Luận văn Nhân thân người phạm tội trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh

pdf 90 trang vuhoa 25/08/2022 5900
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Nhân thân người phạm tội trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_nhan_than_nguoi_pham_toi_tren_dia_ban_quan_thu_duc.pdf

Nội dung text: Luận văn Nhân thân người phạm tội trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI Cao Văn Thiên NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2018
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI Cao Văn Thiên NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành/Chuyên ngành: Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm Mã số: 8.38.01.05 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HOÀNG XUÂN CHÂU HÀ NỘI, năm 2018
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả Luận văn Cao văn Thiên
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: LÝ LUẬN NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI 8 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội. 8 1.2. Các yếu tố tác động đến việc hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực ở người phạm tội 17 Chương 2: THỰC TRẠNG NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 30 2.1. Tổng quan tình hình tội phạm trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2013-2017 30 2.2. Thực trạng nhân thân người phạm tội trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn năm 2013-2017 40 2.3. Thực trạng các yếu tố tác động đến việc hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực ở người phạm tội trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn từ năm 2013 - 2017 48 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TỪ GÓC ĐỘ NHÂN THÂN 67 3.1. Dự báo biến động của môi trường sống và ảnh hưởng của nó đến việc hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh 67 3.2. Thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh từ góc độ nhân thân 71 3.3. Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm từ góc độ nhân thân 72 KẾT LUẬN 80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TAND Tòa án nhân dân UBND Ủy ban nhân dân THTP Tình hình tội phạm TP. Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh ANTT An ninh trật tự TLTP Tỷ lệ tội phạm
  6. DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Tình hình tội phạm trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2013-2017 31 Biểu 2.1. Biểu đồ diễn biến tình hình tội phạm trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2013-2017 32 Bảng 2.2. Hệ số của tình hình tội phạm trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2013-2017 32 Bảng 2.3. Tình hình các tội trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2013-2017 33 Bảng 2.4. Thống kê về nhân thân (nghề nghiệp, tiền án, tiền sự) của các bị cáo bị Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử từ năm 2013-2017 40 Bảng 2.5. Thống kê về nhân thân (độ tuổi, trình độ học vấn, giới tính) của các bị cáo bị Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử từ năm 2013-2017 41
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía nam, trung tâm văn hóa, giáo dục và là đầu tàu kinh tế của cả nước, TP. Hồ Chí Minh, với diện tích 2.095,06 km2, dân số thực tế hơn 10 triệu người, tỷ trọng kinh tế chiếm 21,3% tổng sản phẩm GDP của cả nước và 29,38% tổng thu ngân sách của cả nước. Do vậy, tình hình tội phạm vô cùng phức tạp, đa dạng, diễn ra trong mọi lĩnh vực của xã hội, có những vụ án lớn nhất nước, theo số lượng thống kê 05 năm trở lại đây mỗi năm thành phố khởi tố và đưa ra xét xử trên 3.500 vụ án với hơn 7.200 bị cáo. Một trong số quận, huyện của thành phố có tình hình tội phạm diễn biến phức tạp và nguy hiểm nhất là quận Thủ Đức. Trước năm 1975 là huyện Thủ Đức, với vị trí địa lý mang tầm chiến lược, là “cầu nối” giữa thành phố