Luận văn Nhân thân người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Bình Phước

pdf 101 trang vuhoa 25/08/2022 6160
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Nhân thân người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Bình Phước", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_nhan_than_nguoi_pham_toi_hiep_dam_tre_em_tren_dia_b.pdf

Nội dung text: Luận văn Nhân thân người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Bình Phước

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THANH TUẤN NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƯỚC LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THANH TUẤN NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƯỚC Chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm Mã ngành: 60.38.01.05 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN HỮU TRÁNG HÀ NỘI - 2017
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả đề cập trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng và chính xác. Tác giả luận văn Nguyễn Thanh Tuấn
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM 10 1.1. Khái niệm, ý nghĩa của nhân thân người phạm tội hiếp dâm trẻ em 10 1.2. Đặc điểm nhân thân người phạm tội hiếp dâm trẻ em 14 1.3. Những yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội hiếp dâm trẻ em 21 Chương 2: NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM TẠI BÌNH PHƯỚC GIAI ĐOẠN 2011-2015 28 2.1. Khái quát tình hình tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Bình Phước 28 2.2. Cơ cấu người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Bình Phước theo các đặc điểm nhân thân 30 2.3. Đặc điểm nhân thân đặc trưng của người phạm tội hiếp dâm trẻ em ở tỉnh Bình Phước 35 2.4. Thực tiễn những yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội hiếp dâm trẻ em tại Bình Phước 36 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM TỪ GÓC ĐỘ NHÂN THÂN TẠI TỈNH BÌNH PHƯỚC TRONG THỜI GIAN TỚI 51 3.1. Dự báo tình hình tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Bình Phước 51 3.2. Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Bình Phước từ khía cạnh nhân thân 54 3.3. Tổ chức phòng ngừa tình hình tội phạm hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Bình Phước 65 KẾT LUẬN 70 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 72 PHỤ LỤC
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự HDTE : Hiếp dâm trẻ em HSST : Hình sự sơ thẩm TAND : Tòa án nhân dân UBND : Ủy ban nhân dân
  6. DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Thống kê số lượng án hình sự đã xét xử và số lượng án HDTE đã được xét xử trên địa bản tỉnh Bình Phước giai đoạn từ 2011-2015 Bảng 2.2: Số vụ án HDTE đã xét xử của TAND tỉnh Bình Phước giai đoạn 2011- 2015 Bảng 2.3: Độ tuổi và giới tính của người phạm tội HDTE Bảng 2.4: Bảng thống kê tình trạng sức khỏe các bị cáo phạm tội HDTE Bảng 2.5: Bảng thống kê trình độ học vấn của các bị cáo phạm tội HDTE Bảng 2.6: Thống kê hoàn cảnh gia đình của các bị cáo phạm tội HDTE Bảng 2.7: Thống kê số lượng người phạm tội theo đơn vị hành chính trên địa bàn tỉnh Bình Phước Bảng 2.8: Thống kê nghề nghiệp của các bị cáo phạm tội HDTE Bảng 2.9: Thống kê mối quan hệ giữa người phạm tội HDTE và nạn nhân Bảng 2.10: Bảng tổng hợp kết quả điều tra xã hội học (100 học sinh)
