Luận văn Những khía cạnh pháp lý của thực tế chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn ở Việt Nam

pdf 104 trang vuhoa 25/08/2022 5200
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Những khía cạnh pháp lý của thực tế chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_nhung_khia_canh_phap_ly_cua_thuc_te_chung_song_nhu.pdf

Nội dung text: Luận văn Những khía cạnh pháp lý của thực tế chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG HẠNH NGUYÊN NHỮNG KHÍA CẠNH PHÁP LÝ CỦA THỰC TẾ CHUNG SỐNG NHƯ VỢ CHỒNG KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2010 1 2
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG HẠNH NGUYÊN NHỮNG KHÍA CẠNH PHÁP LÝ CỦA THỰC TẾ CHUNG SỐNG NHƯ VỢ CHỒNG KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Cừ HÀ NỘI - 2011 3 4
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾT HÔN, ĐĂNG KÝ KẾT HÔN 6 1.1. Khái niệm kết hôn và vai trò, ý nghĩa của kết hôn, đăng ký 6 kết hôn 1.1.1. Khái niệm kết hôn 6 1.1.2. Vai trò, ý nghĩa của kết hôn, đăng ký kết hôn 10 1.2. Giá trị pháp lý của giấy chứng nhận kết hôn 11 1.2.1. Giấy chứng nhận kết hôn làm phát sinh quan hệ vợ chồng 12 giữa người nam và người nữ 1.2.2. Giấy chứng nhận kết hôn làm phát sinh quyền sở hữu của 13 vợ chồng đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất 1.2.3. Giấy chứng nhận kết hôn làm phát sinh quyền thừa kế tài 14 sản của nhau giữa vợ và chồng 1.2.4. Giấy chứng nhận kết hôn làm phát sinh quyền và nghĩa vụ 16 cấp dưỡng giữa vợ và chồng 1.2.5. Giấy chứng nhận kết hôn nhằm xác định quan hệ cha mẹ và 18 con, bảo vệ quyền lợi chính đáng của cha mẹ và con 1.3. Điều kiện để việc kết hôn hợp pháp 19 1.3.1. Điều kiện về nội dung 20 1
  4. 1.3.1.1. Phải đủ tuổi kết hôn 20 1.3.1.2. Phải có sự tự nguyện của hai bên nam nữ khi kết hôn 21 1.3.1.3. Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm 25 kết hôn 1.3.2. Điều kiện về hình thức 29 Chương 2: ĐIỀU CHỈNH BẰNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI VIỆC 33 NAM NỮ CHUNG SỐNG NHƯ VỢ CHỒNG KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN 2.1. Khái quát chung về nam nữ chung sống với nhau như vợ 33 chồng không đăng ký kết hôn ở Việt Nam 2.1.1. Khái niệm về nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng 33 không đăng ký kết hôn ở Việt Nam 2.1.2. Đặc điểm của trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng 34 không đăng ký kết hôn ở Việt Nam 2.2. Một số quan điểm về vấn đề nam nữ chung sống với nhau 37 như vợ chồng không đăng ký kết hôn hiện nay 2.2.1. Nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng không bị coi là 38 trái pháp luật 2.2.2. Nam nữ chung sống như vợ chồng bị coi là trái pháp luật 45 2.2.2.1. Trường hợp một bên hoặc cả hai bên nam nữ chưa đến tuổi 45 kết hôn 2.2.2.2. Trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng mà một bên 47 hoặc cả hai bên đang có vợ hoặc có chồng 2.3. Điều chỉnh bằng pháp luật đối với trường hợp nam nữ 50 chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn 2.3.1. Điều chỉnh bằng pháp luật đối với trường hợp nam nữ 50 chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn trước khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực 2.3.2. Điều chỉnh bằng pháp luật đối với việc nam nữ chung sống 56 2
  5. như vợ chồng không đăng ký kết hôn từ khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ 65 KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI TRƯỜNG HỢP NAM NỮ CHUNG SỐNG NHƯ VỢ CHỒNG KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp liên 65 quan đến các trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn 3.1.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc xác định thời điểm 65 xác lập quan hệ vợ chồng 3.1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh 72 chấp về tài sản 3.2. Một số kiến nghị nhằm hạn chế trường hợp nam nữ chung 80 sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn 3.2.1. Xu hướng của việc nam nữ chung sống như vợ chồng 80 không đăng ký kết hôn 3.2.1.1. Yếu tố kinh tế- xã hội 81 3.2.1.2. Yếu tố văn hóa, phong tục tập quán 83 3.2.2. Một số kiến nghị nhằm hạn chế việc nam nữ chung sống 84 như vợ chồng không đăng ký kết hôn 3.2.2.1. Về mặt pháp luật 84 3.2.2.2. Một số kiến nghị khác 90 KẾT LUẬN 92 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 94 3
