Luận văn Nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_nhan_than_nguoi_pham_toi_cuop_tai_san_tren_dia_ban.pdf
Nội dung text: Luận văn Nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ ĐÌNH TOÀN NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI CƯỚP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - NĂM 2017
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ ĐÌNH TOÀN NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI CƯỚP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm Mã số: 60.38.01.05 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Cao Thị Oanh HÀ NỘI - NĂM 2017
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả đề cập trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng và chính xác. Tác giả luận văn Lê Đình Toàn
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI CƯỚP TÀI SẢN 7 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội cướp tài sản 7 1.2. Các đặc điểm của nhân thân người phạm tội cướp tài sản 13 1.3. Những yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội cướp tài sản 18 Chương 2: THỰC TRẠNG NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI CƯỚP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 29 2.1. Khái quát tình hình tội phạm cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh 29 2.2. Đặc điểm nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh 32 2.3. Nguyên nhân hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh 39 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM CƯỚP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TỪ KHÍA CẠNH NHÂN THÂN 57 3.1. Dự báo đặc điểm nhân thân tội cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh 57 3.2. Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tội phạm cướp tài sản từ khía cạnh nhân thân 61 3.3. Những kiến nghị, đề xuất 72 KẾT LUẬN 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 77
- DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ANTT: An ninh trật tự BLHS: Bộ luật hình sự CAND: Công an nhân dân CQĐT: Cơ quan điều tra HKTT: Hộ khẩu thường trú TAND: Tòa án nhân dân TTXH: Trật tự xã hội TTHS: Tố tụng hình sự UBND: Ủy ban nhân dân VKSND: Viện kiểm sát nhân dân XHCN: Xã hội chủ nghĩa
- DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Trang Bảng 2.1 Thống kê số vụ án, số bị can; số vụ án cướp tài sản và số bị can phạm tội cướp tài sản trên địa bàn TPHCM từ năm 2011 đến năm 2015 31 Bảng 2.2 Kết quả điều tra khám phá các vụ án cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh 31 Bảng 2.3 Cơ cấu của tình hình tội cướp tài sản từ năm 2011 đến năm 2015 xét theo độ tuổi của người phạm tội 32 Bảng 2.4 Cơ cấu của tình hình tội cướp tài sản từ năm 2011 đến năm 2015 xét theo giới tính của người phạm tội 33 Bảng 2.5 Cơ cấu của tình hình tội cướp tài sản từ năm 2011 đến năm 2015 xét theo trình độ học vấn của người phạm tội 34 Bảng 2.6 Thống kê người nghiện ma túy ở thành phố Hồ Chí Minh thời điểm tháng 03 năm 2016 37 Bảng 2.7 Cơ cấu của tình hình tội cướp tài sản từ năm 2011 đến năm 2015 xét theo nghề nghiệp, phạm tội lần đầu, tái 38 phạm hay tái phạm nguy hiểm của người phạm tội
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thành phố Hồ Chí Minh là nơi hoạt động kinh tế năng động nhất, đi đầu trong cả nước về tốc độ tăng trưởng kinh tế. Năm 2015 tốc độ tăng GDP của thành phố là tăng lên 9,8% (GPD chung của cả nước năm 2015 là 6,68%). Phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao đã tạo ra mức đóng góp GDP lớn nhất cho cả nước. Tỷ trọng GDP của thành phố chiếm 1/3 GDP của cả nước. Có thể nói thành phố là hạt nhân trong vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam và trung tâm đối với vùng Nam Bộ. Với mức đóng góp GDP là cao nhất đồng thời là địa phương chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng thu ngân sách của nhà nước (khoảng 1/3 số thu ngân sách của cả nước). Bên cạnh đó Thành phố là nơi thu hút vốn đầu