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bình Phước được thành lập ngày 01/01/1997 trên cơ sở chia tách tỉnh Sông Bé (cũ) thành 02 tỉnh Bình Dương và Bình Phước. Tỉnh Bình Phước có diện tích gần 7000km2 - lớn nhất miền Nam Việt Nam, thuộc vùng Đông Nam bộ, phía Đông giáp tỉnh Lâm Đồng và Đồng Nai, phía Tây giáp tỉnh Tây Ninh và Vương Quốc Campuchia, phía Nam giáp tỉnh Bình Dương, phía Bắc giáp tỉnh Đắk Nông và Vương Quốc Campuchia. Bình Phước là tỉnh nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có 240 km đường biên giới với Vương quốc Campuchia, giáp 3 tỉnh gồm Tbong Khmum, Mundulkiri, Kratie. Tỉnh là cửa ngõ đồng thời là cầu nối của Đông Nam Bộ với Tây Nguyên và Campuchia. Tỉnh có 11 đơn vị hành chính gồm 3 thị xã là Đồng Xoài, Bình Long, Phước Long và 8 huyện là Bù Đăng, Bù Đốp, Bù Gia Mập, Chơn Thành, Đồng Phú, Hớn Quản, Lộc Ninh, Phú Riềng; trong đó có 111 đơn vị hành chính cấp xã, gồm có 5 thị trấn, 14 phường và 92 xã. Tỉnh lỵ của Bình Phước hiện nay là thị xã Đồng Xoài, cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 121 km theo đường Quốc lộ 13 hoặc Quốc lộ 14 và khoảng 102 km theo đường Tỉnh lộ 741. Bình Phước có dân số hơn 900.000 người, là nơi định cư và sinh sống của 41 dân tộc anh em, trong đó dân tộc ít người chiếm 17,9%, đa số là người Xtiêng, một số ít người Hoa, Khmer, Nùng, Tày, Vì vậy, Bình Phước có nhiều nét văn hóa của người Xtiêng. Ngoài ra, tỉnh còn có nhiều lễ hội truyền thống đặc sắc như liên hoan văn hóa các dân tộc thiểu số vào tháng 12 hàng năm, lễ hội cầu mưa của người Xtiêng, lễ bỏ mả, lễ hội đánh bạc bầu cua, lễ mừng lúa mới của người Khmer, lễ hội hạt điều được tổ chức hằng năm. Do đặc điểm về địa hình nên tỉnh Bình Phước có nhiều nơi cư trú mang bản sắc khác nhau. Các huyện, thị như: Đồng Xoài, Bình Long, Đồng Phú, Chơn Thành như các khu đô thị mới, đang tập trung phát triển kinh tế và cở sở hạ tầng. Các huyện Lộc Ninh, Bù Đốp, Bù Gia Mập giáp biên giới lại có diện tích rừng lớn, dân 1
  8. cư thưa thớt, người đồng bào thiểu số chủ yếu tập trung ở các huyện này để canh tác, trồng trọt. Năm 2009, tổng số người theo tôn giáo trong tỉnh Bình Phước khoảng 229.595 người với 08 tôn giáo đã được công nhận, chiếm 26,28% dân số toàn tỉnh (Theo kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở của Cục thống kê tỉnh BÌNH PHƯỚC). “Có thể coi BÌNH PHƯỚC là một bảo tàng thu nhỏ của các tôn giáo có mặt ở Việt Nam. Bên cạnh sự hiện diện của 08 tôn giáo đã được Nhà nước công nhận gồm: Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hồi giáo, Phật giáo Hòa Hảo, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam và đạo Baha’i, BÌNH PHƯỚC còn có một số tôn giáo chưa được Nhà nước ta công nhận tư cách pháp nhân” [52, tr. 394]. Trong tỉnh, số người không mang quốc tịch Việt Nam rất thấp, đa phần là người nước ngoài du lịch và tạm trú trên địa bàn tỉnh trong một thời gian ngắn. Kinh tế tỉnh Bình Phước đang trong giai đoạn phát triển, chủ yếu vẫn dựa vào nông nghiệp với hướng chủ đạo là các cây công nghiệp như cao su, cà phê, hồ tiêu, điều. Đảng bộ và chính quyền tỉnh đã ban hành nhiều chính sách phát triển kinh tế toàn diện, đặc biệt là phát triển cơ sở hạ tầng và thu hút đầu tư tại các khu công nghiệp. Hiện tại, trong tỉnh có 13 khu công nghiệp và 01 khu kinh tế tại cửa khẩu Hoa Lư (huyện Lộc Ninh). Sau hơn 19 năm thành lập tỉnh, đời sống vật chất và tinh thần của người dân đã được tăng lên đáng kể, GDP của tỉnh tăng từ 24 triệu đồng/người năm 2010 lên 39,8 triệu đồng năm 2015 và so với GDP của cả nước năm 2015 là 45,7 triệu đồng/người. Tuy nhiên, với mật độ dân cư thưa thớt (130 người/km2), diện tích rừng lớn lại giáp ranh với vùng biên giới Vương quốc Campuchia, đa dạng về bản sắc văn hóa và là tỉnh có số lượng dân nhập cư từ các tỉnh khác khá lớn nên tình hình tội phạm trong tỉnh diễn biến hết sức phức tạp và ngày càng có chiều hướng tăng mạnh. Theo báo cáo kết quả giải quyết án của TAND tỉnh Bình Phước, trong 05 năm từ 2011 – 2015 đã xét xử 1117 vụ với 2164 bị cáo; trong đó đã xét xử tội HDTE là 75 vụ với 83 bị cáo. Cụ thể, năm 2011 giải quyết 1117 vụ với 2164 bị cáo, 2