  6. Danh môc c¸c b¶ng Sè hiÖu Tªn b¶ng Trang b¶ng 3.1 Số liệu các vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình, 79 chia tài sản chung 3.2 Số liệu các vụ án hôn nhân và gia đình về tranh chấp 80 chia tài sản chung giải quyết tại cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm 4
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Tình trạng nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn là một hiện tượng xã hội đã và đang tồn tại trong xã hội Việt Nam. Nguyên nhân của tình trạng này có thể là do hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, do ý thức pháp luật của người dân còn thấp, hay vì điều kiện địa lý ở các vùng núi hải đảo đường sá xa xôi Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 ra đời đã không thừa nhận việc nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn kể từ ngày 01/01/2001. Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: "Nam nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng" [21]. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn rất nhiều trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn từ trước ngày 01/01/2001. Giải quyết những vấn đề liên quan đến việc nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn tồn tại trước thời điểm này là hết sức cần thiết. Với tinh thần đó, Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội và thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 đã có những hướng dẫn cụ thể việc giải quyết về mặt pháp luật đối với những trường hợp vi phạm việc đăng ký kết hôn từ trước ngày 01/01/2001 Mặc dù đã có nhiều văn bản hướng dẫn như đã nói ở trên nhưng việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn vẫn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Việc xác định thời điểm xác lập quan hệ vợ chồng và cách xác định tài sản chung trong trường hợp chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn còn có nhiều 5
  8. quan điểm và cách nhìn nhận, đánh giá khác nhau, không chỉ đối với những người công tác trong các cơ quan thi hành pháp luật mà còn cả ở đội ngũ Thẩm phán trực tiếp tham gia giải quyết án hôn nhân và gia đình. Vì vậy, nghiên cứu các trường hợp chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn và hậu quả pháp lý của tình trạng này nhằm nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân trong việc xác lập quan hệ hôn nhân. Đặc biệt, nghiên cứu các quy định của pháp luật đối với các trường hợp chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn còn nhằm nâng cao hiệu quả công tác xét xử của Tòa án nhân dân đối với các tranh chấp hôn nhân và gia đình nói chung và tranh chấp liên quan đến việc chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn nói riêng là vô cùng cần thiết. Từ những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài "Những khía cạnh pháp lý của thực tế chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn ở Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn đã, đang và sẽ luôn luôn tồn tại trong xã hội của chúng ta. Nhằm hạn chế và giải quyết hậu quả của thực trạng này, pháp luật đã có nhiều quy định liên quan đến việc chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn để cho người dân có sự lựa chọn đúng đắn trong suy nghĩ và hành vi của mình, đồng thời giúp cho các cơ quan thi hành pháp luật áp dụng đúng và thống nhất pháp luật. Thời gian qua, đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề nam nữ chung sống như chồng không đăng ký kết hôn như đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường về "Giải quyết vấn đề hôn nhân thực tế theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000" do TS. Nguyễn Văn Cừ - Trưởng bộ môn Luật Hôn nhân và gia đình Trường Đại học Luật Hà Nội làm chủ biên; một số khóa luận tốt nghiệp đại học của sinh viên Ngoài ra còn có một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành với nội dung liên quan đến vấn đề chung sống như vợ 6
