Luận văn Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

pdf 100 trang vuhoa 25/08/2022 7600
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_nhan_than_nguoi_pham_toi_cuop_giat_tai_san_tren_dia.pdf

Nội dung text: Luận văn Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ NGÔ PHƯƠNG THANH NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ NGÔ PHƯƠNG THANH NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm Mã số : 60.38.01.05 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. TRẦN HỮU TRÁNG HÀ NỘI - 2017
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN 9 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản 9 1.2. Các đặc điểm của nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản 13 1.3. Những yếu tố tác động đến quá trình hình thành nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản 21 Chương 2: NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 2011 - 2015 30 2.1. Khái quát tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. 30 2.2. Cơ cấu người phạm tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh theo các đặc điểm nhân thân 32 2.3. Khái quát những đặc điểm nhân thân đặc trưng của người phạm tội cướp giật tài sản ở thành phố Hồ Chí Minh 35 2.4. Những yếu tố tác động thực tế đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh 36 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TỪ GÓC ĐỘ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 58 3.1. Dự báo biến động môi trường sống và ảnh hưởng của nó đến nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản 58 3.2. Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nhìn từ góc độ nhân thân 63 3.3. Tổ chức phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh 76 KẾT LUẬN 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81 PHỤ LỤC
  4. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ANTT : An ninh trật tự BLHS : Bộ luật hình sự CATP : Công an thành phố CGTS : Cướp giật tài sản CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng CSCĐ : Cảnh sát cơ động CSGT : Cảnh sát giao thông CSHSĐN : Cảnh sát hình sự đặc nhiệm HSST : Hình sự sơ thẩm KCN : Khu công nghiệp TAND : Tòa án nhân dân TPHCM : Thành phố Hồ Chí Minh TTATXH : Trật tự an toàn xã hội TTKS : Tuần tra kiểm soát UBND : Ủy ban nhân dân VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
  5. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Bảng thống kê tình hình tội CGTS trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh (giai đoạn 2011-2015). Bảng 2.2: Bảng thống kê cơ số tội phạm nói chung và tội CGTS trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh (giai đoạn 2011-2015). Bảng 2.3: Biểu đồ diễn biến tình hình tội CGTS trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh (giai đoạn 2011 – 2015). Bảng 2.4: Thống kê số lượng tội phạm nói chung và tình hình tội CGTS trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh (giai đoạn 2011 – 2015). Bảng 2.5: Cơ cấu của tình hình tội CGTS trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh theo độ tuổi và giới tính (Tổng hợp từ 100 bản án với 167 bị cáo). Bảng 2.6: Một số đặc điểm cơ bản của nhân thân người phạm tội CGTS trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh (Tổng hợp từ 100 bản án với 167 bị cáo). Bảng 2.7: Đặc điểm hoàn cảnh gia đình của người phạm tội CGTS (Tổng hợp từ 100 bản án với 167 bị cáo). Bảng 2.8: Cơ cấu của tình hình tội CGTS theo phương tiện thực hiện tội phạm (Tổng hợp từ 100 bản án với 167 bị cáo).