  9. trong đó đã xét xử tội HDTE là 18 vụ với 18 bị cáo; năm 2012 giải quyết 1106 vụ với 2332 bị cáo, trong đó đã xét xử tội HDTE là 16 vụ với 22 bị cáo; năm 2013 giải quyết 1131 vụ với 2453 bị cáo, trong đó đã xét xử tội HDTE là 12 vụ với 12 bị cáo; năm 2014 giải quyết 1119 vụ với 2198 bị cáo, trong đó đã xét xử tội HDTE là 14 vụ với 15 bị cáo. Tình hình tội phạm HDTE trong tỉnh từ năm 2011 đến năm 2015 luôn ở mức cao và có những diễn biến phức tạp, trung bình TAND tỉnh Bình Phước xét xử 15 vụ với 17 bị cáo mỗi năm so với tổng số án sơ thẩm giải quyết mỗi năm trung bình là 73 vụ với 133 bị cáo (tội HDTE trên địa bàn tỉnh Bình Phước giai đoạn 2011- 2015 không có án sơ thẩm ở cấp huyện). Với diễn biến phức tạp của tội HDTE trên địa bàn tỉnh Bình Phước đã ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế – xã hội – văn hóa; thể hiện sự suy đồi về lối sống, sự xuống cấp về các giá trị đạo đức. Tội phạm này không những xâm hại đến sức khỏe, danh dự nhân phẩm mà còn gây ảnh hưởng lâu dài tới tâm, sinh lí của nạn nhân trong suốt quá trình trưởng thành, đồng thời còn gây tâm lý hoang mang, lo lắng lan rộng trong quần chúng nhân dân, tác động xấu đến tình hình an ninh trật tự trên toàn tỉnh. Một hậu quả cũng phải kể đến đó là chi phí của Nhà nước cho quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, là những thiệt hại không thể đo đếm được. Do đó, đấu tranh phòng và chống loại tội phạm HDTE luôn là nhiệm vụ quan trọng, vừa có tính cấp bách vừa có tính chiến lược lâu dài, là vấn đề mang tính xã hội cao, là sự nghiệp của quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Những năm qua, Đảng, Nhà nước và các ngành, các cấp đã có nhiều chủ trương, biện pháp trong việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em, phòng, chống tội phạm HDTE, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ An ninh Tổ quốc, nâng cao trách nhiệm vai trò chủ động của các đoàn thể chính trị - xã hội và tầng lớp nhân dân trong công tác phòng ngừa, đấu tranh với loại tội phạm này. Để đấu tranh có hiệu quả đối với loại tội phạm này, một trong những vấn đề quan trọng là cần làm rõ nhân thân người phạm tội HDTE. Vì vậy tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài: "Nhân thân người phạm tội 3
  10. HDTE trên địa bàn tỉnh Bình Phước" làm luận văn Thạc sĩ luật học của mình với mong muốn nghiên cứu làm rõ đặc điểm nhân thân người phạm tội HDTE, để lí giải nguyên nhân phát sinh tội phạm có liên quan đến đặc điểm nhân thân người phạm tội, từ đó đề xuất biện pháp phòng ngừa tương ứng, góp phần quan trọng trong việc kiềm chế, kiểm soát tình hình tội phạm HDTE trên địa bàn tỉnh Bình Phước. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm gần đây, đã có một số công trình nghiên cứu được thực hiện liên quan đến đề tài nhân thân người phạm tội. Về lý luận nhân thân người phạm tội có những công trình nghiên cứu sau: - Giáo trình tội phạm học, của GS. TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Đại học Huế, năm 2011. - Tội phạm học Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tập thể tác giả Viện Nhà nước và Pháp luật, năm 2009. - Luận văn thạc sỹ Luật học: “Nhân thân người phạm tội trong tội phạm học” của Nguyễn Thị Thanh Thủy (1996), Đại học Luật Hà Nội. - Luận án tiến sĩ Luật học: “Nhân thân người phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam” (2005), Đại học Luật Hà Nội. - Bài viết: "Nhân thân người phạm tội: Một số vấn đề lý luận cơ bản" của tác giả GS. TS. Lê Cảm, Tạp chí Tòa án, số 10/2001, tr. 7-11 và số 11/2001, tr. 5-8; - Bài viết: "Một số vấn đề về nhân thân người phạm tội" của tác giả Nguyễn Quang Hạnh, Tạp chí Nghề luật, số 1/2013, tr. 52-57. Nhìn chung, các tác giả đã làm rõ những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội như: Khái niệm nhân thân người phạm tội, phân biệt khái niệm nhân thân người phạm tội với một số khái niệm có liên quan, ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội Tác giả sẽ kế thừa những quan điểm khoa học trên làm nền tảng căn cứ trong luận văn của mình. Về thực tiễn nhân thân người phạm tội có những công trình tác giả nghiên cứu, phân tích có hệ thống về nhân thân người phạm tội trên một địa bàn nhất định và đặc điểm người phạm tội gắn với một loại tội phạm cụ thể, tiêu biểu như: 4