  9. chồng không đăng ký kết hôn, đó là: bài viết "Vấn đề hôn nhân thực tế theo Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam", của tác giả TS. Nguyễn Văn Cừ, Tạp chí Luật học, số 5/2000; "Về sự điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ chung sống như vợ chồng", của tác giả Thái Trung Kiên, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1/2005; "Những ý kiến khác nhau trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến quan hệ hôn nhân không đăng ký kết hôn", của tác giả Nguyễn Huy Du, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 19/2009; "Tình trạng hôn nhân thực tế ở khu vực biên giới Việt Lào và một số giải pháp giải quyết", của tác giả Nguyễn Văn Thắng, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 2/2010; Tuy nhiên, mỗi công trình nghiên cứu đã nhìn nhận, giải quyết vấn đề này ở một góc độ khác nhau và cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu và riêng biệt về vấn đề chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn dưới góc độ thực tiễn áp dụng pháp luật. Nhận diện được vấn đề này, luận văn đề cập đến việc nghiên cứu chủ yếu về những khó khăn vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn, đồng thời đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như hạn chế thực trạng này. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài Dựa trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố, luận văn xác định đối tượng và phạm vi nghiên cứu cụ thể như sau: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: - Nghiên cứu hệ thống các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề kết hôn, đăng ký kết hôn và vấn đề chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn - Nghiên cứ hệ thống các quy định của pháp luật thực định về kết hôn, đăng ký kết hôn và vấn đề chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn. 7
  10. - Nghiên cứu thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật trong việc giải quyết vấn đề nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là: Trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ luật học, tác giả tập trung vào việc giải quyết nhiều vấn đề khác nhau liên quan đến việc nam nữ chung sống với nhau đó là việc kết hôn và đăng ký kết hôn hay là việc chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn, trong đó tập trung nghiên cứu một số vấn đề cơ bản nhất về sự điều chỉnh của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật đối với các trường hợp chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn ở Việt Nam, đồng thời đưa ra một số kiến nghị nhằm hạn chế thực trạng chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn ở Việt Nam. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài - Nhận diện và hệ thống hóa những vấn đề lý luận về kết hôn, thông qua đó thấy được vai trò quan trọng của việc đăng ký kết hôn. - Phân tích những quy định của pháp luật điều chỉnh việc nam nữ chung chống như vợ chồng không đăng ký kết hôn ở Việt Nam cùng với việc nêu lên thực trạng giải quyết tranh chấp liên quan đến việc nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn ở Việt Nam. - Kiến nghị một số giải pháp nhằm hạn chế việc nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn. 5. Phương pháp nghiên cứu Khi tiếp cận vấn đề nghiên cứu, luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong qua trình đổi mới, xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa và vấn đề cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền. 8
