Luận văn Nhân thân người phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận Thanh Khê, Thành phố Đà Nẵng

pdf 91 trang vuhoa 25/08/2022 6060
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Nhân thân người phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận Thanh Khê, Thành phố Đà Nẵng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_nhan_than_nguoi_pham_toi_theo_phap_luat_hinh_su_vie.pdf

Nội dung text: Luận văn Nhân thân người phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận Thanh Khê, Thành phố Đà Nẵng

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LƢU THỊ HẰNG NHÂN THÂN NGƢỜI PHẠM TỘI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2017
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LƢU THỊ HẰNG NHÂN THÂN NGƢỜI PHẠM TỘI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Chuyên ngành: Luật Hình Sự và Tố tụng hình sự Mã số: 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS.TRẦN HỮU TRÁNG HÀ NỘI, năm 2017
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu được trích dẫn theo nguồn đã công bố. Kết quả nêu trong luận văn này là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Lƣu Thị Hằng
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƢỜI PHẠM TỘI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 9 1.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội trong luật hình sự Việt Nam 9 1.2. Phân biệt nhân thân người phạm tội tiếp cận từ góc độ khoa học luật hình sự và nhân thân người phạm tội tiếp cận từ tội phạm học 13 1.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội trong luật hình sự Việt Nam 15 CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NHÂN THÂN NGƢỜI PHẠM TỘI TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ 18 2.1. Áp dụng các đặc điểm nhân thân trong định tội danh: 18 2.2. Áp dụng các đặc điểm nhân thân trong quyết định hình phạt 27 2.3. Áp dụng các đặc điểm nhân thân trong miễn TNHS 39 CHƢƠNG 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ NHÂN THÂN NGƢỜI PHẠM TỘI TRONG GIẢI QUYẾT TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN THANH KHÊ, TP ĐÀ NẴNG 43 3.1. Khái quát tình hình tội phạm trên địa bàn quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng 43 3.2. Áp dụng các đặc điểm nhân thân trong định tội danh trên địa bàn quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng 45 3.3. Áp dụng các đặc điểm nhân thân trong quyết định hình phạt trên địa bàn quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng 55 3.4. Áp dụng các đặc điểm nhân thân trong miễn TNHS trên địa bàn quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng 66
  5. 3.5. Các giải pháp bảo đảm áp dụng chính xác các đặc điểm nhân thân để giải quyết đúng đắn TNHS 68 KẾT LUẬN 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ANTT : An ninh trật tự BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng CTTP : Cấu thành tội phạm HĐXX : Hội đồng xét xử KSND : Kiểm sát nhân dân Nxb : Nhà xuất bản TAND : Tòa án nhân dân TNHS : Trách nhiệm hình sự TP : Thành phố TTATXH : Trật tự an toàn xã hội UBND : Ủy ban nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhân thân là một trong những đề tài được nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu như: Y học, tâm lý học, sinh học, luật học Đây là một vấn đề phức tạp và là đối tượng nghiên cứu riêng biệt của ngành khoa học pháp lí từ góc độ nghiên cứu của khoa học Luật Hình sự và tội phạm học. Chính vì vậy, trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân ở nước ta hiện nay, việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội, không chỉ có ý nghĩa về mặt chính trị - xã hội, pháp lý mà còn có ý nghĩa khoa học thực tiễn, đề ra biện pháp phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm có hiệu quả, làm căn cứ cho việc quy định mức độ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Thanh Khê là một quận nằm ở vị trí gần trung tâm của thành phố Đà Nẵng, được thành lập vào ngày 01 tháng 01 năm 