  11. - Luận văn Thạc sĩ luật học:"Nhân thân người phạm tội trên địa bàn Quận 7, thành phố Hồ Chí Minh" của Phạm Uyên Thy (2015), Học viện khoa học xã hội; - Luận văn Thạc sĩ luật học: "Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Bình Dương" của Phạm Thị Triều Mến (2016), Học viện khoa học xã hội; - Luận văn Thạc sĩ luật học: "Nhân thân người phạm tội cờ bạc từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh" của Trần Văn Dũng (2016), Học viện khoa học xã hội; - Luận văn Thạc sĩ luật học:"Đặc điểm nhân thân người phạm tội HDTE trên địa bàn tỉnh Đồng Nai dưới góc độ tội phạm học" của Phạm Thế Hùng (2012), Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh; Về kinh nghiệm và giải pháp có các công trình nghiên cứu trong việc định tội và quyết định hình phạt hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự như: - Bài viết: "Nhân thân người phạm tội một căn cứ cần căn nhắc khi quyết định hình phạt" của tác giả Trịnh Tiến Việt, Tạp chí kiểm sát, số 1/2003, tr. 21-23; - Bài viết:"Các tình tiết định khung tăng nặng trong tội giết người phản ánh mức độ lỗi và các đặc điểm về nhân thân người phạm tội" của tác giả Đỗ Đức Hồng Hà, Tạp chí TAND, số 18/2005, tr. 17-20; - Bài viết: "Nhân thân người phạm tội với việc quy trách nhiệm hình sự" của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thủy, Tạp chí Tòa án, số 8/2001, tr. 2-7; - Bài viết: "Các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự liên quan đến nhân thân người phạm tội" của tác giả Đinh Văn Quế, Tạp chí Tòa án, số 13/2009, tr. 23- 27 và số 14, tr. 19-28; Các tác giả trong các công trình nghiên cứu trên đã phân tích làm rõ vai trò của nhân thân người phạm tội trong quyết định hình phạt, trong định tội danh hoặc trong quy định liên quan đến các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự. Một số tác giả đã tập trung đi sâu phân tích đặc điểm nhân thân người phạm tội gắn với một số loại tội phạm cụ thể, như tội giết người, các tội xâm phạm sở hữu, tội trộm cắp tài sản Những kết quả của các công trình nghiên cứu này cũng là những tri thức, 5
  12. hiểu biết quan trọng mà tác giả có thể kế thừa trong quá trình nghiên cứu làm đề tài của mình. Tuy nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu nào nghiên cứu chuyên sâu về nhân thân người phạm tội HDTE trên địa bàn tỉnh Bình Phước. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa những tri thức lý luận nền tảng về nhân thân người phạm tội cũng như những tri thức nghiên cứu về nhân thân người phạm tội trong các loại tội, nhóm tội ở các địa phương nhất định trong các công trình của các tác giả kể trên, tác giả sẽ vận dụng đi sâu nghiên cứu về nhân thân người phạm tội HDTE trên địa bàn tỉnh Bình Phước. Từ thực tiễn tình hình tội HDTE trên địa bàn tỉnh Bình Phước giai đoạn 2011 - 2015, tác giả sẽ đi sâu phân tích làm rõ lý luận về nhân thân người phạm tội gắn với đặc điểm tình hình kinh tế, văn hoá, đạo đức, truyền thống của người dân tỉnh Bình Phước. Từ đó, kiến nghị các giải pháp phòng ngừa tình hình tội HDTE trên địa bàn tỉnh Bình Phước từ khía cạnh nhân thân người phạm tội. Đây chính là hướng nghiên cứu của luận văn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài hướng đến mục đích nghiên cứu là làm rõ thực trạng nhân thân người phạm tội HDTE trên địa bàn tỉnh Bình Phước, phân tích làm rõ các yếu tố tác động đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân người phạm tội HDTE trên địa bàn tỉnh Bình Phước; từ đó luận văn cũng sẽ đề xuất một số giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm HDTE từ góc độ nhân thân người phạm tội trên địa bàn tỉnh Bình Phước. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài cần giải quyết các nhiệm vụ cơ bản sau: - Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lí luận về nhân thân người phạm tội HDTE; 6