  11. Phương pháp nghiên cứu của luận văn là đi từ lý luận đến thực tiễn, dùng thực tiễn kiểm chứng lý luận. Các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như phương pháp lịch sử, phân tích, so sánh, chứng minh, tổng hợp và phương pháp thống kê cũng được sử dụng để hoàn thành luận văn. 6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài Ngoài ý nghĩa là một công trình nghiên cứu riêng của bản thân về thực trạng nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn để hoàn thành chương trình học tập và báo cáo tốt nghiệp lớp Cao học Luật dân sự khóa XIV của Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội, việc nghiên cứu đề tài còn có ý nghĩa đi sâu phân tích các quan điểm về chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn ở Việt Nam và một số nước trên thế giới, tiếp theo đó là phân tích các quy định của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật đối với những trường hợp chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn ở Việt Nam, để từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm mục đích xây dựng và hoàn thiện pháp luật điều chỉnh về vấn đề này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài Lời mở đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, kết luận; Luận văn được bố cục làm ba chương: Chương 1: Lý luận chung về kết hôn, đăng ký kết hôn. Chương 2: Điều chỉnh bằng pháp luật đối với việc nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn. Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật và một số kiến nghị đối với trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn ở Việt Nam hiện nay. 9
  12. Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾT HÔN, ĐĂNG KÝ KẾT HÔN 1.1. Khái niệm kết hôn và vai trò, ý nghĩa của kết hôn, đăng ký kết hôn 1.1.1. Khái niệm kết hôn Trong xã hội có giai cấp, quan hệ hôn nhân được biểu hiện là một quan hệ xã hội, thực chất của nó là việc xác lập quan hệ vợ chồng, hôn nhân là sự liên kết đặc biệt giữa một người đàn ông và một người đàn bà, sự liên kết đó phải được Nhà nước thừa nhận bằng một sự phê chuẩn dưới hình thức pháp lý đó là đăng ký kết hôn. Như vậy, đăng ký kết hôn đã làm xác lập quan hệ hôn nhân và là cơ sở để xây dựng gia đình. Trong xã hội có giai cấp, quan hệ hôn nhân bị chi phối bởi ý chí của giai cấp thống trị, trong mỗi chế độ xã hội khác nhau giai cấp thống trị đều thông qua Nhà nước bằng pháp luật tác động vào các quan hệ hôn nhân và gia đình, nhằm làm cho những quan hệ đó tồn tại phù hợp với lợi ích của Nhà nước. Chế độ hôn nhân và gia đình trong xã hội tư sản đó là thứ hôn nhân có tính toán, trong đó không chỉ người đàn bà mà cả người đàn ông cũng bị đem ra đánh giá, không phải theo phẩm cách cá nhân mà qua tài sản của người ấy. Giai cấp tư sản đã xé toang bức màn tình cảm phủ lên những quan hệ gia đình và biến những quan hệ ấy thành chỉ là những quan hệ tiền nong đơn thuần thôi, nó không để lại giữa người và người mối quan hệ nào khác ngoài món nợ lạnh lùng và lợi, trả tiền ngay không tình nghĩa Điều đó đã lý giải vì sao lý luận tư sản, pháp luật tư sản xem hôn nhân chỉ là một hợp đồng dân sự với những hậu quả tài sản của nó. Trong xã hội tư sản, những quan hệ tài sản trong gia đình một bộ phận hợp thành những quan hệ hôn nhân và gia đình tư sản chỉ là một dạng của 10
  13. những quan hệ tài sản, phát sinh trên cơ sở của nền sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa. Nó hình thành, phát triển dưới ảnh hưởng trực tiếp của những quan hệ ấy. Một số Nhà nước tư sản còn quy định nguồn gốc giai cấp, dân tộc, chủng tộc là một trong những điều kiện kết hôn quan trọng. Khác với pháp luật tư sản, pháp luật Nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung và pháp luật Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng quy định việc kết hôn có lý có tình, phù hợp với đạo đức xã hội chủ nghĩa và phù hợp với nguyện vọng của quần chúng nhân dân lao động. Trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, do việc xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, những quan hệ hôn nhân và gia đình không còn giống một chút nào với những quan hệ gia đình tư sản. Điều đó thể hiện trước hết ở ý nghĩa và vai trò của tài sản trong quan hệ hôn nhân và gia đình. Trong quan hệ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa vấn đề tài sản không có ý nghĩa quyết định, nó