1997. Là quận có diện tích nhỏ nhất tại Đà Nẵng, tuy nhiên, đây được xem là đầu mối giao thông liên vùng và quốc tế của thành phố Đà Nẵng. Đây là địa phương có nhiều lợi thế trong phát triển thương mại, dịch vụ, giao thông vận tải và kinh tế biển, với chiều dài bờ biển khoảng 4,287 km trải dài trên 4 phường giáp vịnh Đà Nẵng ở phía Bắc là Thanh Khê Tây, Thanh Khê Đông, Xuân Hà, Tam Thuận, có điều kiện thuận lợi trong việc nuôi trồng, khai thác và chế biển hải sản. Năm năm qua, cơ cấu kinh tế của quận Thanh Khê chuyển dịch theo đúng định hướng: Dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp; trong đó, dịch vụ chiếm 60,49%, công nghiệp chiếm 31,51%, nông nghiệp chiếm 8%. Kết cấu hạ tầng đô thị trên địa bàn ngày càng hoàn thiện đã tạo điều kiện cho các loại hình dịch vụ phát triển sôi động. Thương mại phát triển mạnh ở các trục đường chính như Nguyễn Văn Linh, Hàm Nghi, Điện Biên Phủ, Lê Duẩn, Ông Ích Khiêm, Trần Cao Vân, Hà Huy Tập. Chủ trương thực hiện xã hội hóa 1
  8. các chợ, xây dựng chợ văn minh thương mại đã khai thác được công năng các chợ và hoạt động khá sôi động. Năm năm qua, thương mại - dịch vụ ở quận Thanh Khê phát triển theo hướng hiện đại, văn minh, tốc độ tăng trưởng bình quân 8,77%/năm. Quận Thanh Khê là một trong hai quận trung tâm của thành phố Đà Nẵng, là địa bàn tập trung đông dân cư với những khu vực phức tạp về tình hình an ninh trật tự như khu vực nhà ga xe lửa, các khu dân cư ven đường sắt, khu vực Ngã Ba Huế Cùng với sự phát triển của quận Thanh Khê nói riêng và TP Đà Nẵng nói chung, bên cạnh những mặt tích cực thì trong thời gian qua, tình hình tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp, đặc biệt là các tội Trộm cắp tài sản; Tội phạm về ma túy, ngoài ra còn xảy ra các loại tội phạm khác, như tội đánh bạc, mại dâm Trong đó, đáng chú ý là tội phạm về ma túy đã thật sự trở thành hiểm họa, đe dọa đến cuộc sống bình yên của mọi người, mọi nhà và toàn xã hội. Đối với tội phạm về ma túy thì nổi bật là đa số nhân thân các bị cáo là người đã từng có nhiều tiền án, tiền sự, bản thân các bị cáo ai cũng đã từng có ít nhất một lần bị đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc; giáo dục tại xã phường thị trấn hoặc bị xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền. Vì vậy, trong những năm gần đây tình hình an ninh trật tự trên địa bàn quận Thanh Khê có phần phức tạp hơn, tôi phạm ngày càng gia tăng. Theo báo cáo kết quả thụ lý, giải quyết các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, trong 05 năm từ năm 2012 đến ngày năm 2016, đã giải quyết: 766 vụ với 1.285 bị cáo; trong đó các tội chiếm tỷ lệ lớn là tội Trộm cắp tài sản: 263 vụ với 363 bị cáo; Tội phạm về ma túy là 139 vụ với 202 bị cáo; Tội cố ý gây thương tích là 89 vụ với 182 bị cáo. Phân tích đặc điểm nhân thân các bị cáo đã có tiền án, tiền sự, tái phạm, tái phạm nguy hiểm là 66 bị cáo; tỷ lệ bị cáo nghiện ma túy lên đến 173 bị cáo; tỷ lệ nữ chiếm 224 bị cáo; bị cáo từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là 52 bị cáo. 2
  9. Để lý giải vì sao các bị cáo đã từng bị xét xử về một tội phạm hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hoặc đã đưa vào trường giáo dưỡng nhưng vẫn tiếp tục phạm tội và những bị cáo đã từng có nhân thân xấu thì hành vi phạm tội ngày càng tinh vi và phức tạp hơn làm cho các CQTHTT khó phát hiện và khó khăn trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, tác động không nhỏ đến tình hình ANTT trên địa bàn quận Thanh Khê và TP Đà Nẵng. Việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội dưới góc độ pháp Luật hình sự có tác dụng giúp các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án nói riêng giải quyết một cách đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự của người đó, góp phần bảo đảm cho việc phân hóa, cá thể hóa trách nhiệm hình sự, hình phạt một cách chính xác. Từ sự phân tích trên, tác giả đã chọn đề tài: “Nhân thân người phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng”, làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở Việt Nam về lý luận nghiên cứu nhân thân người phạm tội đã được đề cập trong một số công trình nghiên cứu sau: - Bài viết: “Nhân thân người phạm tội một số vấn đề lý luận cơ bản” của tác giả Lê Cảm, Trịnh Tiến Việt, Tòa án nhân dân năm 2002. - Bài viết: " Nhân thân người phạm tội: Một số vấn đề lý luận cơ bản" của tác giả GS.TS.Lê Cảm, Tạp chí Tòa án, số 10/2001. - “BLHS 1999 với việc quy định đặc điểm về nhân thân là dấu hiệu định tội” của tác giả Nguyễn Ngọc Hòa, tạp chí Luật học số 06/2001. - “Bình luận khoa học BLHS năm 1999 (phần chung)” Nxb Thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Đinh Văn Quế năm 2004. - Bài viết: “Một số vấn đề về nhân thân người phạm tội” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5/2001. 3
  10. Bài viết: “Nhân thân người phạm tội với việc quy trách nhiệm hình sự” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, Tạp chí Toà án, số 8/2001. Về thực tiễn nhân thân người phạm tội có những công trình tác giả nghiên cứu như: - Luận án tiến sỹ Luật học: "Nhân thân người phạm tội trong luật hình sự Việt Nam" của Nguyễn Thị Thanh Thủy - Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật Hà Nội năm 2005. - Luận văn Thạc sĩ luật học: “Nhân thân người phạm tội trong tội phạm học” của Nguyễn Thị Thanh Thủy, Trường Đại Học Luật Hà Nội năm 1996. - Luận văn Thạc sĩ luật học: "Vai trò nhân thân người phạm tội – dấu hiệu quy định trách nhiệm hình sự" của Chu Thị Quỳnh (2015), Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; - Luận văn Thạc sĩ luật học: "Nhân thân người phạm tội cờ bạc từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh" của Trần Văn Dũng (2016), Học viện khoa học xã hội; Ngoài ra vấn đề nhân thân người phạm tội còn được nhiều tác giả nghiên cứu trong một số bài viết, chuyên khảo chung về tội phạm học, luật hình sự đăng trong các tạp chí chuyên ngành như: - “Đặc điểm nhân thân người phạm tội và phương thức thực hiện tội Trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Gia Lai” của tác giả Lê Văn Định, Kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân Tối Cao, số 6/2015. - “Nhân thân người phạm tội căn cứ để quyết định hình phạt của tác giả Trần Văn Sơn”, Luật học - Trường Đại học Luật Hà Nội, Số1/1997, tr. 41 – 43. - “Các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự liên quan đến nhân thân người phạm tội” của tác giả Đinh Văn Quế Toà án nhân dân. Toà án nhân dân tối cao, Số 14/2009, tr. 19 – 28. 4
  11. - “Một số vấn đề về nhân thân người phạm tội” của tác giả Nguyễn Quang Hạnh, Nghề Luật - Học viện Tư pháp, Số 1/2013, tr. 52 – 57. - Bài viết:" Các tình tiết định khung tăng nặng trong tội giết người phản ánh mức độ lỗi và các đặc điểm về nhân thân người phạm tội" của tác giả Đỗ Đức Hồng Hà, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 18/2005, tr. 17-20; Đánh giá khái quát: Có thể thấy, trong các công trình nghiên cứu trên, vấn đề nhân thân người phạm tội đã được một số nhà khoa học phân tích làm rõ trong quyết định hình phạt, trong định tội danh hoặc các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự. Một số tác giả đã tập trung đi sâu phân tích đặc điểm nhân thân người phạm tội gắn với một số loại tội phạm cụ thể như: Tội trộm cắp tài sản, các tội phạm về ma tuý và một số tội phạm cụ thể khác. Vì vậy, những công trình nghiên cứu trên sẽ cung cấp những kiến thức, hiểu biết cơ bản làm cơ sở cho tác giả đi sâu vào nghiên cứu vấn đề nhân thân người phạm tội trong quá trình xác định trách nhiệm hình sự của người phạm tội, mà đặc biệt là trong hoạt động thực tiễn các cơ quan điều tra, Tòa án, cơ quan Thi hành án, các cơ quan khác của Nhà nước, các tổ chức xã hội. Khái quát những công trình nghiên cứu trên cũng cho thấy, chưa có công trình nào nghiên cứu sâu các đặc điểm nhân thân người phạm tội từ thực tiễn giải quyết vụ án hình sự trên địa bàn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Vì vậy, đây chính là hướng nghiên cứu của tác giả với đề tài "Nhân thân người phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng” để có thể đưa ra kiến nghị và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy phạm có liên quan đến vấn đề nhân thân trong việc xử lý tội phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích mà luận văn hướng đến là trên cơ sở phân tích làm rõ thực 5