tư nước ngoài mạnh nhất cả nước. Số dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào thành phố hàng năm đều tăng khá. Tuy nhiên, bên cạnh nền kinh tế ngày càng phát triển thì mặt trái của nó đã có những tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế xã hội, làm nảy sinh lối sống thực dụng. Một số người có tâm lý muốn kiếm tiền bằng bất cứ giá nào đã bất chấp mọi chuẩn mực đạo đức, pháp luật đã sa vào các hoạt động phạm tội. Một bộ phận thanh niên lười lao động, tu dưỡng đã sa vào nghiện ngập, để thỏa mãn cơn nghiện chúng sẵn sàng làm bất cứ điều gì, kể cả phạm những tội đặc biệt nghiêm trọng. Trong những năm gần đây dân cư Thành phố Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục gia tăng (trong đó tăng dân số cơ học tăng gấp đôi so với tăng dân số tự nhiên), số người tạm trú, làm ăn theo thời vụ trên địa bàn vẫn còn nhiều. Việc tạm trú trên nhiều địa bàn rất phức tạp khiến chính quyền sở tại không quản lý hết được, làm cho công tác quản lý xã hội vốn đã phức tạp lại càng phức tạp hơn.Tình hình tội phạm về trật tự xã hội (TTXH) nói chung và tội cướp tài sản nói riêng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đang diễn ra hết sức phức tạp, với tính chất ngày càng nghiêm trọng, phương thức thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua không những xâm phạm đến quyền sở hữu mà còn xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ của con người mà còn gây ra nhiều hệ lụy khác làm cho gia đình và người thân của nạn nhân 1
- phải gánh chịu những mất mát to lớn cả về vật chất lẫn tinh thần, làm cho quần chúng nhân dân hoang mang lo lắng về sự bình yên của cuộc sống, làm ảnh hưởng đến môi trường đầu tư – kinh doanh của thành phố, làm xấu đi hình ảnh về một thành phố năng động, phát triển và an toàn trong mắt bạn bè quốc tế. Qua khảo sát từ năm 2011 đến 2015, lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Thành phố Hồ Chí Minh đã phát hiện 1.632 vụ cướp tài sản chiếm 5,6% so với tổng số vụ phạm pháp hình sự trên địa bàn (29.008 vụ); điều tra, xử lý 983 vụ, chiếm tỷ lệ 60,2%, bắt giữ 1.706 đối tượng. Đặc biệt thời gian gần đây, tội phạm cướp tài sản hoạt động có chiều hướng giảm dần về số vụ pháp pháp hình sự nhưng thủ đoạn phạm tội lại rất manh động, táo bạo, liều lĩnh. Có những thời điểm chúng ngang nhiên hoạt động gây án tại các cây rút tiền (ATM) hoặc phục kích trước các ngân hàng đợi người dân vào giao dịch lợi dụng sự lỏng lẻo trong quản lý tài sản liền chạy đến cướp tài sản rồi bỏ chạy, khi bị truy đuổi hoặc bị chống trả sẵn sàng dùng các loại hung khí để gây án nhằm tẩu thoát gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Trong phòng ngừa tình hình tội phạm cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, thì một vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng đó là phải nghiên cứu làm rõ về nhân thân người phạm tội cướp tài sản. Nhân thân người phạm tội có vai trò quan trọng trong cơ chế hành vi phạm tội, nắm rõ được nhân thân người phạm tội giúp cơ quan chức năng trong việc định tội, định khung và quyết định hình phạt được chính xác, hợp lý. Đồng thời việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội cướp tài sản còn góp phần xác định được đầy đủ, chính xác những nguyên nhân của tình hình tội phạm, trên cơ sở đó giúp cho việc đề ra các giải pháp phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh một cách hiệu quả, có khoa học. Ngoài ra, nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội còn có ý nghĩa to lớn trong việc phòng ngừa tình trạng tái phạm và giáo dục, cải tạo người phạm tội cướp tài sản nhận ra những sai lầm, sớm tiến bộ để trở lại với xã hội. Xuất phát từ những lý do trên, học viên chọn vấn đề: “Nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2