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thành phố Hồ Chí Minh (hiện nay vẫn được gọi phổ biến với tên cũ là Sài Gòn) là thành phố lớn nhất Việt Nam xét về quy mô dân số và mức độ đô thị hóa, đồng thời cũng là đầu tàu kinh tế và là một trong những trung tâm văn hóa, giáo dục quan trọng nhất của nước Việt Nam. Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ, Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay bao gồm 19 quận và 5 huyện, với tổng diện tích 2.095,06 km². Theo kết quả điều tra dân số chính thức vào thời điểm ngày 01 tháng 4 năm 2009 thì dân số thành phố là 7.162.864 người (chiếm 8,34% dân số Việt Nam), mật độ trung bình 3.419 người/km². Đến năm 2011 dân số thành phố tăng lên 7.521.138 người. Theo thống kê của Tổng cục Thống kê năm 2014 thì dân số thành phố Hồ Chí Minh là 7.981.900 người. Tuy nhiên nếu tính cả những người cư trú không đăng ký thì dân số thực tế của thành phố vượt trên 10 triệu người. Giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, thành phố Hồ Chí Minh chiếm 21,3% tổng sản phẩm (GDP) và 29,38% tổng thu ngân sách của cả nước. Nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi, thành phố Hồ Chí Minh trở thành một đầu mối giao thông quan trọng của Việt Nam và Đông Nam Á, bao gồm cả đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường không. Vào năm 2015, thành phố đón khoảng 4,7 triệu lượt khách du lịch quốc tế, tức 70% lượng khách vào Việt Nam. Các lĩnh vực giáo dục, truyền thông, thể thao, giải trí, thành phố Hồ Chí Minh đều giữ vai trò quan trọng bậc nhất. Tuy vậy, thành phố Hồ Chí Minh đang phải đối diện với những vấn đề của một đô thị lớn có dân số tăng quá nhanh. Trong nội thành thành phố, hệ thống đường giao thông trở nên quá tải, thường xuyên ùn tắc. Hệ thống phương tiện giao thông công cộng hoạt động kém hiệu quả. Bên cạnh đó, môi trường thành phố cũng đang bị ô nhiễm do phương tiện giao thông, các công trường xây dựng, các khu đô thị mới ngày càng gia tăng với các chung cư cao tầng đang xây dựng ồ ạt. Bên cạnh đó là những mặt trái của nền kinh tế thị trường, như tỉ lệ dân nhập cư ngày càng lớn, cư trú trái phép gia tăng và diễn biến ngày càng phức tạp; bộ phận nhân dân có đời 1
  7. sống kinh tế khó khăn, không việc làm hay việc làm không ổn định đang gia tăng; sự phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ nét; sự xâm nhập các sản phẩm văn hóa độc hại, lối sống thực dụng, các tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng gây khó khăn trong công tác quản lý con người và quản lý xã hội. Tất cả những yếu tố tiêu cực đó đã và đang làm cho tình hình tội phạm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh có diễn biến hết sức phức tạp, nhất là các tội xâm phạm sở hữu như cướp, cướp giật, trộm cắp tài sản, các tội phạm về ma túy, giết người, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chứa chấp, tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu tội phạm trên địa bàn thành phố. Riêng tội cướp giật tài sản xảy ra trên tất cả các địa bàn trong thành phố và đang ngày càng gia tăng, với tính chất và mức độ ngày càng nguy hiểm, phương thức thủ đoạn ngày càng tinh vi, hậu quả mà tội phạm gây ra cho xã hội ngày càng lớn. Đặc biệt, vấn nạn trộm cắp, cướp giật vẫn đang là nỗi ám ảnh và lo lắng của người dân và du khách mỗi khi ra đường. Các vụ việc xảy ra cho thấy, những người phạm tội cướp giật ngày càng táo tợn, không chỉ một hay hai người chạy xe rồi chọn thời cơ ra tay mà còn tổ chức dàn cảnh để cướp giật. Điều đáng nói, số người phạm tội này phần lớn nằm trong số thanh thiếu niên thất nghiệp, nghiện ma túy. Thống kê của Tổng cục cảnh sát, Công an cho thấy danh sách hàng trăm băng nhóm tội phạm với hơn 1.600 người có biểu hiện hoạt động phạm tội tại các tỉnh phía Nam. Trong đó, Tp.Hồ Chí Minh, Đồng Nai và Bình Dương là các địa phương có số lượng băng nhóm tội phạm nhiều nhất. Theo thống kê, tháng 3/2016, tội phạm cướp giật tài sản tại Tp.Hồ Chí Minh tăng từ 15-20% [71]. Đứng trước tình hình diễn biến tội phạm như vậy, các cấp Ủy đảng và chính quyền