  12. trạng áp dụng các quy định của pháp luật hình sự có liên quan đến vấn đề nhân thân người phạm tội trên địa bàn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, luận văn hướng đến việc đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng các quy định có liên quan đến vấn đề nhân thân trong vụ án hình sự. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên, luận văn cần giải quyết ba nhiệm vụ chính sau đây: Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lí luận về nhân thân người phạm tội, đặc biệt là phân biệt rõ nhân thân người phạm tội từ cách tiếp cận của khoa học Luật Hình sự và nhân thân người phạm tội từ cách tiếp cận của Tội phạm học; Thứ hai, luận văn cần làm rõ việc vận dụng các đặc điểm nhân thân người phạm tội trong giải quyết TNHS, bao gồm việc vận dụng các đặc điểm nhân thân người phạm tội trong định tội danh; vận dụng các đặc điểm nhân thân người phạm tội trong quyết định hình phạt và vận dụng các đặc điểm nhân thân người phạm tội trong giải quyết một số vấn đề khác liên quan đến TNHS; Thứ ba, luận văn cần làm rõ thực tiễn vận dụng các đặc điểm nhân thân người phạm tội trong giải quyết TNHS trên địa bàn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, từ đó kiến nghị các giải pháp bảo đảm vận dụng chính xác các đặc điểm nhân thân trong giải quyết đúng đắn TNHS. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là lí luận về nhân thân người phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam và thực tiễn vận dụng các đặc điểm nhân thân trong giải quyết TNHS của người phạm tội trên địa bàn quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng. 6
  13. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn chỉ giới hạn trong việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội theo pháp luật hình sự việt Nam (luận văn tiếp cận nghiên cứu nhân thân người phạm tội từ góc độ khoa học Luật Hình sự) Nhân thân người phạm tội có ý nghĩa rất lớn trong việc giải quyết đúng đắn TNHS, vì vậy, phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội, những bất cập, khó khăn, vướng mắc, trong thực tiễn áp dụng pháp luật để từ đó đưa ra một số giải pháp bảo đảm áp dụng chính xác các đặc điểm nhân thân người phạm tội trong giải quyết đúng đắn TNHS. Phạm vi về thời gian: Tác giả giới hạn phạm vi thời gian nghiên cứu từ năm 2012 đến năm 2016. Phạm vi về không gian: Nghiên cứu việc vận dụng các đặc điểm nhân thân người phạm tội trong giải quyết TNHS của người phạm tội trên địa bàn quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng và chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn TTATXH cũng như thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử pháp luật, lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, xã hội học pháp luật, luật hình sự, tội phạm học và triết học như là nền tảng phương pháp luận. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng một số phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa học từng vấn đề tương ứng, đó là các phương pháp nghiên cứu như: lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê v.v Phương pháp nghiên cứu tài liệu, các bản án được sử dụng phù hợp với 7