không phải là bản chất của những quan hệ ấy mà dưới chủ nghĩa xã hội trong quan hệ hôn nhân và gia đình thì những quan hệ nhân thân có ý nghĩa quyết định. Mặt khác, dưới chủ nghĩa xã hội quan hệ gia đình bắt nguồn từ những tình cảm riêng tư gắn bó giữa những người trong gia đình với nhau trên cơ sở huyết thống hay tình yêu giữa nam và nữ cho nên nghĩa vụ tài sản không có dạng sòng phẳng, không mang tính chất đền bù ngang giá, chẳng hạn như: Trong việc cha mẹ nuôi dưỡng giáo dục các con, hay các con nuôi dưỡng cha mẹ về số lượng, về giá trị, về thời gian, số lần không thể tính được là bao nhiêu. Sở dĩ như vậy nên Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: "Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt" [21]. 11
  14. Tại phần giải nghĩa một số danh từ trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có ghi "Kết hôn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn" [21, Điều 8]. Đồng thời, Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng đã quy định: Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (sau đây gọi là cơ quan đăng ký kết hôn) thực hiện theo nghi thức quy định tại Điều 14 của Luật này. Mọi nghi thức kết hôn không theo quy định tại Điều 14 của Luật này đều không có giá trị pháp lý. Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng. Vợ chồng đã ly hôn muốn kết hôn lại với nhau cũng phải đăng ký kết hôn [21]. Hệ thống pháp luật của Nhà nước ta quy định việc kết hôn phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong trường hợp hai người kết hôn cùng là công dân Việt Nam kết hôn tại Việt Nam thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký việc kết hôn là ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của bên nam hoặc bên nữ. Trong trường hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài mà việc kết hôn tiến hành ở Việt Nam thì ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi thường trú của công dân Việt Nam đăng ký việc kết hôn. Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài thực hiện việc đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau ở nước ngoài. Khi yêu cầu đăng ký kết hôn, hai bên nam nữ phải cùng có mặt tại cơ quan đăng ký kết hôn, nộp tờ khai đăng ký kết hôn và những giấy tờ cần thiết khác. Trong trường hợp có lý do chính đáng, một trong hai bên không thể đến nộp hồ sơ đăng ký kết hôn thì có thể gửi cho cơ quan đăng ký kết hôn đơn xin nộp hồ sơ vắng mặt, trong đơn phải 12
  15. nêu rõ lý do vắng mặt và phải có xác nhận của ủy ban nhân dân cấp xã nơi người vắng mặt cư trú. Kết hôn làm phát sinh quan hệ pháp Luật Hôn nhân và gia đình, hai bên nam nữ khi xác lập quan hệ vợ chồng thông qua việc kết hôn phải thể hiện được các yếu tố sau: 1- Phải thể hiện ý chí hai bên nam nữ mong muốn kết hôn với nhau khi đảm bảo đầy đủ các điều kiện kết hôn theo Luật định. Hai bên nam nữ khi kết hôn đều phải tỏ rõ ý chí của mình là mong muốn được xác lập quan hệ vợ chồng. Sự ưng thuận này của hai bên phải phù hợp với nội dung, mục đích của mối quan hệ và mong muốn gắn bó với nhau trong quan hệ vợ chồng suốt đời, đảm bảo xây dựng gia đình thực sự dân chủ, hòa thuận, hạnh phúc và bền vững. Hai bên nam nữ thể hiện rằng họ hoàn toàn đồng ý và mong muốn được kết hôn, sự thể hiện đó phải hoàn toàn phù hợp với tâm tư nguyện vọng của hai người. 2- Phải được Nhà nước thừa nhận. Nhà nước công nhận hôn nhân khi việc kết hôn tuân thủ các điều kiện kết hôn do Luật Hôn nhân và gia đình quy định. Điều 64 Hiến pháp năm 1992 quy định "Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình" nhưng hôn nhân đó phải là hợp pháp và được Nhà nước thừa nhận. Để việc kết hôn phù hợp với các quy định của pháp luật, cơ quan đăng ký kết hôn sau khi nhận hồ sơ đăng ký kết hôn của hai bên kết hôn phải tiến hành điều tra, xác minh về những vấn đề mà các bên nam nữ đã khai. Nếu những điều mà các bên nam nữ khai là đúng sự thực và phù hợp với các điều kiện kết hôn thì cơ quan đăng ký kết hôn tiến hành đăng ký việc kết hôn cho họ theo đúng nghi thức do pháp luật quy định. Khi việc kết hôn đã được đăng ký tại cơ quan đăng ký kết hôn và ghi vào sổ kết hôn thì giữa các bên nam nữ phát sinh quan hệ hôn nhân. Như vậy, đăng ký kết hôn là sự kiện pháp lý làm 13