- 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Vấn đề nhân thân người phạm tội là một vấn đề đã được rất nhiều các công trình nghiên cứu, các sách báo, tạp chí nước ngoài đề cập tới. Mặc dù vậy, ở trong nước vấn đề nhân thân người phạm tội vẫn còn ít được quan tâm. Tuy nhiên, một tín hiệu rất đáng mừng là trong thời gian gần đây một số tác giả đã đi sâu nghiên cứu vấn đề này góp phần ngày càng hoàn thiện lý luận về nhân thân người phạm tội nói riêng, lý luận về tội phạm học nói chung từ đó phục vụ có hiệu quả hơn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay. Có thể chia các công trình nghiên cứu thành hai nhóm sau đây: *Nhóm các công trình nghiên cứu nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội - Giáo trình tội phạm học của GS. TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Đại học Huế - Trung tâm đào tạo từ xa, năm 2011. - Giáo trình tội phạm học của tập thể tác giả, Đại học Luật Hà Nội năm 2012; tái bản năm 2013, 2015. - Tội phạm học Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn của tập thể tác giả, Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, năm 2000. - Nhân thân người phạm tội trong tội phạm học, luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị Thanh Thủy, Đại học Luật Hà Nội, năm 1996. - Nhân thân người phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ luật học của Nguyễn Thị Thanh Thủy, Đại học Luật Hà Nội, năm 2005. - Bài viết: “Nhân thân người phạm tội: Một số vấn đề lý luận cơ bản” của tác giả Lê Cảm, Tạp chí Tòa án, số 10/2001 và số 11/2001. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên mới chỉ tập trung làm rõ những vấn đề lý luận chung về nhân thân người phạm tội như: Khái niệm nhân thân người phạm tội, phân biệt khái niệm nhân thân người phạm tội với một số khái niệm có liên quan, ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội, các đặc điểm của nhân thân người phạm tội tác giả sẽ tiếp thu và kế thừa những quan điểm khoa học trên làm nền tảng, căn cứ, cơ sở lý luận trong luận văn của mình. 3
- * Nhóm các công trình có liên quan trực tiếp đến đề tài nghiên cứu Ngoài các công trình nghiên cứu nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội nêu trên, có một số công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu của đề tài, như: - Đấu tranh phòng, chống tội cướp tài sản trên địa bàn Hà Nội, Luận án Tiến sĩ Luật học của Đỗ Kim Tuyến, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2001. - Đấu tranh phòng, chống tội cướp tài sản tại thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ luật học của Lê Văn Thúc, Trường Đại học Luật TP.HCM, năm 2008. - Nhân thân người phạm tội trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ Luật học của Phạm Uyên Thy, Học viện KHXH, năm 2015. - Bài viết:“Vấn đề nhân thân người phạm tội trong thực tiễn quyết định hình phạt” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thủy, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 19/2005. - Bài viết:“Một số đặc điểm chú ý về nhân thân người phạm tội về ma túy ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Tuyết Mai, Tạp chí Luật học, số 11/2006. - Bài viết:“Một số vấn đề về nhân thân người phạm tội” của tác giả Nguyễn Quang Hạnh, Tạp chí Nghề luật, số 1/2013. Các công trình nghiên cứu nêu trên nhìn chung đã làm rõ vai trò của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt trong thực tiễn quyết định loại trừ hoặc miễn trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy, việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh là một đề tài mang tính cấp bách và có ý nghĩa cả về lý luận lẫn thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về nhân thân người phạm tội, đi sâu vào nghiên cứu các đặc điểm của nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2011 đến năm 2015; nghiên cứu phân tích, làm rõ những nguyên nhân tạo ra các đặc điển nhân 4