  14. từng nội dung nghiên cứu như lí luận, bình luận, quy nạp, diễn dịch tất cả đều được sử dụng để làm rõ những vấn đề lý luận chung về nhân thân thân người phạm tội và thực tiễn áp dụng trên địa bàn quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, được sử dụng để nhằm đưa ra kiến nghị việc hoàn thiện các giải pháp phòng ngừa tội phạm từ góc độ nhân thân người phạm tội đặc thù riêng có ở quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận về nhân thân người phạm tội nói chung. Việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định chính xác tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, qua đó giúp cho việc giải quyết đúng đắn vấn đề TNHS của họ. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, sử dụng trong thực tiễn quyết định hình phạt đối với người phạm tội trên địa bàn quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng nói riêng cũng như trên địa bàn cả nước nói chung. Kết quả của luận văn cũng là tài liệu tham khảo hữu ích sử dụng trong các cơ sở đào tạo luật. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được kết cấu thành ba chương: Chương 1: Nhân thân người phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Vận dụng các đặc điểm nhân thân người phạm tội trong giải quyết vụ án hình sự. Chương 3: Vận dụng các đặc điểm nhân thân người phạm tội trong giải quyết TNHS từ thực tiễn quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng. 8
  15. CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƢỜI PHẠM TỘI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội trong luật hình sự Việt Nam 1.1.1. Khái niệm nhân thân con người Nhân thân là vấn đề được nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực như triết học, xã hội học, tâm lí học, luật học, Khi nói “con người”, khái niệm này vừa có ý nghĩa sinh học vừa có ý nghĩa xã hội. Nhưng khi nói đến nhân thân chủ yếu là nói đến con người với tính cách là thành viên của xã hội, người tham gia vào quan hệ xã hội, là thực thể xã hội. Khái niệm này chỉ bao gồm những đặc điểm về xã hội, tâm lý và có thể một số đặc điểm về sinh học có ý nghĩa về mặt xã hội như giới tính, tuổi tác, Tội phạm bao giờ cũng được thực hiện bởi một con người cụ thể vì vậy khi xác định TNHS, cần thiết phải làm rõ những đặc điểm liên quan đến bản thân người phạm tội. Xuất phát từ quan điểm người phạm tội là một con người chứa đựng những đặc điểm vốn có nhất định, ngoài ra, người phạm tội còn có những đặc điểm khác mà một người bình thường không thể có được, cho nên để nêu được khái niệm nhân thân người phạm tội thì chúng ta phải biết được, phải hiểu được nhân thân của một con người. Đây là cách tiếp cận đầu tiên khi nghiên cứu nhân thân người phạm tội. Nhân thân là một khái niệm đặc trưng, chỉ được sử dụng khi nói về bản chất của một thực thể tự nhiên, xã hội đặc biệt đó là con người. Theo quan điểm của C. Mác – Lênin: Con người là một sản phẩm của tự nhiên và xã hội. Con người do tự nhiên sinh ra nên con người mang đặc tính tự nhiên, đặc tính sinh vật học nhưng trong mối quan hệ với tự nhiên con người khác với con vật. C.Mác phân biệt rõ ràng: "Về mặc thể xác, con người chỉ sống bằng 9
  16. những sản phẩm tự nhiên ấy, dù dưới hình thức thực phẩm, nhiên liệu, quần áo, nhà ở Ông kết luận: "Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên" [13]. Những đặc điểm tự nhiên phản ánh thông qua tính sinh học bằng các tiêu chí như giới tính, độ tuổi, nơi sinh sống, nơi ăn uống, nghỉ ngơi, sinh hoạt đảm bảo cho con người có thể tồn tại được. Tuy nhiên con người không thể tồn tại một cách độc lập, để duy trì sự tồn tại thì con người phải lao động để sản xuất ra của cải vật chất nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình và lao động chính là yếu tố quyết định sự hình thành bản chất xã hội của con người, từ đó những đặc điểm xã hội được thể hiện trong con người trước tiên là việc “tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sản xuất cho mình” [13]. Như vậy, nhân thân con người là sự thống nhất giữa đặc tính sinh học và các đặc tính xã hội hay nhân thân con người là tổng hợp những đặc điểm, dấu hiệu thể hiện bản chất của con người tham gia vào tất cả các mối quan hệ xã hội. Đó là các đặc điểm, dấu hiệu sinh học, nhân khẩu học, các đặc điểm về xã hội học, đạo đức – tâm lý. 1.1.2. Khái niệm nhân thân người phạm tội Nhân thân người phạm tội là một phạm trù xã hội phức tạp được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau như: Tội phạm học, Khoa học luật hình sự, Khoa học luật tố tụng hình sự. Ở mỗi ngành khoa học có những góc độ tiếp cận khác nhau. Trước hết để tìm hiểu về nhân thân người phạm tội cần tiếp cận ở khái niệm. Khái niệm về nhân thân người phạm tội liên quan mật thiết với khái niệm chung của xã hội học Mác - Lê Nin về nhân thân con người. Các hành vi phạm tội trước hết phụ thuộc vào cá nhân con người; nguyên nhân của tội phạm không thể tự mình thể hiện ra được. Nó được thể hiện qua cá nhân, qua 10