  13. - Phân tích làm rõ thực tiễn nhân thân người phạm tội HDTE và các yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội HDTE trên địa bàn tỉnh Bình Phước giai đoạn 2011 – 2015; - Đề xuất kiến nghị các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm HDTE từ góc độ nhân thân người phạm tội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nhân thân người phạm tội HDTE trên địa bàn tỉnh Bình Phước. Để nghiên cứu, tác giả dựa trên cơ sở các số liệu thống kê và nghiên cứu 55 bản án HSST của TAND tỉnh Bình Phước giai đoạn 2011 – 2015 được thu thập một cách ngẫu nhiên. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu nhân thân người phạm tội HDTE dưới góc độ tội phạm học và phòng ngừa tội phạm trên địa bàn tỉnh Bình Phước. - Phạm vi về thời gian: Từ năm 2011 đến năm 2015. - Phạm vi về tội danh: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu tội HDTE quy định tại Điều 112 thuộc chương XII của BLHS năm 1999. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội; các tri thức khoa học pháp lý của tội phạm học, pháp luật hình sự, khoa học điều tra hình sự; thực tiễn phòng, chống tội phạm HDTE trên địa bàn tỉnh Bình Phước. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của tội phạm học, cụ thể: 7
  14. - Phương pháp nghiên cứu tài liệu, bản án được sử dụng để làm rõ những vấn đề lý luận chung về nhân thân người phạm tội HDTE; - Phương pháp nghiên cứu thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, quy nạp, hệ thống, biểu đồ, diễn dịch, đối chiếu, suy luận, phương pháp lịch sử logic, phương pháp nghiên cứu, tổng hợp bản án được sử dụng để làm rõ các đặc điểm nhân thân người phạm tội HDTE và các yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội HDTE trên địa bàn tỉnh Bình Phước trong giai đoạn 2011 – 2015; - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm, được sử dụng để nhằm đưa ra kiến nghị việc hoàn thiện các giải pháp phòng ngừa tình hình tội HDTE từ góc độ nhân thân người phạm tội; Ngoài ra, tác giả cũng đã sử dụng phương pháp điều tra xã hội học nhằm khảo sát, tìm hiểu về quan điểm của người chưa thành niên với phương pháp giáo dục của gia đình và nhà trường; những yếu tố chủ quan thuộc về người phạm tội mà bản án của Tòa án không thể hiện. Kết quả 140 phiếu khảo sát được tác giả sử dụng trong nội dung của luận văn sẽ làm rõ thêm những yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội HDTE trên địa bàn tỉnh Bình Phước giai đoạn 2011 – 2015. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận về nhân thân người phạm tội, đặc biệt là nhân thân người phạm tội HDTE; lý luận về phòng ngừa tội phạm HDTEtừ góc độ nhân thân người phạm tội HDTE. - Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, sử dụng trong thực tiễn phòng, chống tội HDTE trên địa bàn tỉnh Bình Phước dưới góc độ nhân thân người phạm tội. Luận văn hoàn thành cũng là tài liệu tham khảo hữu ích sử dụng trong các cơ sở đào tạo luật. - Những điểm mới của đề tài: Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu nhân thân người phạm tội HDTE từ thực tiễn tỉnh Bình Phước giai đoạn 2011 – 2015, làm rõ các đặc điểm nhân thân người phạm tội HDTE và các yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội HDTE trên địa bàn tỉnh Bình 8
  15. Phước một cách có hệ thống, từ đó đưa ra một số giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chốngtội HDTE trên địa bàn tỉnh Bình Phước. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được kết cấu thành ba chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội HDTE. Chương 2: Thực tiễn nhân thân người phạm tội HDTE tại tỉnh Bình Phước giai đoạn 2011 – 2015. Chương 3: Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội HDTE từ góc độ nhân thân tại tỉnh Bình Phước trong thời gian tới. 9
