần trở lên. 1.1.1. Khái niệm phạm tội có tính chất chuyên nghiệp Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là một thuật ngữ pháp lý và đ•ợc sử dụng đối với ng•ời có hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Bộ luật hình sự năm 1999 đã quy định "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp" là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại Điều 48, và là tình tiết định khung trong nhiều điều luật quy định trong Phần các tội phạm. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự năm 1999 ch•a quy định khái niệm pháp lý về phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, nên về vấn đề này trong khoa học pháp lý hiện nay tồn tại nhiều quan điểm khác nhau, cụ thể là: - Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là "tr•ờng hợp liên tiếp phạm tội và việc phạm tội trở thành nguồn thu nhập chính" [47, tr. 274]. 15
- - "Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là ng•ời phạm tội lấy việc phạm tội là nguồn sống chính cho mình" [44, tr. 28]. - "Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là việc ng•ời phạm tội lấy việc phạm tội là ph•ơng tiện kiếm sống, nguồn thu nhập, nguồn sống chính" [14, tr. 30]. - Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là tr•ờng hợp ng•ời phạm tội chuyên lấy việc phạm tội là nghề sống chính hoặc tạo nguồn thu nhập chính mức độ tăng nặng trách nhiệm hình sự của tình tiết phụ thuộc vào mức độ chuyên nghiệp, thời gian hoạt động phạm tội, mức độ thu nhập bằng con đ•ờng phạm tội [15, tr. 147]. Tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Tòa án năm 1991 diễn ra từ ngày 07 đến ngày 10-01-1992, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã h•ớng dẫn xác định phạm tội có tính chất chuyên nghiệp nh• sau: Coi là l•u manh chuyên nghiệp những tên chuyên lấy việc trộm cắp, lừa đảo, chứa chấp, tiêu thụ của gian, hoặc lấy các hành động phi pháp khác làm nguồn sống chính, hoặc tuy có nghề nghiệp nh•ng đó không phải là nguồn sống chính, có khi chỉ là để ngụy trang [37, tr. 247]. Tuy không đ•a ra khái niệm thế nào là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 48 và một số điều luật trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự năm 1999, nh•ng tại Mục 5 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12-5-2006, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã h•ớng dẫn: Chỉ áp dụng tình tiết "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp" khi có đầy đủ các điều kiện sau đây: a) Cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay ch•a bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu ch•a hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc ch•a đ•ợc xóa án tích; 16
- b) Ng•ời phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính [43, tr. 16]. Theo các nghị quyết của Quốc hội về thi hành Bộ luật hình sự năm 1999 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự đã giao cho Tòa án nhân dân tối cao, trong phạm vi chức năng nhiệm vụ của mình có trách nhiệm h•ớng dẫn thi hành Luật này và các quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, thì h•ớng dẫn tại Nghị quyết này của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cũng là văn bản quy phạm pháp luật và có tính bắt buộc thi hành đối với các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung, Tòa án nói riêng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Và vì thế, có thể coi nội dung h•ớng dẫn trên là quan điểm của Đảng và Nhà n•ớc ta về phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Theo Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản từ điển Bách Khoa năm 2007, "chuyên nghiệp" có nghĩa là "chuyên một nghề làm ăn nhất định và có học hành về nghề đó hẳn hoi" [53, tr. 259]. Nh• chúng ta đã biết, "tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt" [47, tr. 42]. Là một hiện t•ợng tiêu cực nhất trong xã hội, xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà n•ớc và pháp luật, cũng nh• khi xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng nên tội phạm luôn chứa đựng trong nó đặc tính chống đối lại xã hội, đi lại lợi ích chung của cộng đồng, trật tự xã hội, xâm phạm đến quyền, tự do và các lợi ích hợp pháp của công dân. Để bảo vệ các quyền lợi của giai cấp cầm quyền, các lợi ích của các giai tầng khác trong xã hội, Nhà n•ớc đã quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là tội phạm và áp dụng trách nhiệm hình sự (hình phạt) đối với ng•ời nào thực hiện các hành vi đó [55]. Vì thế, tr•ớc hết, ta cần phải hiểu khái niệm chuyên nghiệp trong tội phạm hình sự không đồng nghĩa với khái niệm nghề nghiệp của một con ng•ời ngoài xã hội; do đó, không thể coi phạm tội là một nghề kiếm sống. Tính chất 17