  17. hành vi của người phạm tội Theo các nhà tội phạm học Mácxít thì: "Người phạm tội, dù là người phạm tội nguy hiểm nhất – đó cũng là một con người" [38]. C.Mác viết rằng: "Ở trong người vi phạm pháp luật, Nhà nước cần phải nhìn thấy họ là con người một cơ thể sống của nhà nước trong cơ thể đó, máu của trái tim nó đang đập, chủ yếu nhất là người công dân của nhà nước". "Đối tượng nghiên cứu của tội phạm học là con người phạm tội chứ không phải là con người nói chung. Người phạm tội là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm". Trong khoa học Luật hình sự, Tội phạm học ở Liên xô cũ, Liên Bang Nga hiện nay cũng có một số quan điểm cơ bản về khái niệm nhân thân người phạm tội: Nhân thân người phạm tội đó là nhân thân của con người đã thực hiện một cách có lỗi hành vi nguy hiểm cho xã hội, mà hành vi nguy hiểm đó luật cấm bằng sự đe dọa trách nhiệm hình sự (KudriavexerV.S Kôndrasôv N.N., LaaykinaxN.X Minkôxxky G.M., Xteppinchôx X.X tanaxevich V.G., Lakôvtê A.M .). Từ những quan điểm trên đây, các nhà khoa học luật gia nước ta cũng có một số quan điểm về khái niệm nhân thân người phạm tội: Theo PGS. TS Đỗ Ngọc Quang “Nhân thân người phạm tội là tổng hợp những đặc điểm, những dấu hiệu, mối quan hệ xã hội về một con người chứa đựng phẩm chất cá nhân tiêu cực trong nhân cách dẫn đến hành vi phạm tội” [23]. Theo GS Võ Khánh Vinh “Nhân thân người phạm tội tức là người có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị Luật hình sự quy định là tội phạm được hiểu là tổng thể các dấu hiệu, đặc điểm có ý nghĩa về mặt xã hội, trong sự kết hợp với các điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài ảnh hưởng đến hành vi phạm tội của người đó” [38]. Theo PGS-TS Nguyễn Ngọc Hòa “Nhân thân người phạm tội trong 11
  18. luật hình sự được hiểu là tổng hợp những đặc điểm riêng biệt của người phạm tội có ý nghĩa trong việc giải quyết đứng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự của họ” [16]. Như vậy, khi nghiên cứu nhân thân người phạm tội chính là nghiên cứu con người phạm tội cụ thể. Những dấu hiệu đặc trưng trong nhân thân người phạm tội bao gồm tất cả các đặc điểm, dấu hiệu riêng biệt của người phạm tội mà luật hình sự quy định về chủ thể của tội phạm. Dấu hiệu đặc trưng trong nhân thân người phạm tội khác với nhân thân con người nói chung là họ đã thực hiện hành vi xâm hại các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Các đặc điểm riêng đó có thể là: Tuổi, nghề nghiệp, tình trạng sức khỏe, trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn, quá trình công tác (thành tích, kỷ luật) lịch sử bản thân, lối sống, hoàn cảnh gia đình, đời sống kinh tế, thái độ chính trị, sở thích cá nhân, ý thức chấp hành pháp luật Ngoài ra, còn có các đặc điểm về đạo đức, tâm lý học của nhân thân người phạm tội, phản ánh rõ sự hình thành không chỉ động cơ, sự lựa chọn cơ chế thực hiện tội phạm trong hoàn cảnh cụ thể, mà còn những điều kiện đời sống cá nhân người phạm tội ra sao, đồng thời cho thấy người đó đã bị những ảnh hưởng tác động gì, có vị trí vai trò xã hội gì, thái độ thực hiện trách nhiệm công dân như thế nào chính sự tác động qua lại của toàn bộ các khía cạnh của nhân thân người phạm tội thể hiện rõ rệt trong quá trình thực hiện tội phạm. Như vậy, khái niệm nhân thân người phạm tội tức là người có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự quy định là tội phạm được hiểu là: Tổng thể tất cả các dấu hiệu, đặc điểm có ý nghĩa về mặt xã hội, trong sự kết hợp với điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài ảnh hưởng đến hành vi phạm tội của người đó [38]. Ngoài ra, chúng ta cũng có thể đưa ra một khái niệm khoa học đầy đủ về nhân thân người phạm tội như sau: “Nhân thân người phạm tội là tổng hợp các đặc điểm về mặt pháp lý hình sự, nhân 12