  16. phát sinh quan hệ hôn nhân. Điều đó có nghĩa là giữa các bên nam nữ phát sinh các quyền và nghĩa vụ vợ chồng theo Luật định. Việc Nhà nước công nhận hôn nhân của đôi nam nữ thông qua việc đăng ký kết hôn, kết hôn là cơ sở pháp lý ghi nhận rằng đôi bên nam nữ đã phát sinh các quyền và nghĩa vụ vợ chồng. Sự kiện này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định chủ thể của quan hệ giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con và xác định rõ thời điểm làm phát sinh các quan hệ đó. 1.1.2. Vai trò, ý nghĩa của kết hôn, đăng ký kết hôn Hôn nhân và gia đình là những hiện tượng xã hội phát sinh trong đời sống của con người, phản ánh những nhu cầu mang tính tự nhiên của con người. Do gia đình là một thiết chế của xã hội nên việc thực hiện các quan hệ hôn nhân và gia đình như thế nào không chỉ liên quan đến quyền lợi của các cá nhân, mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của xã hội. Xuất phát từ yêu cầu quản lý xã hội trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, để bảo vệ quyền lợi của các cá nhân, lợi ích của gia đình và xã hội, Nhà nước cần tạo ra cơ chế kiểm soát quá trình xác lập, thực hiện các quan hệ hôn nhân và gia đình. Một trong những nội dung của sự kiểm soát đó là thực hiện việc đăng ký kết hôn. Nghĩa là, nam và nữ "lấy nhau" thành vợ, thành chồng phải tuân theo những nghi thức, thủ tục mà Nhà nước đã quy định. Thông qua đó, Nhà nước kiểm soát được việc kết hôn, đảm bảo cho quyền tự do kết hôn diễn ra phù hợp với trật tự chung. Chỉ khi nào nam nữ đăng ký kết hôn và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký kết hôn công nhận theo quy định của pháp luật thì họ mới được coi là vợ chồng của nhau, khi đó quan hệ của họ được Nhà nước thừa nhận và bảo vệ. Đăng ký kết hôn là một trong những nội dung chủ yếu của công tác đăng ký hộ tịch. Thông qua việc tiến hành đăng ký kết hôn, Nhà nước có thể kiểm soát việc tuân theo pháp luật của nam nữ trong việc kết hôn, đồng thời ngăn chặn những hiện tượng kết hôn vi phạm các điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật như tảo hôn, vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một 14
  17. chồng Đăng ký kết hôn còn là biện pháp bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho đôi bên nam nữ. Giấy chứng nhận kết hôn là chứng cứ pháp lý thể hiện sự thừa nhận của Nhà nước về việc tồn tại quan hệ vợ chồng. Đây cũng là cơ sở để Nhà nước giải quyết tranh chấp, bảo vệ quyền lợi của các bên khi có mâu thuẫn xảy ra. Đăng ký kết hôn còn có ý nghĩa quan trọng thể hiện sự tiến bộ của xã hội, đồng thời góp phần bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ tư tưởng lạc hậu còn tồn tại. Mọi nghi thức kết hôn khác như tổ chức lễ cưới tại gia đình hoặc kết hôn theo nghi thức tôn giáo được tiến hành tại nhà thờ mà không có giấy chứng nhận kết hôn do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp thì không được công nhận là hợp pháp. 1.2. Giá trị pháp lý của giấy chứng nhận kết hôn Theo quy định tại khoản 1 Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và Điều 57 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (cơ quan đăng ký kết hôn) thực hiện theo nghi thức do pháp luật quy định; mọi nghi thức kết hôn không tuân theo các quy định của pháp luật về đăng ký kết hôn đều không có giá trị pháp lý; vợ chồng đã ly hôn muốn kết hôn lại với nhau cũng phải đăng ký kết hôn. Như vậy đăng ký kết hôn là nghi thức kết hôn duy nhất làm phát sinh quan hệ hôn nhân. Muốn trở thành vợ chồng, nam nữ phải xin đăng ký kết hôn tại cơ quan đăng ký kết hôn. Chỉ khi nào cơ quan đăng ký kết hôn đăng ký việc kết hôn cho họ, ghi vào sổ kết hôn và trao giấy chứng nhận kết hôn thì giữa họ mới phát sinh quan hệ vợ chồng. Như vậy, giấy chứng nhận kết hôn là chứng cứ viết xác nhận giữa hai bên nam nữ đã phát sinh và tồn tại quan hệ vợ chồng hợp pháp, quan hệ này được nhà nước bảo hộ những quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ và chồng mang yếu tố tình cảm gắn liền với bản thân vợ chồng mà không thể chuyển giao cho người khác được. Giá trị pháp lý của giấy chứng nhận kêt hôn được thể hiện trên những nội dung sau đây. 15