- chuyên nghiệp của hành vi phạm tội thể hiện ở chỗ ng•ời đó th•ờng xuyên thực hiện tội phạm, hành vi phạm tội của họ đ•ợc lặp đi lặp lại nhiều lần, và điều quan trọng hơn đó là, do tính chuyên nghiệp trong tội phạm hình sự không đ•ợc coi là nghề nghiệp của một con ng•ời cho nên yếu tố quan trọng để xác định tính chuyên nghiệp trong tội phạm là ng•ời phạm tội đó phải coi việc phạm tội của mình là ph•ơng tiện để kiếm sống, là nguồn thu nhập, nguồn sống chính. Theo Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP, thì điều kiện cần và đủ để áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp đối với ng•ời phạm tội là ng•ời đó phải phạm tội từ 05 lần trở lên về cùng một tội phạm và đều phải lấy các lần phạm tội là ph•ơng tiện kiếm sống, là nguồn thu nhập chính. Tuy nhiên, còn một vấn đề mà Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP không đề cập đến, đó là một ng•ời thực hiện nhiều hành vi phạm tội khác nhau, nh•ng không xâm phạm đến cùng một khách thể hoặc một nhóm khách thể cùng loại mà xâm phạm đến nhiều khách thể khác nhau, nghĩa là ng•ời đó phạm nhiều lần vào nhiều tội khác nhau, nh•ng với mỗi tội thì ch•a đủ 05 lần (theo nh• Nghị quyết) và ng•ời đó đều lấy các lần phạm tội là ph•ơng tiện kiếm sống, lấy kết quả phạm tội là nguồn thu nhập chính, thì có đ•ợc hay không đ•ợc coi là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Chúng tôi nhận thấy rằng, nếu chỉ coi những tr•ờng hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp nh• trong Nghị quyết h•ớng dẫn thì ch•a đầy đủ và ch•a phản ánh hết tính chất nguy hiểm cũng nh• bản chất của mỗi ng•ời phạm tội. Bởi lẽ, điểm quan trọng nhất, mấu chốt nhất để phân biệt những tr•ờng hợp nào, con ng•ời phạm tội nào đ•ợc coi là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, thì phải căn cứ vào ý thứ hai trong Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP, đó là "ng•ời phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính". Cho nên, ngoài những tr•ờng hợp ng•ời nào năm lần thực hiện tội phạm xâm phạm đến cùng một khách thể hoặc một nhóm khách thể thì tr•ờng hợp ng•ời nào phạm nhiều tội và có từ 18
- năm lần phạm tội trở lên và đều lấy việc phạm tội của mình làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính, thì những tr•ờng hợp này, theo chúng tôi, cũng phải coi là tr•ờng hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Có nh• vậy, mới đánh giá đúng tính chất nguy hiểm và phản ánh đúng bản chất của con ng•ời phạm tội. Nh• vậy, về cơ bản tất cả các quan điểm trên đây về khái niệm phạm tội có tính chất chuyên nghiệp đều đầy đủ về nội dung, ngắn gọn và điều quan trọng là thống nhất trong việc khẳng định rõ đ•ợc nội dung và bản chất pháp lý của nó. Đó là việc một ng•ời phạm tội (không phân biệt là một tội hay các tội khác nhau) nhiều lần và đều lấy việc phạm tội là ph•ơng tiện kiêm sống, làm nguồn thu nhập chính của mình. Tóm lại, trên cơ sở tổng kết các quan điểm khoa học đã nêu, kết hợp với việc phân tích các quy định của pháp luật hình sự có liên quan, d•ới góc độ khoa học luật hình sự, khái niệm phạm tội có tính chất chuyên nghiệp có thể đ•ợc định nghĩa nh• sau: Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là hành vi của một ng•ời lấy việc phạm tội làm nghề sống, lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn thu nhập chính và đã cố ý phạm tội nhiều lần về một hoặc các tội phạm, không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay ch•a bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu ch•a hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc ch•a đ•ợc xóa án tích. 1.1.2. Các đặc điểm của phạm tội có tính chất chuyên nghiệp Xuất phát từ khái niệm nêu trên và trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự hiện hành có liên quan đến phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, chúng tôi có thể chỉ ra một số đặc điểm cơ bản của nó nh• sau: Thứ nhất, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là một trong những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và tình tiết định khung hình phạt đ•ợc quy định trong Bộ luật hình sự, phản ánh rõ nét nhất nguyên tắc, chính sách hình sự của Đảng và Nhà n•ớc ta tại Điều 3 Bộ luật hình sự năm 1999 là "nghiêm trị" đối với những ng•ời phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Nh•ng nói nh• 19