  19. khẩu học, xã hội sinh học và đạo đức tâm lý học của mỗi người đã có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị Luật hình sự cấm mà đặc điểm này có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự của người đó một cách công minh, có căn cứ, đúng pháp luật, đồng thời góp phần đấu tranh chống tình trạng tội phạm”. 1.2. Phân biệt nhân thân ngƣời phạm tội tiếp cận từ góc độ khoa học luật hình sự và nhân thân ngƣời phạm tội tiếp cận từ tội phạm học 1.2.1. Nhân thân người phạm tội tiếp cận từ góc độ khoa học Luật hình sự Dưới góc độ nghiên cứu của khoa học Luật hình sự: Nhân thân người phạm tội là tổng hợp các đặc tính, dấu hiệu thể hiện bản chất xã hội, tính cá biệt, không lặp đi lặp lại của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm, có ý nghĩa giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự. Như vậy, khi nghiên cứu nhân thân người phạm tội dưới góc độ Luật hình sự có tác dụng giúp các cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung, Toà án nói riêng giải quyết một cách đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự của người đó tức là góp phần bảo đảm cho việc phân hoá, cá thể hoá trách nhiệm hình sự, hình phạt một cách chính xác. [32]. Như vậy có thể thấy, mỗi người phạm tội có rất nhiều các đặc điểm nhân thân khác nhau, tuy nhiên, khoa học Luật hình sự không đề cập đến tất cả các đặc điểm nhân thân của người phạm tội mà chỉ chú trọng đến những dấu hiệu đặc điểm nhân thân có ý nghĩa trong việc xác định TNHS, cụ thể là trong định tội danh, quyết định hình phạt hoặc một số trường hợp đặc biệt khác, như miễn TNHS, miễn hình phạt 1.2.2. Nhân thân người phạm tội tiếp cận từ góc độ Tội phạm học Dưới góc độ Tội phạm học nhân thân người phạm tội là: Tổng hợp các 13
  20. đặc tính, dấu hiệu thể hiện bản chất xã hội, tính cá biệt, không lặp lại của con người mà trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định và dưới sự tác động của chính những điều kiện, hoàn cảnh đó động cơ phạm tội nảy sinh. Như vậy, nghiên cứu nhân thân người phạm tội dưới góc độ Tội phạm học là yếu tố bảo đảm cho việc nhận thức một cách đúng đắn, đồng thời lý giải được các nguyên nhân, điều kiện của tình trạng phạm tội qua đó đánh giá những yếu tố nào thuộc về nhân thân người phạm tội có ảnh hưởng trực tiếp đến việc phạm tội, thúc đẩy cho việc phạm tội được thực hiện từ đó đưa ra những kiến nghị, những giải pháp đấu tranh và phòng ngừa tội phạm từ khía cạnh nhân than [35]. Có thể thấy, phạm vi nghiên cứu các đặc điểm nhân thân trong Tội phạm học rộng hơn nhiều so với Luật hình sự. Nếu như Luật hình sự chỉ nghiên cứu các đặc điểm nhân thân có ý nghĩa trong việc xác định TNHS thì tội phạm học nghiên cứu một cách toàn diện hơn, tổng hợp hơn các đặc điểm nhân thân có ý nghĩa trong cơ chế hành vi phạm tội của mỗi người. Hành vi phạm tội bao giờ cũng là kết quả của mối quan hệ tác động qua lại giữa môi trường sống (thể hiện ở những tình huống tiêu cực thuận lợi) kết hợp với những đặc điểm tâm sinh lí, thói quen, tính cách của con người (với tư cách là các yếu tố chủ quan của chủ thể tội phạm). Chính những yếu tố thuộc về chủ quan của người phạm tội trong sự tương tác với các tình huống thuận lợi mới làm phát sinh hành vi phạm tội. Để xác định một cơ chế phức tạp như vậy, nếu không nghiên cứu một cách tổng hợp tất cả các đặc điểm nhân thân thì khó có thể làm rõ được cơ chế này. Bởi vậy, trong nỗ lực lí giải nguyên nhân phát sinh tội phạm, Tội phạm học nghiên cứu tất cả các đặc điểm nhân thân của người phạm tội để làm rõ nguyên nhân của tội phạm cũng như tình hình tội phạm. Luật hình sự với mục đích xác định một cách chính xác nhất tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nên chỉ đi sâu nghiên cứu một 14