- thân tiêu cực của người phạm tội cướp tài sản; đưa ra hệ thống giải pháp, kiến nghị có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tội cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn cần giải quyết tốt một số nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu lý luận chung về nhân người phạm tội cướp tài sản và làm rõ đặc điểm, nguyên nhân hình thành những đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. - Dự báo tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới. - Đề xuất các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh từ góc độ nhân thân. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu làm rõ đặc điểm nhân thân người phạm tội cướp tài sản; tìm ra các nguyên nhân hình thành các đặc điểm tiêu cực của người phạm tội cướp tài sản, trên cơ sở đó đưa ra các dự báo và đề xuất các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh từ góc độ nhân thân. - Phạm vi về địa bàn và thời gian: Địa bàn nghiên cứu được giới hạn trong phạm vi Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2011 đến năm 2015. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác-Lênin về phép duy vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, chính sách Pháp luật của Nhà nước về phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tội phạm cướp tài sản nói riêng. 5
- 5.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Sử dụng để nghiên cứu các công trình khoa học có liên quan, các văn bản pháp lý, các báo cáo sơ kết, tổng kết. - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Sử dụng để nghiên cứu tổng kết đánh giá những kết quả, tài liệu thu thập được từ thực tiễn hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua. - Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh số liệu: Sử dụng để điều tra, khảo sát thực tế và thống kê, đánh giá thực trạng, diễn biến, cơ cấu của tình hình tội phạm cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2011 đến năm 2015. - Phương pháp điều tra xã hội học: Sử dụng phiếu hỏi để khảo sát, đánh giá về những đặc điểm của nhân thân người phạm tội cướp tài sản. 6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận về nhân thân người phạm tội nói chung và lý luận về nhân thân người phạm tội cướp tài sản nói riêng. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan chức năng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện các biện pháp phòng ngừa hiệu quả tội cướp tài sản trong thời gian tới. Ngoài ra, luận văn còn là tài liệu tham khảo cho các giảng viên, học viên, các nhà nghiên cứu khi nghiên cứu đến những vấn đề có liên quan. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 03 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội cướp tài sản Chương 2: Nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh Chương 3: Các biện pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh dưới góc độ nhân thân 6
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI CƯỚP TÀI SẢN 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội cướp tài sản 1.1.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội Hiện nay, có nhiều ngành khoa học pháp lý khác nhau định nghĩa về nhân thân người phạm tội như Luật hình sự, Luật Tố tụng hình sự, Tội phạm học, Xã hội học Mỗi ngành sẽ có cách nghiên cứu, tiếp cận ở mỗi khía cạnh khác nhau và có những ý nghĩa khác nhau. Nhân thân người phạm tội dưới góc độ của khoa học Luật hình sự Việt Nam được hiểu là tổng hợp những đặc điểm riêng biệt của người phạm tội (về các mặt tâm sinh lý xã hội, về nhân chủng học, dân tộc học), những đặc điểm có giá trị nhất định, cần thiết cho việc thực hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta, đặc biệt là cho việc giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội [12, tr. 346]. Trong tội phạm học nghiên cứu nhân thân người phạm tội là tổng hòa các yếu tố, các đặc điểm riêng biệt của người phạm tội ở địa bàn hành chính - lãnh thổ nhất định trong một khoảng thời gian nhất định về các mặt tâm – sinh lý - xã hội, nhân khẩu, nhân chủng học, dân tộc học và pháp lý, những cái có ý nghĩa, có giá trị thiết thực cho việc xác định nguyên nhân, điều