Sài Gòn – Gia Định và các tỉnh miền Đông Nam Bộ giàu tiềm năng về công nghiệp và sản lượng nông nghiệp. Đến năm 1997, theo Nghị định 03/CP của Chính Phủ ban hành ngày 6/01/1997, huyện Thủ Đức được tách làm 03 quận nội thành, bao gồm quận Thủ Đức, Quận 9 và Quận 2. Quận Thủ Đức mới có diện tích 47,76 km2, bao gồm diện tích và dân số của 12 phường: Linh Đông, Linh Tây, Linh Chiểu, Linh Trung, Linh Xuân, Hiệp Bình Chánh, Hiệp Bình Phước, Tam Phú, Trường Thọ, Bình Chiểu, Bình Thọ, Tam Bình. Hướng từ cầu Sài Gòn dọc theo xa lộ Hà Nội, từ cầu Rạch Chiếc đến giáp tỉnh Đồng Nai. Phía Bắc tiếp giáp với thị xã Dĩ An và thị xã Thuận An của tỉnh Bình Dương, phía nam giáp sông Sài Gòn, quận Bình Thạnh, phía Đông giáp Quận 9, phía Tây giáp Quận 2. Với hệ thống giao thông đồng bộ kết nối TP. Hồ Chí Minh với các tỉnh Bình Dương, tỉnh Đồng Nai và là cửa ngõ quan trọng trong mối giao lưu và giao thương với các tỉnh miền Đông nam bộ, Duyên hải miền trung và các tỉnh phía Bắc. Quận Thủ Đức là nơi tập trung một lượng dân nhập cư lớn, tính đến nay là khoảng hơn 520.000 người, tức là có tới khoảng 11 người/km2. Số lượng dân cư tăng mạnh vì có sự phát triển của các khu công nghiệp, khu chế xuất (Linh Trung I, Linh Trung II), tiếp giáp với khu công nghệ cao quận 9, khu công nghiệp Bình Đường, khu công nghiệp Sóng Thần, khu công nghiệp Đồng An của tỉnh Bình Dương và sự tập trung của các trường đại học, cũng như sự di cư từ các quận nội thành chật chội ra vùng ven ngoại thành. Việc tăng dân số đã cung cấp nguồn lao động, góp phần hình thành và phát triển của nhiều khu 1
  8. công nghiệp, khu chế xuất là điều kiện thuận lợi để quận Thủ Đức phát triển kinh tế, xã hội trong những năm qua. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng dịch vụ - công nghiệp – nông nghiệp. Cùng với đó là sự phát triển nhanh chóng của các tuyến đường giao thông, các tuyến đường chính như Quốc lộ 1A, Quốc lộ 1K, Xa lộ Hà Nội, đường Phạm Văn Đồng (đường vành đai Bình Lợi Tân Sơn Nhất) đã được nâng cấp và mở rộng và những dự án lớn trọng điểm của thành phố đang được thực hiện như tàu điện Metro, dự án mở rộng Quốc lộ 13 Bên cạnh những mặt tích cực, tình hình tội phạm trên địa bàn quận Thủ Đức trong vòng 5 năm qua (2013-2017) diễn biến ngày càng phức tạp, theo chiều hướng ngày càng tăng cả số lượng vụ án, bị cáo và có tính chất ngày càng nguy hiểm. Theo số liệu thống kê của TAND quận Thủ Đức từ năm 2013 – 2017 có tổng số 2.707 vụ án đưa ra xét xử với 4.228 bị cáo, bình quân năm sau tăng cao hơn năm trước cả về số vụ án thụ lý cũng như số bị cáo phạm tội, nghiêm trọng hơn là tính chất, mức độ nguy hiểm ngày càng cao, thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, đã gây bức xúc và lo lắng trong nhân dân. Trước tình hình đó, Quận ủy và Ủy ban nhân dân quận Thủ Đức đã chỉ đạo các ngành, đoàn thể và cấp ủy, chính quyền các phường tích cực hỗ trợ phối hợp với lực lượng Công an triển khai thực hiện Chỉ thị 05-CT/TU của Thành ủy về việc giảm tội phạm trên địa bàn, các kế hoạch của Công an Thành phố về đấu tranh, kiềm chế, làm giảm các loại tội phạm; Chương trình hành động số 10-CTrHĐ/QU ngày 22 tháng 08 năm 2011 của Quận ủy Thủ Đức về tích cực đấu tranh phòng, chống tội phạm trên địa bàn quận Thủ Đức. Mặc dù, công tác phòng, chống tội phạm trên phạm vi thành phố nói chung và địa bàn các quận Thủ Đức đã được triển khai rất tích cực, song tình hình tội phạm trên địa bàn quận Thủ Đức vẫn diễn ra phức tạp và nghiêm trọng. Để nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm trên địa bàn quận Thủ Đức trong thời gian tới, việc trả lời câu hỏi ai là người phạm tội có vai trò đặc biệt quan trọng, định hướng cho việc lựa chọn đối tượng và biện pháp phòng ngừa. Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của nhân thân người phạm tội, tôi chọn đề tài “Nhân thân người phạm tội trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh” để nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu Nhân thân người phạm tội là một lĩnh vực khoa học được nhiều nước nghiên cứu và phát triển, tuy nhiên ở nước ta việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội vẫn còn 2