  18. 1.2.1. Giấy chứng nhận kết hôn làm phát sinh quan hệ vợ chồng giữa người nam và người nữ Sự kiện kết hôn đã làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng. Nội dung của quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng bao gồm các nghĩa vụ và quyền về nhân thân và các nghĩa vụ và quyền về tài sản, trong đó nghĩa vụ và quyền về nhân thân là nội dung chủ yếu trong quan hệ vợ chồng và quyết định tính chất, nội dung các nghĩa vụ và quyền về tài sản giữa vợ chồng. Các nghĩa vụ và quyền này được Nhà nước thừa nhận và bảo hộ. Nghĩa vụ và quyền của vợ chồng được pháp luật về hôn nhân và gia đình quy định xuất phát từ những quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được ghi nhận trong hiến pháp- đạo luật cơ bản của Nhà nước ta. Với tư cách là công dân, vợ chồng có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ đó. Bên cạnh đó, vợ chồng còn có các quyền và nghĩa vụ với nhau, với gia đình và xã hội. Nghĩa vụ và quyền của vợ chồng bao gồm nghĩa vụ và quyền về nhân thân và nghĩa vụ và quyền về tài sản. Thực hiện những quyền và nghĩa vụ đó là nhằm bảo đảm thỏa mãn những nhu cầu tình cảm và vật chất trong đời sống vợ chồng, bảo đảm lợi ích chung của gia đình và xã hội. Nghĩa vụ và quyền nhân thân giữa vợ và chồng mang yếu tố tình cảm, là lợi ích tinh thần giữa vợ và chồng, gắn liền với bản thân vợ chồng trong suốt thời kỳ hôn nhân. Những nghĩa vụ và quyền này xuất phát từ chuẩn mực đạo đức, cách ứng xử mang tính tự nhiên và truyền thống giữa vợ và chồng. Như vậy, các nghĩa vụ và quyền nhân thân giữa vợ và chồng vốn đã nảy sinh từ trước, được coi như nghĩa vụ về đạo đức và sau này được pháp luật quy định nên trở thành nghĩa vụ pháp lý. Nghĩa vụ và quyền nhân thân giữa vợ và chồng gắn liền với nhân thân của vợ chồng mà không thể chuyển giao cho người khác. Chỉ với tư cách là vợ chồng của nhau thì họ mới có các quyền và nghĩa vụ đó mà thôi. Nội dung của nghĩa vụ và quyền nhân thân giữa vợ và chồng là những lợi ích tinh thần, tình cảm, không mang nội kinh tế và cũng không phụ thuộc 16
  19. vào yếu tố tài sản. Các nghĩa vụ và quyền đó còn bao gồm cả tình yêu, sự hòa thuận, sự tôn trọng lẫn nhau, việc xử sự trong gia đình, quan hệ đối với cha mẹ, các con và những thành viên trong gia đình. Việc thực hiện các nghĩa vụ và quyền về nhân thân giữa vợ và chồng nhằm bảo đảm thỏa mãn nhu cầu tình cảm trong đời sống vợ chồng. Vì vậy, khi điều chỉnh những quan hệ đó phải kết hợp giữa các quy định của pháp luật với những quy tắc đạo đức và lẽ sống trong xã hội. Trong quan hệ vợ chồng, bên cạnh các quyền và nghĩa vụ về nhân thân còn có các quyền và nghĩa vụ về tài sản. Quyền và nghĩa vụ về tài sản giữa vợ chồng đóng vai trò quan trọng trong đời sống gia đình, mang những nét đặc trưng gắn liền với nhân thân của vợ chồng. Quyền và nghĩa vụ tài sản giữa vợ và chồng bao gồm quyền sở hữu tài sản, quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng và quyền thừa kế tài sản. Quyền và nghĩa vụ tài sản giữa vợ và chồng là cơ sở kinh tế đảm bảo cho gia đình thực hiện tốt các chức năng xã hội. Các quyền và nghĩa vụ đó còn nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất của vợ chồng, bảo đảm cho vợ chồng thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ về nhân thân với nhau và thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ đối với con cái và với các thành viên trong gia đình. 1.2.2. Giấy chứng nhận kết hôn làm phát sinh quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất Theo quy định tại Điều 219 Bộ luật Dân sự năm 2005 và Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, tài sản chung của vợ chồng là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia. Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu không được xác định đối với tài sản chung. Xuất phát từ tính chất của quan hệ hôn nhân của vợ chồng là cùng chung ý chí, cùng chung công sức trong việc tạo lập nên khối tài sản nhằm xây dựng gia đình, bảo đảm cho gia đình thực hiện tốt các chức năng xã hội của nó như: phát triển kinh tế gia đình vững mạnh, tạo điều 17