kiện của tội phạm để có giải pháp phòng ngừa tội phạm phù hợp [12, tr. 348]. Khi nghiên cứu nhân thân người phạm tội của một con người nhất định là nghiên cứu đến các đặc điểm, các dấu hiệu cá nhân của con người thực hiện hành vi phạm tội, mà dấu hiệu đặc trưng nhất để phân biệt với nhân thân con người nói chung thể hiện ở hành vi thực hiện tội phạm, nghĩa là con người đó đã trở thành chủ thể của tội phạm theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam. Đây chính là cơ sở pháp lý vô cùng quan trọng cho việc xác định khái niệm nhân thân người phạm tội. Nghiên cứu nhân thân người phạm tội tạo cơ sở cho việc xác định nguyên nhân và điều kiện của tội phạm, đặc biệt là nhóm nguyên nhân và điều kiện từ phía người 7
- phạm tội, có ý nghĩa trong việc quyết định trách nhiệm hình sự phù hợp. Ngoài ra, tạo cơ sở cho việc xây dựng các biện pháp giáo dục cải tạo người phạm tội phù hợp từ đó xây dựng các biện pháp dự báo và phòng ngừa tội phạm trong xã hội. Nhân thân người phạm tội dù nghiên cứu ở góc độ nào đi chăng nữa thì cũng phải nghiên cứu dựa trên cơ sở của mọi đặc tính xã hội quan trọng và mọi biểu hiện nhân thân. Do đó nghiên cứu nhân thân người phạm tội phải đặt trong mối tương quan với các đặc điểm và các dấu hiệu xã hội. Từ đó mới cho chúng ta sự nhận thức đầy đủ và chính xác về người phạm tội và cách xử sự của người phạm tội, nguyên nhân và động cơ phạm tội để từ đó tăng cường phòng ngừa tội phạm có hiệu quả. Như vậy, nhân thân người phạm tội là tổng hợp các dấu hiệu, đặc tính quan trọng thể hiện bản chất xã hội của con người khi vi phạm pháp luật hình sự mà trong sự kết hợp với các điều kiện bên ngoài đã ảnh hưởng đến xử sự của người đó [27, tr. 19]. Nhân thân người phạm tội tức là người có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được Bộ luật hình sự quy định là tội phạm, được hiểu là tổng thể tất cả các dấu hiệu, đặc điểm có ý nghĩa về mặt xã hội, trong sự kết hợp với các điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài ảnh hưởng đến hành vi phạm tội của người đó [47, tr. 130]. Khi xem xét từ góc độ tội phạm học, đặc điểm về nhân thân người phạm tội bao gồm: độ tuổi, nghề nghiệp, giới tính, trình độ học vấn, lịch sử bản thân, hoàn cảnh gia đình, tiền án, tiền sự có ảnh hưởng đến hành vi phạm tội vốn được hiểu là một quá trình diễn ra theo thời gian và không gian hàm chứa những hành động khách quan bên ngoài tạo nên cấu thành tội phạm và các hiện tượng, các quá trình tâm lý xảy ra trước đó, quy định việc thực hiện tội phạm. 1.1.2. Khái niệm nhân thân người phạm tội cướp tài sản Tội cướp tài sản được quy định tại Điều 133 BLHS năm 1999 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2009). Đây là tội được quy định đầu tiên trong chương XIV (Các tội xâm phạm sở hữu) của BLHS. Vị trí này nói lên tính chất và mức độ nguy hiểm cao nhất của nó trong số các tội xâm phạm sở hữu. Để có nhận thức sâu sắc tình hình tội cướp tài sản, cần tìm hiểu các yếu tố cấu thành của tội này, cụ thể: Một là: Khách thể của tội cướp tài sản 8
- Tội cướp tài sản xâm phạm đồng thời hai quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Đó là quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu. Hai là: Mặt khách quan của tội cướp tài sản Hành vi khách quan của tội cướp tài sản thể hiện ở hành vi: dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản. Như vậy, hành vi khách quan của tội cướp tài sản là một trong các dạng hành vi sau đây: - Hành vi dùng vũ lực được hiểu là hành vi của người phạm tội dùng sức mạnh vật chất (có hoặc không có công cụ, phương tiện phạm tội) tấn công một người nào đó nhằm tước bỏ hoặc làm tê liệt sự phản kháng của họ để dễ dàng chiếm đoạt tài sản. - Đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc là trường hợp người phạm tội có lời nói hoặc việc làm để người bị tấn công hiểu rằng nếu không thỏa mãn yêu cầu của người phạm tội, chống cự lại việc chiếm đoạt tài sản thì