  9. chưa được chú trọng và còn mới lạ. Mặc dù những năm gần đây có nhiều công trình nghiên cứu vấn đề này, nhưng ở nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau, trên những địa bàn có những đặc điểm khác nhau. Thực tế chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu về nhân thân người phạm tội trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. a. Tình hình nghiên cứu các công trình lý luận chung của tội phạm học: Để có cơ sở lý luận cho việc thực hiện đề tài Luận văn, các công trình khoa học sau đây đã được nghiên cứu: - “Tội phạm học, Luật Hình sự, Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam” Nxb. Chính trị quốc gia, 1994; - “Tội phạm học Việt Nam-Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Viện Nhà nước và Pháp luật, Nxb. CAND, năm 2000; - Giáo trình “Tội phạm học” của GS.TS. Võ Khánh Vinh, Nxb. CAND, tái bản năm 2011; - Giáo trình “Tội phạm học” của trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. CAND, 2004, 2012; - Giáo trình “Tội phạm học” của Học viện Cảnh sát nhân dân, Nxb. CAND, 2002, 2013; - “Một số vấn đề lý luận về THTP ở Việt Nam” của TS. Phạm Văn Tỉnh, Nxb. CAND, 2007; - Một số vấn đề tội phạm học Việt Nam (2013) do Học viện Cảnh sát nhân dân, Bộ Công an ấn hành; - Các bài viết về nguyên nhân và điều kiện của tội phạm, về nhân thân người phạm tội, về phòng ngừa tội phạm được đăng tải trên tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, tạp chí Nhà nước và Pháp luật, tạp chí Cảnh sát nhân dân, tạp chí Kiểm sát, tạp chí TAND, CAND trong những năm gần đây. Các công trình nghiên cứu trên đã tập trung làm rõ những vấn đề lý luận chung về nhân thân người phạm tội, bao gồm khái niệm nhân thân người phạm tội, phân biệt khái niệm nhân thân người phạm tội với một số khái niệm khác có liên quan, các đặc điểm của nhân thân người phạm tội, vai trò của nhân thân người phạm tội trong cơ chế hành vi phạm tội Đây là những cơ sở lý luận quan trọng mà tác giả có thể kế thừa làm nền tảng lý luận trong luận văn của mình. 3
  10. b. Tình hình nghiên cứu cụ thể và liên quan trực tiếp đến đề tài Luận văn, các công trình sau đây đã được tham khảo: - Luận án tiến sĩ luật học “Nhân thân người phạm tội trong luật hình sự Việt Nam” của Nguyễn Thị Thanh Thủy, năm 2005. - Phạm Uyên Thy (2015) “Nhân thân người phạm tội trên địa bàn quận 7, TP. Hồ Chí Minh”. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội. - Huỳnh Phúc Thịnh (2017) “Nhân thân người phạm tội chứa mại dâm trên địa bàn quận Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh”. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội. - Vũ Thị Thúy Mai (2017) “Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác trên địa bàn tỉnh Bình Phước”. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội. - Bùi Văn Thi (2017) “Nhân thân người phạm các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Bình Phước”. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội. - Phan Thị Phương Thảo (2017) “Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản trên địa bàn quận Bình Tân, TP. Hồ Chí Minh”. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội. - Đào Xuân Thưởng (2017) “Nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận 9, TP. Hồ Chí Minh”. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội. - Nguyễn Thanh Tuấn (2017) “Nhân thân người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Bình Phước”. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội. - Nguyễn Thị Cẩm (2017) “Nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn quận Bình Tân, TP. Hồ Chí Minh”. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội. - Nguyễn Xuân Bá (2017) “Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh”. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội. - Bùi Ai Giôn (2017) “Nhân thân người thực hiện các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu”. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội. - Nguyễn Ngọc Thắm (2016) “Nhân thân người phạm các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai”. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội. - Tô Minh Hải (2016) “Nhân thân người phạm tội cờ bạc trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh”. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội. 4
  11. - Phạm Thị Triều Mến (2016) “Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Bình Dương”. Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội. - Bài viết: “Vấn đề nhân thân người phạm tội trong thực tiễn quyết định hình phạt” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, Tạp chí Toà án nhân dân, số 19/2005; - Bài viết: “Vấn đề nhân thân người phạm tội trong thực tiễn truy cứu trách nhiệm hình sự” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, Tạp chí kiểm sát, số 17/2005; - Bài viết: “Một số đặc điểm chú ý về nhân thân của người phạm tội về ma tuý ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Tuyết Mai, Tạp chí Luật học, số 11/2006; - Bài viết: “Các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự liên quan đến nhân thân người phạm tội” của tác giả Đinh Văn Quế, Tập chí Toà án, số 13/2009; - Bài viết:“Một số vấn đề nhân thân người phạm tội” của tác giả Nguyễn Quang Hạnh, Tập chí Nghề luật, số 1/2013; Các công trình đã nêu, tuy khác về địa bàn nghiên cứu, đối tượng, phạm vi, thời gian và chất liệu nghiên cứu, song chứa đựng nhiều thông tin khoa học tội phạm học quan trọng mà đề tài có thể học hỏi và kế thừa. Tuy nhiên, hiện nay chưa có công trình tội phạm học nào nghiên cứu về nhân thân người phạm tội trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh nên việc nghiên cứu đề tài này vẫn cần thiết và khả thi. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn - Về mục đích, đề tài nhân thân người phạm tội trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh (từ năm 2013 đến năm 2017), nghiên cứu, phân tích các nguyên nhân hình thành các đặc điểm nhân thân xấu của những người phạm tội, luận văn phải hướng tới mục đích kiến nghị giải pháp hoàn thiện các biện pháp phòng ngừa tội phạm trên địa bàn nghiên cứu từ góc độ nhân thân. - Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được các mục tiêu trên, trong quá trình nghiên cứu cần giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau: Một là, nghiên cứu lý luận. Nhiệm vụ này bao gồm những hoạt động cụ thể như: Tìm, thu thập và nghiên cứu những tài liệu về tội phạm học, về pháp luật hình sự và những tài liệu khác liên quan đến đề tài luận văn làm cơ sở cho việc nhận thức thống nhất, rõ ràng phương pháp luận nghiên cứu và sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể cho phù hợp; 5
  12. Hai là, nghiên cứu thực tiễn, bao gồm tìm kiếm, thu thập, xử lý, phân tích, so sánh những số liệu thống kê thường xuyên xét xử sơ thẩm hình sự từ năm 2013 đến năm 2017 của Toàn án nhân dân quận Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh; Tìm, thu thập các bản án xét xử sơ thẩm và phúc thẩm hình sự về các phạm tội xảy ra trên địa bàn quận Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian từ năm 2013 đến năm 2017 và xử lý, phân tích, so sánh theo các tiêu thức tội phạm học cần thiết để làm rõ các đặc điểm nhân thân người phạm tội trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Ba là, dự báo xu hướng của tình hình tội phạm trên địa bàn quận Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh, nhất là xu hướng tác động đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của con người. Bốn là, đề xuất các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm trong thời gian tới trên địa bàn quận Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh, từ góc độ nhân thân người phạm tội. 