  16. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM Trong chương này, tác giả sẽ tiếp cận từ lí luận chung của tội phạm học về nhân thân người phạm tội để làm sáng tỏ lí luận về nhân thân người phạm tội hiếp dâm trẻ em. 1.1. Khái niệm, ý nghĩa của nhân thân người phạm tội HDTE 1.1.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội HDTE Hành vi phạm tội luôn gắn liền với con người cụ thể. Tuy nhiên, “Con người trong khoa học luật Hình sự được nghiên cứu dưới vỏ bọc của thuật ngữ “chủ thể của tội phạm”. Còn con người trong Tội phạm học được nghiên cứu dưới vỏ bọc của thuật ngữ “nhân thân người phạm tội” [44, tr. 343]. Trong Tội phạm học, nghiên cứu về nhân thân người phạm tội tức là nghiên cứu về các đặc điểm củacon người phạm tội, một khách thể nghiên cứu quan trọng, để hướng đến mục đích sau cùng là phòng ngừa tội phạm.Con người mà Tội phạm học nghiên cứu là những người đã thực hiện hành vi phạm tội, tức là những người đã trở thành chủ thể của tội phạm theo quy địnhcủa pháp luật hình sự. Khái niệm nhân thân người phạm tội đã được rất nhiều các tài liệu, giáo trình, luận văn đề cập như: Nhân thân người phạm tội được hiểu là tổng hợp các đặc điểm, dấu hiệu, các đặc tính quan trọng thể hiện bản chất xã hội của con người khi vi phạm pháp luật hình sự, mà trong sự kết hợp với các điều kiện bên ngoài đã ảnh hưởng đến xử sự phạm tội của người đó.[24, tr. 15]. Nhân thân người phạm tội là tổng hợp các dấu hiệu, đặc tính quan trọng thể hiện bản chất xã hội của con người khi vi phạm pháp luật hình sự, mà trong sự kết hợp với các điều kiện bên ngoài đã ảnh hưởng đến xử sự phạm tội của người đó [41, tr. 11]. “Dưới góc độ Tội phạm học nhân thân người phạm tội là: tổng hợp các đặc tính, dấu hiệu thể hiện bản chất xã hội, tính cá biệt, không lặp lại của con người mà 10
  17. trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định và dưới sự tác động của chính những điều kiện, hoàn cảnh đó làm động cơ phạm tội nảy sinh” [33, tr. 7]. Nhân thân người phạm tội tức là người có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự quy định là tội phạm được hiểu là tổng thể tất cả các dấu hiệu, đặc điểm có ý nghĩa về mặt xã hội, trong sự kết hợp với các điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài ảnh hưởng đến hành vi phạm tội của người đó [61, tr. 130]. Như vậy, qua nghiên cứu tác giả đúc kết được: Trong Tội phạm học, nhân thân người phạm tội là tổng thể các yếu tố, các đặc điểm riêng biệt thể hiện bản chất xã hội của người vi phạm pháp luật hình sự trong sự kết hợp với điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài đã ảnh hưởng đến hành vi phạm tội của người đó. Luật pháp Việt Nam chưa có một định nghĩa pháp lý về HDTE, tuy nhiên ta có thể xác định được khái niệm “hiếp dâm” và khái niệm“trẻ em” thông qua các quy định của pháp luật hiện hành. Theo Điều 111 BLHS 1999, hành vi hiếp dâm được mô tả là “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái ý muốn của họ”. Tội HDTE tại Điều 112 BLHS, khoản 1 quy định: “người nào HDTE từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm”; tại khoản 4 quy định: “Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội HDTE”. Về khái niệm trẻ em, theo (Điều 1) Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em quy định: “Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”. BLHS năm 1999 xác định “Người chưa thành niên là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi”. Mặt khác, tại Điều 1 của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của nước ta quy định: “Trẻ em quy định trong Luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Qua phân tích trên ta có thể chia thành 02 trường hợp được pháp luật hình sự quy định là HDTE: một là, giao cấu trái ý muốn của nạn nhân người mà có độ tuổi 11