người phạm tội sẽ sử dụng vũ lực ngay để xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của nạn nhân. - Hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản được hiểu là bất kỳ hành vi nào của người phạm tội đã được thực hiện làm cho chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ quản lý tài sản lâm vào tình trạng không thể chống cự được. Ba là: Chủ thể của tội cướp tài sản Chủ thể của tội cướp tài sản phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định. Khi thực hiện hành vi khách quan của tội cướp tài sản, người đó phải là người không mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Do tội cướp tài sản là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp nên người phạm tội cướp tài sản phải là người từ đủ 14 tuổi trở lên. Bốn là: Mặt chủ quan của tội cướp tài sản 9
- Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm, là trạng thái tâm lý của chủ thể khi thực hiện tội phạm. Mặt chủ quan của tội cướp tài sản gồm hai yếu tố: lỗi và mục đích phạm tội. Lỗi của người phạm tội cướp tài sản là lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức được hành vi cướp tài sản là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành vi đó. Người phạm tội cướp tài sản phải có mục đích chiếm đoạt tài sản. Việc thực hiện hành vi khách quan đã được trình bày ở trên, chỉ trở thành hành vi phạm tội cướp tài sản nếu việc thực hiện những hành vi đó nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản. Như vậy, nhân thân người phạm tội cướp tài sản là tổng hợp những đặc điểm, dấu hiệu thể hiện bản chất xã hội của người và các đặc điểm này kết hợp với các điều kiện, hoàn cảnh cụ thể dẫn đến người đó thực hiện hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản được quy định trong Bộ luật hình sự. 1.1.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội cướp tài sản Nghiên cứu nhân thân người phạm tội cướp tài sản nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm, đó là sự gia tăng về các phương thức thủ đoạn thực hiện tội phạm từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hạn chế tội phạm cướp tài sản. Một là: Nghiên cứu nhân thân người phạm tội cướp tài sản tạo cơ sở cho việc xác định nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cướp tài sản. Nguyên nhân của tình hình tội phạm nói chung là sự tác động qua lại giữa các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường sống và các yếu tố tiêu cực thuộc cá nhân con người trong những hoàn cảnh, tình huống nhất định. Nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm cướp tài sản được hiểu là mối quan hệ tương tác giữa những nhân tố chủ quan của con người (đặc điểm tâm, sinh lý, thói quen, tính cách ) với các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài làm phát sinh tội phạm cướp tài sản. 10
- Những yếu tố thuộc mặt chủ quan là những sai lệch về nhu cầu, nhất là cách thức để thỏa mãn nhu cầu sẽ là động cơ thúc đẩy việc thực hiện tội phạm. Yếu tố chủ quan cũng có thể là do ý thức pháp luật kém, không tôn trọng pháp luật, không thừa nhận giá trị xã hội đích thực của pháp luật, từ đó dẫn đến việc thực hiện tội phạm. Các nguyên nhân và điều kiện trong sự tác động lẫn nhau đã tham gia vào quá trình hình thành đặc điểm tâm lý, đạo đức của cá nhân, quyết định động cơ và sự quyết tâm thực hiện tội phạm. Con người không phải sinh ra để phạm tội, mà do những nguyên nhân, điều kiện khác nhau tác động dẫn đến con người trở thành người phạm tội cướp tài sản. Tất cả những điều đó được phản ánh trong nhân thân người phạm tội. Chính vì vậy, nghiên cứu nhân thân người phạm tội cướp tài sản sẽ cho thấy rõ những điều kiện, hoàn cảnh tiêu cực từ môi trường tác động thế nào đến sự hình thành nhân cách, đạo đức, đến quá trình động cơ hóa hành vi phạm tội, giúp cơ quan chức năng xác định được nguyên nhân làm phát sinh tội phạm cướp tài sản. Thứ hai: Nghiên cứu nhân thân người phạm tội cướp tài sản giúp cho việc