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nhân thân người phạm tội trên địa bàn quận Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh trong mối liên hệ với các hiện tượng, sự kiện, quá trình kinh tế-xã hội, pháp lý khác trên địa bàn quận Thủ Đức. Đề tài nghiên cứu dựa trên các số liệu thống kê của các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn quận Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2013-2017, cũng như trên cơ sở kết quả nghiên cứu của 300 bản án xét xử sơ thẩm của TAND quận Thủ Đức từ năm 2013 đến năm 2017 được thu thập một cách ngẫu nhiên. - Phạm vi nghiên cứu: + Về mặt nội dung, đề tài nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học, thuộc chuyên ngành Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm; + Về cấp xét xử, luận văn sử dụng chất liệu nghiên cứu chủ yếu là số liệu xét xử hình sự sơ thẩm; + Về thời gian, đề tài sử dụng chất liệu nghiên cứu trong vòng 05 năm, từ 2013 đến 2017, bao gồm số liệu thống kê xét xử sơ thẩm hình sự cấp Quận và 300 bản án hình sự sơ thẩm trên địa bàn quận Thủ Đức trong giai đoạn 2013-2017; + Về không gian, đề tài luận văn được thực hiện trên phạm vi quận Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh. 6
  13. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận: sử dụng pháp biện chứng duy vật lịch sử của triết học Mác – Lê nin; các quan điểm của Đảng và Nhà nước về nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm; các tri thức khoa học của bộ môn tội phạm học và tâm lý học - Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Luận văn sử dụng phép biện chứng của triết học Mác-xít vừa với tính cách là phương pháp luận, vừa với tính cách của một phương pháp nghiên cứu. Ngoài ra, Luận văn còn áp dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp quy nạp và diễn dịch; mô tả; so sánh; lịch sử; thống kê; hệ thống; nghiên cứu hồ sơ và các phương pháp chuyên biệt khác của tội phạm học. 6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn - Ý nghĩa về mặt khoa học: Luận văn là công tình chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống về nhân thân người phạm tội trên địa bàn quận Thủ Đức từ năm 2013 đến năm 2017, là bức tranh thông tin cụ thể thực tế nhân thân người phạm tội trên địa bàn. Kết quả nghiên cứu luận văn sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện hơn nữa lý luận của tội phạm học và là tài liệu tham khảo sinh động về khía cạnh nghiên cứu nhân thân người phạm tội trên địa bàn quận Thủ Đức từ năm 2013 đến năm 2017 cho các hoạt động giảng dạy, học tập nghiên cứu cũng như cho các cơ quan bảo vệ pháp luật của địa phương. - Ý nghĩa về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được vận dụng vào thực tiễn công tác phòng, chống tình hình tội phạm trong thời gian tới trên địa bàn quận Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh từ góc độ nhân thân của người phạm tội. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu ba chương. Cụ thể như sau: Chương 1: Khái quát lý luận chung về nhân thân người phạm tội. Chương 2: Các đặc điểm nhân thân và nguyên nhân hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm tội trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Chương 3: Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh từ góc độ nhân thân. 7