  21. số đặc điểm nhân thân có ý nghĩa trong việc giải quyết đúng đắn TNHS. Đây chính là điểm khác nhau cơ bản trong cách tiếp cận nghiên cứu về nhân thân người phạm tội giữa Luật hình sự và Tội phạm học. 1.3. Ý nghĩa nhân thân ngƣời phạm tội trong luật hình sự Việt Nam Việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định trách nhiệm hình sự của người phạm tội trong luật hình sự. Các cơ quan tiến hành tố tụng muốn giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự của người phạm tội phải nghiên cứu đầy đủ về nhân thân người phạm tội ở một số tội phạm, việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội có ý nghĩa đối với việc định tội cũng như định khung hình phạt. Giữa hành vi phạm tội đã thực hiện và con người đã thực hiện có mối quan hệ với nhau nên nghiên cứu, xem xét nhân thân người phạm tội giúp Tòa án đánh giá đúng mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Nghiên cứu nhân thân người phạm tội giúp cho việc áp dụng đúng các quy định của BLHS trong xử lý người phạm tội, mà đặc biệt là việc định tội danh, tại Điều 12 BLHS năm 1999 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự và tại Điều 45 quy định về Căn cứ quyết định hình phạt, “Khi quyết định hình phạt ngoài việc căn cứ vào quy định của BLHS thi cần căn cứ vào nhân thân người phạm tội”, vì đặc điểm nhân thân của người đã thành niên và người chưa thành niên về tâm sinh lý có sự khác nhau. Ngoài ra nghiên cứu nhân thân người phạm tội còn có ý nghĩa quan trọng trong việc miễn TNHS (loại trừ TNHS), theo quy định tại khoản 1 điều 13 Bộ luật hình sự năm 1999 thì người bị mắc bệnh là bệnh tâm thần hoặc bệnh khác, cho đến nay chưa có giải thích chính thức nào về trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự được quy định tại điều 13 BLHS. Tuy nhiên, về lý luận cũng như thực tiễn xét xử đã thừa nhận một người không có năng lực trách nhiệm hình sự khi họ mắc một trong các bệnh sau: bệnh tâm 15
  22. thần kinh niên, bệnh loạn thần, bệnh si ngốc, các bệnh gây rối loạn tinh thần tạm thời, nhằm giúp cho các CQTHTT xác định khả năng của một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và điều khiển được hành vi nhờ vào Hội đồng giám định tâm thần xác định và kết luận. Nếu một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng họ không nhận thức được hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội hoặc nhận thức được nhưng không điều khiển được hành vi đó là người không có năng lực trách nhiệm hình sự. Chỉ khi nào người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác tới mức làm mất khả năng nhận thức hành vi của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra mới được coi là không có năng lực trách nhiệm hình sự, nếu bệnh của họ chưa tới mức làm mất khả năng nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình thì tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể, họ phải chịu toàn bộ hoặc một phần trách nhiệm hình sự. Kết luận Chƣơng 1 Nhân thân người phạm tội là tổng hợp các đặc điểm, dấu hiệu, các đặc tính quan trọng thể hiện bản chất xã hội của con người khi vi phạm pháp luật hình sự, mà trong sự kết hợp với các điều kiện bên ngoài đã ảnh hưởng đến việc thực hiện hành vi phạm tội của người đó. Khi nghiên cứu nhân thân người phạm tội cần thiết phải hiểu biết và xem xét các dấu hiệu, đặc điểm cá biệt nào của nhân thân mà trong sự tác động qua lại với các điều kiện nhất định sẽ dẫn đến một kết quả nguy hại cho xã hội; nguyên nhân và điều kiện làm xuất hiện các đặc điểm đó, chiều hướng phát triển và tác động như thế nào đến xã hội. Nhân thân người phạm tội có ý nghĩa khoa học thực tiễn giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung, cơ quan Toà án nói riêng tuân thủ nghiêm chỉnh các nguyên tắc tiến bộ của Luật hình sự được thừa nhận 16