định tội, định khung và quyết định hình phạt chính xác. Nhân thân của người phạm tội cướp tài sản là tổng hợp những đặc điểm riêng biệt của người phạm tội, có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn trách nhiệm hình sự của họ. Những đặc điểm đó là tuổi, nghề nghiệp, thái độ làm việc, thái độ trong quan hệ với người khác, trình độ văn hóa, lối sống, hoàn cảnh gia đình và đời sống kinh tế, thái độ chính trị, tôn giáo, dân tộc, tiền án, tiền sự Bộ luật TTHS quy định khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, bắt buộc CQĐT, VKSND, TAND phải chứng minh được những đặc điểm nhân thân bị can, bị cáo. Theo quy định của Bộ luật TTHS, các yếu tố về nhân thân của người phạm tội phải được các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập đầy đủ và phải được thể hiện trong hồ sơ vụ án như là một tài liệu chính thức. Trong một số vụ án cướp tài sản, các yếu tố về nhân thân người phạm tội đã được pháp luật quy định là yếu tố loại trừ trách nhiệm hình sự, yếu tố miễn hình phạt, yếu tố định tội, định khung hình phạt hoặc quy định là tình tiết tăng nặng hoặc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Người phạm tội từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng (khoản 2 Điều 12 11
- BLHS); không áp dụng hình phạt tử hình hoặc tù chung thân đối với người phạm tội chưa đủ 18 tuổi (khoản 5 Điều 69 BLHS); Khi xem xét nhân thân người phạm tội với ý nghĩa là một căn cứ để quyết định hình phạt, Toà án phải xem xét cả mặt tốt, mặt xấu, đồng thời phải đánh giá được khả năng phát triển nhân cách của họ, khả năng cải tạo cũng như các vấn đề ảnh hưởng đến quá trình cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội. Trong bản án phải phản ánh được nội dung các yếu tố về nhân thân của người phạm tội ngoài những trường hợp mà BLHS đã quy định mà Toà án làm căn cứ quyết định hình phạt. Các cơ quan điều tra, truy tố và xét xử muốn giải quyết được đúng đắn các vụ án cướp tài sản đều đòi hỏi phải nghiên cứu đầy đủ vấn đề nhân thân người phạm tội để làm sáng rõ một số tình tiết và các yếu tố cấu thành tội phạm cướp tài sản như lỗi, mục đích, động cơ của người phạm tội. Chính mối quan hệ giữa nhân thân người phạm tội với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi người phạm tội, nên Điều 45 của BLHS đã coi nhân thân người phạm tội là một trong những căn cứ quyết định hình phạt. Ngoài ra, Điều 46 và Điều 48 của BLHS cũng coi những tình tiết thuộc về nhân thân của người phạm tội là những tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự. Thứ ba: Nghiên cứu nhân thân người phạm tội cướp tài sản tạo cơ sở cho việc xây dựng biện pháp giáo dục, cải tạo người phạm tội. Trong giai đoạn thi hành án, các đặc điểm, dấu hiệu trong nhân thân người phạm tội là căn cứ xác định chế độ giam giữ, cải tạo giáo dục người phạm tội. Để có biện pháp cải tạo, giáo dục đúng đắn, có hiệu quả cao cần phải nắm bắt được các đặc điểm trong nhân thân người phạm tội, để tìm ra biện pháp cải tạo tốt nhất. Mục đích của hình phạt chính là giáo dục, cải tạo người phạm tội làm cho họ trở thành người tốt, không tái phạm. Để đạt được mục đích này, các biện pháp giáo dục cải tạo cần phải phù hợp với từng người phạm tội nhằm cải thiện dần các đặc điểm nhân thân xấu có vai trò quan trọng đối với việc phát sinh tội phạm. Nghiên cứu các đặc điểm nhân thân giúp cho việc phân loại người phạm tội theo các đặc điểm nhân thân, từ đó áp dụng các biện pháp giáo dục phù hợp nhằm loại bỏ các đặc điểm nhân thân xấu, hình thành các đặc điểm nhân thân tốt. 12