  14. Chương 1 LÝ LUẬN NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội. 1.1.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội Nhân thân người phạm tội là một bộ phận cấu thành tất yếu và rất quan trọng của cơ chế hình thành hành vi phạm tội của cá nhân, mà khi nói đến cá nhân là nói đến con người. Con người với tư cách là thành viên của xã hội, tham gia vào các quan hệ xã hội, thực thể của xã hội. Vì thế khái niệm nhân thân người phạm tội được hình thành từ khái niệm “nhân thân” và khái niệm “người phạm tội” [41,Tr.147]. Nhân thân con người là sự thống nhất giữa các đặc tính xã hội và đặc tính sinh học, là sự tổng hợp những đặc điểm, dấu hiệu thể hiện bản chất của con người tham gia vào tất cả các mối quan hệ xã hội. Tiếp cận dưới góc độ luật hình sự thì nhân thân của người phạm tội trong luật hình sự được hiểu là tổng hợp những đặc diểm riêng biệt của người phạm tội có nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự của người đó [39,Tr.127]. Tội phạm học nghiên cứu nhân thân người phạm tội có phạm vi rộng hơn nhiều so với Luật hình sự. “Đối tượng nghiên cứu của tội phạm học là con người phạm tội chứ không phải là con người nói chung. Người phạm tội là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm” [41,Tr.149]. Tội phạm học nghiên cứu nhân thân người phạm tội trong mối quan hệ tổng hòa các yếu tố, các đặc điểm riêng biệt của người phạm tội ở trên phạm vi một địa bàn hành chính – lãnh thổ nhất định, trong khoảng thời gian nhất định về các mặt tâm – sinh lý – xã hội, nhân khẩu – nhân chủng học, dân tộc học và pháp lý. Khi nghiên cứu nhân thân người phạm tội chính là nghiên cứu tổng hợp tất cả các đặc điểm, dấu hiện riêng biệt của người phạm tội. Các đặc điểm riêng có có thể là tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, lối sống, hoàn cảnh gia đình, đời sống kinh tế, thái độ chính trị, sở thích cá nhân, ý thức chấp hành pháp luật, địa bàn-vùng miền trưởng thành, Tuy con người sinh ra không phải để trở thành người phạm tội, nhưng con người có khả năng trở thành người 8
  15. phạm tội, khi trong quá trình tương tác với các thiết chế xã hội, đã hình thành nên các đặc điểm nhân thân tiêu cực và khi nó gặp được những tình huống, hoàn cảnh, điều kiện thuận lợi sẽ thúc đẩy con người đó thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, nhân thân người phạm tội là “Tổng thể tất cả các dấu hiệu, đặc điểm có ý nghĩa về mặt xã hội, trong sự kết hợp với điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài ảnh hưởng đến hành vi phạm tội của người đó” [51,Tr.131]. Hoặc có thể định nghĩa theo kiểu liệt kê cụ thể của nội hàm và ngoại diện là “Tổng hòa các yếu tố, các đặc điểm riêng biệt của người phạm tội ở một địa bàn hành chính – lãnh thổ nhất định, trong một khoảng thời gian nhất định về các mặt tâm-sinh lý-xã hội, nhân khẩu-nhân chủng học, dân tộc học và pháp lý, những cái có ý nghĩa, có giá trị thiết thực cho việc xác định nguyên nhân, điều kiện của tội phạm để có giải pháp phòng ngừa tội phạm phù hợp” [33, Tr 212- 222]. 1.1.2. Các đặc điểm nhân thân của người phạm tội Trong lý luận tội phạm học, nhân thân của người phạm tội được hình hành từ nhóm đặc diểm sinh học, nhóm đặc điểm tâm lý và nhóm đặc điểm xã hội [51, Tr 103]. Để nghiên cứu nhân thân người phạm tội ta cần làm rõ các đặc điểm sau đây của người phạm tội: 1.1.2.1. Nhóm đặc điểm sinh học Nghiên cứu về nhóm các đặc điểm sinh học của nhân thân người phạm tội nghĩa là đi nghiên cứu về giới tính và độ tuổi của người phạm tội. - Khi nghiên cứu giới tính của người phạm tội, thì tội phạm học tập trung nghiên cứu các vấn đề sau: tỷ lệ phạm tội giữa nam giới và nữ giới thực hiện, giới tính có ảnh hưởng như thế nào đối với cơ chế hình thành hành vi phạm tội. Những kết quả nghiên cứu của các nhà tội phạm học cho thấy nam giới một số loại tội phạm chủ yếu chỉ do nam giới thực hiện, hoặc chỉ do nữ giới thực hiện; nữ giới lại có nhiều thuận lợi khi thực hiện và che dấu tội phạm hơn nam giới. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây với sự cởi mở của xã hội làm cho giới tính thứ ba (bê đê, ô môi) lại xuất hiện càng nhiều và thực hiện hành vi phạm tội có hành vi và thủ đoạn mang tính đặc thù. Việc xác định được sự ảnh hưởng của giới tính trong cơ chế hành vi phạm tội sẽ có nhiều ý nghĩa trong đấu tranh phòng, chống tình hình tội phạm. 9