- vậy, không có nghĩa "nghiêm trị" nhất thiết phải xử phạt nặng ng•ời phạm tội, mà phải cân nhắc, đánh giá đúng đắn tính chất nghiêm trọng của tội phạm, tính chất nguy hiểm cho xã hội của nhân thân ng•ời phạm tội và trong phạm vi đ•ờng lối, pháp luật đối với từng tội phạm cụ thể, có quyết định trừng trị nghiêm khắc, không do dự, không rụt rè. Có kiên quyết nghiêm trị ng•ời phạm tội nguy hiểm thì mới có điều kiện xử lý khoan hồng rộng rãi ng•ời phạm tội ít nguy hiểm. Mặt khác, dù là tính nghiêm trị hay khoan hồng đều phải thể hiện đ•ợc tính giáo dục, cải tạo. Điều đó có ý nghĩa không vùi dập ng•ời phạm tội; không dồn họ vào con đ•ờng cùng, mà là nâng đỡ, mở đ•ờng cho họ trở lại thành ng•ời công dân l•ơng thiện; nó có tác dụng phòng ngừa riêng đối với ng•ời phạm tội và cũng có tác dụng phòng ngừa chung đối với những ng•ời có ý định phạm tội. Thứ hai, ng•ời phạm tội có tính chất chuyên nghiệp theo thực tiễn xét xử là ng•ời phải phạm tội từ 05 lần trở lên về cùng một tội phạm; đây là điều kiện cần, có tính tiên quyết. Mặc dù, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ch•a lý giải lý do lấy mức định l•ợng phạm tội từ 05 lần trở lên mà không phải là một mức khác, nh•ng theo chúng tôi, việc xác định này xuất phát từ thực tiễn xét xử và tổng kết công tác xét xử của ngành Tòa án, do bản chất của các đối t•ợng này là chuyên lấy việc phạm tội làm nghề kiếm sống nên đã phạm tội một cách th•ờng xuyên. Về vấn đề phạm tội nhiều lần đối với một tội hay nhiều tội, hiện nay cũng còn nhiều quan điểm khác nhau. Có ý kiến cho rằng, tính chất chuyên nghiệp là chỉ tính chất của mỗi tội phạm riêng biệt cụ thể, chứ không phải là chỉ tính chất của tội phạm nói chung nên xác định "phạm tội từ 05 lần trở lên về cùng một tội phạm" nh• Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP là đầy đủ. Loại ý kiến khác thì lại cho rằng, trong tr•ờng hợp này cần phân biệt, nếu tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp đ•ợc áp dụng là tình tiết định khung hình phạt của một tội phạm cụ thể thì phải xác định phạm tội từ 05 lần trở lên về cùng một tội phạm đó; nếu áp dụng là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, thì chỉ cần xác định phạm tội từ 05 lần trở 20
- lên về một hoặc các tội mà thôi, vì tính nguy hiểm của hành vi này là ng•ời phạm tội đã coi việc phạm tội là lẽ sống của mình. Thứ ba, đặc điểm có tính đặc tr•ng nhất của phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, là ng•ời phạm tội phải lấy việc phạm tội là ph•ơng tiện kiếm sống, lấy kết quả của các lần phạm tội là nguồn thu nhập chính, là nguồn sống chính. Đây chính là đặc điểm quan trọng, phân biệt phạm tội có tính chất chuyên nghiệp với các tr•ờng hợp phạm tội khác. Hiện nay cũng có quan điểm cho rằng, đối với tr•ờng hợp một ng•ời chỉ phạm một tội, nh•ng đ•ợc thực hiện nhiều lần trong một thời gian nhất định mà hành vi phạm tội đó đ•ợc lặp đi, lặp lại thì cũng phải coi là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, chứ không nhất thiết phải xác định ng•ời phạm tội phải lấy việc phạm tội làm ph•ơng tiện kiếm sống. Quan điểm này, theo chúng tôi là không có cơ sở khoa học, và nếu cứ coi tr•ờng hợp phạm tội nhiều lần nào cũng là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp thì không thể lý giải đ•ợc sự khác nhau giữa phạm tội có tính chất chuyên nghiệp với phạm tội nhiều lần. 1.1.3. Phân biệt phạm tội có tính chất chuyên nghiệp với phạm tội nhiều lần Trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành bên cạnh thuật ngữ "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp", còn tồn tại thuật ngữ "phạm tội nhiều lần", đồng thời giữa hai khái niệm này cũng có liên quan chặt chẽ mật thiết với nhau. Do đó, việc phân biệt sự giống và khác nhau giữa chúng là việc làm cần thiết và có ý nghĩa rất quan trọng về mặt lý luận - thực tiễn. Cũng giống nh• quy định phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, hiện nay trong Bộ luật hình sự năm 1999, nhà làm luật không ghi nhận định nghĩa pháp lý của khái niệm phạm tội nhiều lần và trong khoa học luật hình sự cũng còn nhiều quan điểm khác nhau nh•: "phạm tội nhiều lần là phạm tội từ hai lần trở lên và mỗi lần thực hiện hành vi đã cấu thành một tội phạm độc lập, nh•ng tất cả các tội phạm đó đều bị xét xử trong cùng một bản án" [44, tr. 32] hoặc: 21