- Thứ tư: Nghiên cứu nhân thân người phạm tội cướp tài sản có ý nghĩa quan trọng trong dự báo và phòng ngừa tội phạm cướp tài sản. Nghiên cứu nhân thân người phạm tội cướp tài sản còn giúp chúng ta hiểu rõ mức độ phổ biến của các loại nhân thân người phạm tội cướp tài sản khác nhau, các đặc điểm nhân thân của nhiều tầng lớp dân cư khác nhau trong sự tác động qua lại với hệ thống các quan hệ xã hội phức tạp, từ đó có thể phân loại tội phạm, người phạm tội cướp tài sản theo từng nhóm, từng loại có những đặc điểm giống nhau và xác định nguyên nhân, điều kiện của từng nhóm, loại tội phạm và người phạm tội cướp tài sản, phục vụ cho việc áp dụng phương pháp phòng ngừa phù hợp nhằm làm giảm thiểu tình trạng phạm tội cướp tài sản trong xã hội. Nhiệm vụ của phòng ngừa là loại trừ các điều kiện thuận lợi cho việc phát sinh tội phạm, hạn chế các nhân tố tội phạm, hoặc nhân tố có ảnh hưởng đến sự hình thành các phẩm chất cá nhân tiêu cực của con người. Nghiên cứu làm rõ các đặc điểm trong nhân thân của mỗi người, như giới tính, tuổi, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, quan điểm đặc biệt là làm rõ các nguyên nhân dẫn đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân xấu, sai lệch của người phạm tội sẽ giúp cho việc đề ra các biện pháp phù hợp nhằm tác động loại bỏ dần các đặc điểm nhân thân xấu, góp phần hình thành các đặc điểm nhân thân tốt, qua đó làm biến chuyển người phạm tội thành người có ích cho xã hội. Tóm lại, nghiên cứu nhân thân người phạm tội cướp tài sản thực chất là nghiên cứu về những nguyên nhân hình thành đặc điểm tiêu cực và quá trình hình thành những đặc điểm ấy của người có hành vi cướp tài sản từ đó đưa ra các giải pháp, các kiến nghị nhằm hạn chế tiến tới đẩy lùi tình trạng cướp tài sản trong cuộc sống. 1.2. Các đặc điểm của nhân thân người phạm tội cướp tài sản Những đặc điểm nhân thân của người phạm tội được tội phạm học nghiên cứu là những đặc điểm mang tính đặc trưng, phổ biến điển hình và có vai trò quan trọng trong cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội. 13
- Khi nghiên cứu về nhân thân người phạm tội nói chung và nhân thân người phạm tội cướp tài sản nói riêng, đặc điểm nhân thân người phạm tội cướp tài sản chia thành một số nhóm sau: 1.2.1. Nhóm đặc điểm về mặt xã hội - nhân khẩu Nghiên cứu về nhóm các đặc điểm về mặt xã hội – nhân khẩu của nhân thân người phạm tội nghĩa là nghiên cứu các đặc trưng về giới tính độ tuổi, nghề nghiệp, trình độ học vấn, hoàn cảnh gia đình, về nơi cư trú của người phạm tội. Thứ nhất, về giới tính: Giới tính có ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện hành vi phạm tội, đặc biệt ở một số loại tội phạm đặc thù. Đối với tội phạm cướp tài sản chủ thể thực hiện tội phạm chiếm tỷ trọng ở Việt Nam và ở các nước trên thế giới, đều cho thấy tỷ lệ nữ giới phạm tội cướp tài sản thấp hơn nhiều so với nam giới. Điều này có thể lý giải: Nam giới có đặc điểm tâm sinh lý là dễ bị tác động, ảnh hưởng của môi trường và điều kiện sống, dễ bị tiêm nhiễm những thói hư tật xấu, liều lĩnh hơn so với nữ giới. Mặt khác, nam giới có sức khoẻ hơn nữ giới nên mới có điều kiện, khả năng để thực hiện các tội phạm có sử dụng bạo lực nói chung, tội cướp tài sản nói riêng. Tuy nhiên vẫn có một số ít bị cáo phạm tội cướp tài sản là nữ giới với. Chủ yếu họ tham gia cùng với các đối tượng là nam giới thực hiện các vụ cướp tài sản [25, tr. 108]. Xác định được ảnh hưởng của giới tính trong cơ chế hành vi phạm tội cướp tài sản sẽ có nhiều ý nghĩa trong đấu tranh phòng, chống tình hình tội phạm cướp tài sản trong thời gian tới. Thứ hai, về độ tuổi: Độ tuổi có ảnh hưởng đáng kể đến việc thực hiện hành vi phạm tội bởi vì nó liên quan đến nhận thức và lý trí của con người. Trong tội phạm học, độ tuổi của con người thường được chia thành 04 nhóm như sau: Khi nghiên cứu về nhân thân người phạm tội cướp tài sản cho thấy các đối tượng phạm tội cướp tài sản trong độ tuổi từ 18 tuổi đến 30 tuổi chiếm đa số (hơn 50%). Vậy tại sao những người phạm tội cướp tài sản lại chủ yếu ở vào độ tuổi nói trên? Điều này có thể lý giải như sau: Thứ nhất, những người ở vào độ tuổi này có thể lực mạnh khỏe nên có điều kiện để thực hiện các tội phạm có sử dụng bạo lực nói chung, tội cướp tài sản nói riêng. Thứ hai, những người ở vào độ tuổi này phải lo kiếm 14