  16. - Đặc điểm lứa tuổi của những người phạm tội thể hiện được mức độ tích cực phạm tội và các đặc điểm về hành vi chống đối xã hội của những người thuộc lứa tuổi khác nhau, đặc điểm của thành phần lứa tuổi của những nhóm người phạm tội khác nhau. Thực hiện nghiên cứu đặc điểm lứa tổi trong nhân thân người phạm tội, tội phạm học cũng tiến hành nghiên cứu để xác định được hai vấn đề quan trọng đó là lứa tuổi nào phạm tội nhiều nhất, lứa tuổi nào phạm một số tội chủ yếu, trong cơ chế hình thành hành vi phạm tội giữa các lứa tuổi có gì khác nhau, vai trò của từng lứa tuổi ra làm sao. Độ tuổi của người phạm tội thường được các nhà tội phạm học chia làm nhiều nhóm với những đặc trưng riêng gắn với tâm lý lứa tuổi. Đa số các quan điểm hiện nay chia người phạm tôi theo lứa tuổi ra làm bốn nhóm: Nhóm người từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi; nhóm người từ đủ 18 đến dưới 30 tuổi; nhóm người từ đủ 30 đến dưới 45 tuổi; nhóm người trên 45 tuổi. Theo cách phân chia này những người từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi là những người có đặc điểm tâm lý và nhận thức chưa đầy đủ, còn thiếu kinh nghiệm trong xử lý tình huống trong cuộc sống, họ là những người rất dễ bị dụ dỗ, lôi kéo và chịu ảnh hưởng nặng nhất của những yếu tố tiêu cực của môi trường sống bên ngoài. Những người trong độ tuổi từ 18 đến dưới 30 tuổi là những người đã hoàn thiện về mặt tâm sinh lý, tuy nhiên lứa tuổi này đang trong giai đoạn định hướng nghề nghiệp, tạo lập cuộc sống riêng nên sự diễn biến tâm lý vô cùng phức tạp và cũng dễ bị ảnh hưởng của những yếu tố, hiện tượng tiêu cực bên ngoài môi trường sống. Những người nằm trong nhóm tuổi từ đủ 30 đến dưới 45 tuổi là lứa tuổi đã hoàn toàn chín chắn về mặt suy nghĩ cũng như tâm sinh lý, cuộc sống đã đi vào ổn định và đa số đã lập gia đình, làm cha, làm mẹ, nghề nghiệp của họ đã được ổn định nên cũng ít chịu ảnh hưởng của những nhân tố tiêu cực từ cuộc sống bên ngoài so với hai nhóm tuổi trước. Lứa tuổi trên 45 là độ tuổi đã có sức ỳ trong suy nghĩ và hành động. Những người trong độ tuổi này thường an phận, chấp nhận cuộc sống hiện tại, ngại thay đổi nhưng vô cùng tham vọng, nhưng diễn biến tâm lý lại biến đổi theo chiều hướng tiêu cực như bảo thủ, chậm tiến Nhiệm vụ của tội phạm học là cần phải nghiên cứu tác động của từng lứa tuổi trong việc hình thành các đặc điểm nhân thân xấu, có vai trò quan trọng trong cơ chế hành vi phạm tội; làm rõ vai trò của độ tuổi trong việc lựa 10
  17. chọn phương thức, thủ đoạn thực hiện tội phạm. Đây là cơ sở quan trọng trong việc xây dựng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm cho toàn xã hội. 1.1.2.2. Nhóm đặc điểm nhận thức, tâm lý Các đặc điểm tâm lý -xã hội của cá nhân thể hiện đối với các quan hệ đối với nhà nước, xã hội, nghĩa vụ công dân, tập thể những người xung quanh và đối với chính bản thân cá nhân đó. Khi nghiên cứu nhóm đặc điểm nhận thức, tâm lý của nhân thân người phạm tội các nhà tội phạm học thường tập trung nghiên cứu các vấn đề đặc trưng như trình độ học vấn, hệ thống các nhu cầu, hứng thú, định hướng giá trị cũng như ý thức đạo đức, ý thức pháp luật của họ. Theo đó, nhiều nghiên cứ về tội phạm học đã chứng minh được rằng trình độ học vấn là yêu tố phản ảnh phần lớn mức độ nhận thức của người phạm tôi khi thực hiện hành vi phạm tội. Trình độ học vấn càng cao thì tỷ lệ thuận với mức độ nhận thức, hiểu biết càng cao, nhất là hiểu biết về những quy định của pháp luật. Điều đó có ảnh hưởng rất lớn đối với khả năng kiềm chế, kiểm soát hành vi của mình, trong thực hiện các hành vi phạm