  18. từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi; hai là, mọi trường hợp giao cấu với người dưới 13 tuổi. Từ đó, HDTE có thể định nghĩa là hành vi giao cấu với người dưới 13 tuổi hoặc hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc thủ đoạn khác để giao cấu trái ý muốn với những người này. Từ lý luận trên, có thể đưa ra khái niệm nhân thân người phạm tội HDTE như sau: Nhân thân người phạm tội HDTE là tổng thể tất cả các dấu hiệu, đặc điểm có ý nghĩa về mặt xã hội của người phạm tội HDTE, trong sự kết hợp với điều kiện bên ngoài đã ảnh hưởng đến hành vi phạm tội HDTE của người đó. 1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội HDTE Ở mức độ khái quát nhất của Tội phạm học, không phải ngẫu nhiên mà nhân thân của người phạm tội trở thành khách thể nghiên cứu quan trọng. Nghiên cứu về nhân thân người phạm tội trong Tội phạm học có những ý nghĩa to lớn cho công cuộc phòng ngừa tội phạm trong xã hội. Trong phạm vi luận văn này, tác giả sẽ đề cập đến ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội HDTE như sau: Thứ nhất, nghiên cứu nhân thân người phạm tội HDTE góp phần bảo đảm cho việc định tội, định khung và quyết định hình phạt một cách chính xác, thuyết phục.Nhân thân người phạm tội HDTE là tổng thể những đặc điểm riêng biệt có ý nghĩa về mặt xã hội của người phạm tội này. Mặc dù không phải là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm nhưng trong quá trình xác định trách nhiệm hình sự,các cơ quan tiến hành tố tụng phải thu thập và nghiên cứu đầy đủ, chính xác những đặc điểm riêng biệt này của họ để giúp cho việc định tội, định khung và quyết định hình phạt đúng quy định pháp luật, không gây oan sai cũng như không bỏ lọt tội phạm. Trong nhiều trường hợp, các nhà làm luật đã quy định cụ thể các yếu tố về nhân thân của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong BLHS trở thành yếu tố loại trừ trách nhiệm hình sự, yếu tố miễn hình phạt hoặc yếu tố về nhân thân sẽ trở thành tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự cho đối tượng này. 12
  19. Tại Điều 45 BLHS 1999 quy định “Tòa án căn cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự” để làm căn cứ cho việc quyết định hình phạt. Khi quyết định hình phạt, Tòa án luôn cân nhắc về vấn đề nhân thân người phạm tội một cách toàn diện, xem xét cả mặt tốt cũng như mặt xấu về nhân thân người phạm tội, xem xét về độ tuổi, nghề nghiệp, trình độ học vấn và đặc biệt là khả năng cải tạo, giáo dục của người phạm tội để họ có đủ thời gian ăn năn, hối cãi về hành vi của mình, trở thành một người có ích cho xã hội. Ví dụ, chỉ với một yếu tố thuộc nhân thân là về độ tuổi, ta có thể thấy được yếu tố này ảnh hưởng đến việc xác định trách nhiệm hình sự như thế nào:Đối tượng A thực hiện hành vi giao cấu với bé X khi bé X chưa đủ 13 tuổi. Khi thực hiện hành vi giao cấu với bé X: Trường hợp A chưa đủ 14 tuổi thì theo quy định tại Điều 12 BLHS, A không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Trường hợp A từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười hai năm tù (Khoản 2 Điểu 74 BLHS). Trường hợp A từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì mức hình phạt cao nhất không quá mười tám năm tù (Khoản 1 Điểu 74 BLHS). Trường hợp A đã 80 tuổi thì khi này, yếu tố nhân thân về tuổi của A lại trở thành tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với A theo quy định tại điểm m khoản 1 Điều 46 BLHS, ngoài ra A sẽ không bị áp dụng hình phạt đặc biệt và nghiêm khắc nhất của BLHSlà tử hình (điểm b khoản 2 Điều 40 BLHS 2015). Thứ hai, nghiên cứu nhân thân người phạm tội HDTE tạo cơ sở cho việc xác định nguyên nhân và điều kiện của tình hình loại tội phạm. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm là hai yếu tố khác nhau trong cùng một hệ thống làm phát sinh tội phạm. “Nguyên nhân sinh ra hậu quả, còn điều kiện không thể sinh ra hậu quả mà tạo điều kiện, bảo đảm cho hậu quả xảy ra” [61, tr. 84]. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm tác động lẫn nhau tạo thành các phẩm chất tâm lý tiêu cực của con người, đây là yếu tố có vai trò đặc biệt quan trọng trong cơ chế của hành vi phạm tội. Con người khi sinh ra không mang sẵn trong mình những nhân 13