  20. kiện tốt cho việc nuôi dạy con cái, vì vậy, pháp luật quy định tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng chỉ căn cứ vào nguồn gốc, thời điểm phát sinh tài sản mà không căn cứ vào công sức đóng góp của mỗi người vào việc tạo dựng và phát triển khối tài sản đó. Có thể do điều kiện sức khỏe, đặc điểm công việc và nghề nghiệp nên sự đóng góp công sức của vợ chồng vào việc xây dựng khối tài sản chung không ngang bằng nhau, nhưng quyền sở hữu của họ đối với tài sản chung vẫn ngang bằng nhau. Tài sản chung của vợ chồng không nhất thiết phải do công sức của cả hai vợ chồng trực tiếp tạo ra, có thể chỉ do vợ hoặc chồng làm ra trong thời kỳ hôn nhân. Như vậy, vợ và chồng có quyền và nghĩa vụ bình đẳng với nhau trong việc xây dựng, phát triển và duy trì khối tài sản, đồng thời họ cũng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất. Quyền bình đẳng của vợ chồng đối với khối tài sản chung thể hiện trong việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư, kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận (Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000). Trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung, pháp luật quy định phải có sự bàn bạc, thỏa thuận của vợ chồng. Trong trường hợp vợ, chồng ủy quyền cho nhau thì người được ủy quyền có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung trong phạm vi được ủy quyền. Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản có chữ ký của cả vợ và chồng (Khoản 3 Điều 219 Bộ luật Dân sự năm 2005 và khoản 1 Điều 24 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000). 1.2.3. Giấy chứng nhận kết hôn làm phát sinh quyền thừa kế tài sản của nhau giữa vợ và chồng Quyền thừa kế tài sản của nhau giữa vợ và chồng đã được quy định tại Điều 676 Bộ luật Dân sự năm 2005 và Điều 31 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Theo quy định của pháp luật về thừa kế thì vợ, chồng có quyền 18
  21. thừa kế tài sản của nhau theo di chúc hoặc theo pháp luật. Nếu chia di sản thừa kế theo pháp luật thì người vợ, chồng còn sống thuộc hàng thừa kế thứ nhất cùng với cha, mẹ, con của người chồng, vợ đã chết. Quyền thừa kế của vợ, chồng còn được bảo vệ bằng pháp luật trong trường hợp người vợ hoặc chồng chết trước có di chúc truất quyền thừa kế của người chồng hoặc vợ còn sống, đó là: người vợ hoặc chồng còn sống được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được chồng, vợ lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi vợ, chồng từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật dân sự (Theo quy định tại Điều 669 Bộ luật Dân sự năm 2005). Trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung, đang xin ly hôn, đã kết hôn với người khác, pháp luật cũng có quy định cụ thể việc thừa kế của vợ chồng, đó là: Trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại mà sau đó một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản; trường hợp vợ, chồng xin ly hôn mà chưa được hoặc đã được Tòa án cho ly hôn bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản; người đang là vợ hoặc chồng của một người tại thời điểm người đó chết thì dù sau đó đã kết hôn với người khác vẫn được thừa kế di sản. (Điều 680) Bên cạnh việc khẳng định vợ, chồng có quyền được thừa kế tài sản của nhau, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 còn quy định quyền quản lý tài sản chung của vợ chồng khi một bên chết hoặc bị tòa án tuyên bố là đã chết. Khi vợ hoặc chồng chết hoặc bị tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của chồng, vợ, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người 19