tội. Ngược lại, trình độ học vấn càng thấp thì thường đi kèm với trình độ hiểu biết thấp, đặc biệt là hiểu biết về kiến thức pháp luật, từ đó dẫn đến nhiều trường hợp phạm tội do thiếu hiểu biết. Đối với các đặc điểm về nhu cầu của nhân thân người phạm tội, tội phạm học tập trung làm rõ sự ảnh hưởng của nhu cầu đối với việc làm phát sinh động cơ, mục đích phạm tội và sự ảnh hưởng của nhu cầu lên hành vi và việc xử sự của con người khi nó không được thỏa mãn. Mỗi cá nhân trong xã hội có sự khác biệt nhau bởi tính chất, nội dung của nhu cầu cũng như các biện pháp thỏa mãn nhu cầu. Tuy nhiên, khi nghiên cứu về đặc điểm nhu cầu của người phạm tội thì tội phạm học nhận thấy có sự hạn hẹp của các nhu cầu, sự mất cân đối trong hệ thống nhu câu, thường tập trung vào một số nhu cầu thực dụng và cực đoan. Những nhu cầu biến dạng, đi ngược lại với những chuẩn mực đạo đức xã hội và trái quy định của pháp luật (chẳng hạn như sử dụng ma túy, nghiện rượu, nghiện game online ). Biện pháp, cách thức để thỏa mãn nhu cầu của người phạm tội cũng vi phạm các chuẩn mực đạo đức xã hội và trái pháp luật. Nhu cầu của con người được hình thành và phát triển trong những điều kiện xã hội lịch sử nhất định, trong quá trình hoạt động của mỗi cá nhân, nó vừa mang tính cơ động lại vừa có tính bền vững, ổn định. Có những nhu cầu phong phú, lành mạnh đồng thời 11
  18. cũng có những nhu cầu lệch chuẩn. Nhu cầu sai lệch và phương thức thỏa mãn trái pháp luật sẽ dẫn đến tội phạm. Vì vậy, nghiên cứu các đặc điểm này sẽ tạo cơ sở định hướng xây dựng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm một cách chủ động và hiệu quả. Trong các yếu tố về nhận thức, tâm lý của nhân thân người phạm tội, yếu tố về định hướng giá trị thể hiện những đánh giá của cá nhân về các nhóm giá trị trong cuộc sống. Các nhóm giá trị này được thể hiện một cách cụ thể như giữa vật chất-tinh thần, cá nhân-tập thể, nội dung-hình thức, truyền thông-hiện đại, giá trị nội-giá trị ngoại, Khi nghiên cứu về định hướng giá trị của người phạm tội, tội phạm học nhận thấy người phạm tội có sự đánh giá không đúng, có sự nhầm lẫn giữa các giá trị xã hội. Mất cân đối trong hệ thống các giá trị, người phạm tội thường chỉ tập trung và chú trọng vào những giá trị trước mắt, giá trị thực dụng. Luôn đặt lợi ích cá nhân lên trên các nhóm lợi ích khác. Giữa nhu cầu, cách thỏa mãn nhu cầu, định hướng giá trị cùng với tình hình tội phạm có một mối liên hệ chặc chẽ với nhau, cùng với nhu cầu, hứng thú được coi là hệ thống động lực của nhân cách. Hứng thu có vai trò quan trọng trong cơ chế hình thành hành vi phạm tội, nó tác động trực tiếp đến quá trình hình thành động cơ và mục đích của việc thực hiện hành vi phạm tội, nó tạo ra sự say mê, cuốn hút cao độ đối với cá nhân trong việc thực hiện những hành vi chống đối xã hội. Những người thực hiện hành vi phạm tội thường thiên về những hứng thú thấp kém, những khoái cảm vật chất, hưởng thụ, thậm chí có sự lệch chuẩn nghiêm trọng trong những đam mê, hấp dẫn của bản thân. Người phạm tội thường bị lôi cuốn, bị hấp dẫn bởi những hành vi và suy nghĩ lệch chuẩn, đi ngược lại với những chuẫn mực, đạo đức xã hội. Với những nhóm tội khác nhau thì biểu hiện của sự hứng thú của người phạm tội cũng khác nhau. Đối với yếu tố đạo đức của nhân thân người phạm tội, người phạm tội có sự hạn chế trọng việc tiếp cận các giá trị đạo đức, sự hiểu biết của họ về giá trị đạo đức là không đầy đủ, thiếu chiều sâu. Môi trường hình thành và phát triển nhân cách của người phạm tội có nhiều khiếm khuyết, thiếu sót, họ không thể tiếp nhận một cách đầy đủ toàn diện về các giá trị đạo đức, vì vậy làm cho họ dễ dàng hơn trong việc lựa chọn cho mình xử sự chống đối xã hội. Người phạm tội có những quan niệm, đánh giá riêng biệt về nội dung của những giá trị đạo đức, quan niệm của họ về điều thiện-ác, tốt-xấu, 12