  20. cách sai lệch mà qua quá trình tác động lâu dài của môi trường sống đến nhận thức của từng con người hình thành nên. Qua thời gian, nhân cách sai lệch gặp điều kiện, hoàn cảnh tiêu cực trong môi trường sống sẽ làm phát sinh tội phạm. Như vậy, môi trường tiêu cực tác động lên con người, làm hình thành ở con người đó nhân cách sai lệch và trở thành đặc điểm nhân thân xấu. Việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội HDTE sẽ cho thấy được nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm này. Thứ ba,nghiên cứu nhân thân người phạm tội HDTE có ý nghĩa lớn trong việc dự báo tình hình tội HDTE và phòng ngừa loại tội phạm. Qua nghiên cứu nhân thân người phạm tội HDTE trên địa bàn tỉnh, ta nhận thức được các yếu tố nhân thân đặc trưng, mang tính chất quyết định, ảnh hưởng đến việc phạm tội của các đối tượng, nhận thức được căn nguyên dẫn đến việc hình thành các yếu tố nhân thân này, kết hợp với xu hướng phát triển kinh tế, xã hội của địa bàn, từ đó đưa ra dự báo về tình hình loại tội phạm trong thời gian tới. Trên cơ sở dự báo đó, đề xuất những biện pháp phòng ngừa tội HDTEcó độ chính xác cao và kịp thời, khắc phục hoặc hạn chế những điều kiện có thể dẫn đến việc phát sinh tội HDTE, biến chuyển những người có dấu hiệu của nhân cách lệch lạc trở thành những người có ích cho xã hội. Thứ tư,nghiên cứu nhân thân người phạm tội HDTE có ý nghĩa trong việc xây dựng các biện pháp giáo dục, cải tạo người phạm tội HDTE một cách có hiệu quả, góp phần ngăn ngừa các hành vi tái phạm tội. Giáo dục, cải tạo người phạm tội là một việc làm rất nhân văn và đòi hỏi phương thức thực hiện chặt chẽ, khoa học. Mỗi cá thể phạm tội có những đặc điểm cá biệt, cần phải có những biện pháp giáo dục, cải tạo phù hợp. Hiểu rõ về nhân thân người phạm tội HDTE tạo cơ sở cho việc áp dụng các biện pháp giáo dục, cải tạo người phạm tội này trở nên hiệu quả, giúp cho việc hòa nhập cộng đồng của họ trở nên có ích cho xã hội và cho chính bản thân của người phạm tội. 1.2. Đặc điểm nhân thân người phạm tội HDTE Như đã trình bày, nhân thân người phạm tội là tổng thể các yếu tố, các đặc điểm riêng biệt thể hiện bản chất xã hội của người vi phạm pháp luật hình sự. Trong 14
  21. đó, có những đặc điểm sẽ thay đổi theo thời gian (chiều cao, sức khỏe, sở thích, học vấn, ) và có những đặc điểm ít thay đổi (tôn giáo, dân tộc, giới tính, ). Các đặc điểm này được chia thành 04 nhóm: - Nhóm đặc điểm nhân chủng học – xã hội; - Nhóm đặc điểm đạo đức – tâm lý; - Nhóm đặc điểm mang dấu hiệu xã hội; - Nhóm đặc điểm liên quan đến mối quan hệ giữa nạn nhân và người phạm tội. 1.2.1. Nhóm đặc điểm nhân chủng học Nhóm đặc điểm nhân chủng học bao gồm các đặc điểm về: giới tính, độ tuổi, sức khỏe, 1.2.1.1. Đặc điểm về độ tuổi Suy nghĩ, cách ứng xử, hiểu biết, kinh nghiệm sống, mục tiêu sống, của con người thay đổi theo thời gian. Tội phạm cũng thế, ở mỗi độ tuổi khác nhau, người phạm tội HDTE cũng có những khác biệt nhất định về nhận thức hành vi phạm tội, cách tiếp cận nạn nhân, cách thức thực hiện hành vi phạm tội, cách dụ dỗ nạn nhân sau khi việc phạm tội đã hoàn thành, Nghiên cứu nhân thân người phạm tội HDTEtừ khía cạnh về độ tuổi có thể giúp chúng ta nhìn nhận đúng đắn về tính chất, mức độ, đặc điểm của từng tội phạm. Việc nghiên cứu này có nhiều ý nghĩa đối với quá trình xác định trách nhiệm hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng và đối với quá trình cải tạo các phạm nhân. Ở đặc điểm này, tác giả chia độ tuổi của những người phạm tội HDTE theo 03 nhóm: - Nhóm dưới 18 tuổi; - Nhóm từ 18 đến 30 tuổi; - Nhóm từ 30 tuổi trở lên. Mỗi nhóm tuổi của người phạm tội HDTE nêu trên có trình độ nhận thức về thế giới khách quan, hiểu biết về pháp luật, khả năng kiểm soát hành vi của bản thân, cách thức phạm tội có nhiều điểm khác biệt. Từ đây, các cơ quan tiến hành tố 15