địa phương đã chỉ đạo các Ban, Ngành, Tổ chức xã hội và công dân tăng cường công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm. Để đấu tranh phòng, chống có hiệu quả đối với tình hình tội cướp giật tài sản, một trong những vấn đề quan trọng là cần phải nắm rõ nhân thân người phạm tội CGTS bởi vì nhân thân người phạm tội giữ vai trò rất quan trọng trong cơ chế thực hiện hành vi phạm tội. Nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản sẽ giúp cho việc làm rõ những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, từ đó có thể đưa ra các giải pháp phòng ngừa hữu hiệu tình hình tội cướp giật 2
  8. tài sản nói riêng và tình hình tội phạm nói chung. Từ ý nghĩa đó, tác giả đã chọn đề tài: “Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn Thạc sỹ luật học nhằm đáp ứng yêu cầu cấp thiết hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm gần đây, đã có một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài nhân thân người phạm tội. Có thể khái quát các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài thành ba nhóm cơ bản sau đây: * Nhóm các công trình nghiên cứu về lý luận nhân thân người phạm tội. Thuộc nhóm này có những công trình nghiên cứu sau: - Giáo trình tội phạm học, do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Đại học Huế - Trung tâm đào tạo từ xa, năm 2011; - Giáo trình tội phạm học của tập thể tác giả, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2012, tái bản năm 2013, 2015; - Tội phạm học Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn, của Tập thể tác giả, Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, năm 2000; - Một số vấn đề tội phạm học Việt Nam, do GS.TS Nguyễn Văn Cảnh và PGS.TS Phạm Văn Tỉnh chủ biên, Học viện cảnh sát nhân dân, năm 2013; - Bài viết: “Nhân thân người phạm tội: Một số vấn đề lý luận cơ bản” của tác giả GS.TS Lê Cảm, Tạp chí Toà án, số 10/2001, tr.7-11 và Số 11/2001, tr.5-8; * Nhóm các công trình nghiên cứu về thực tiễn nhân thân người phạm tội. Thuộc nhóm này là những công trình, trong đó, các tác giả nghiên cứu, phân tích về nhân thân người phạm tội trên một địa bàn nhất định và đặc điểm nhân thân người phạm tội gắn với một loại tội phạm cụ thể, tiêu biểu như: - Luận văn Thạc sĩ luật học: “Nhân thân người phạm tội trong tội phạm học” của Nguyễn Thị Thanh Thủy, Trường ĐH Luật Hà Nội năm 1996; - Luận văn Thạc sĩ luật học: " Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Bình Dương" của Phạm Thị Triều Mến (2016), Học viện khoa học xã hội; 3
  9. * Nhóm công trình nghiên cứu về vai trò của nhân thân người phạm tội trong định tội và quyết định hình phạt. Thuộc nhóm này là các công trình nghiên cứu làm rõ vai trò của nhân thân người phạm tội trong việc định tội và quyết định hình phạt hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự như: - Bài viết:" Các tình tiết định khung tăng nặng trong tội giết người phản ánh mức độ lỗi và các đặc điểm về nhân thân người phạm tội" của tác giả Đỗ Đức Hồng Hà, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 18/2005, tr. 17-20; - Bài viết: " Vấn đề nhân thân người phạm tội trong thực tiễn quyết định hình phạt" của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thủy, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 19/2005, tr. 32-35; - Bài viết: " Các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự liên quan đến nhân thân người phạm tội" của tác giả Đinh Văn Quế, Tạp chí Tòa án, số 13/2009, tr. 23- 27 và số 14, tr. 19-28; Các công trình nghiên cứu trên đã tập trung phân tích làm rõ vai trò của nhân thân người phạm tội trong quyết định hình phạt, trong định tội hoặc trong việc áp dụng các quy định có liên quan đến các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự. Một số tác giả đã tập trung phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về nhân thân người phạm tội, bao gồm khái niệm nhân thân người phạm tội, phân biệt khái niệm nhân thân người phạm tội với một số khái niệm khác có liên quan, các đặc điểm của nhân thân người phạm tội, vai trò của nhân thân người phạm tội trong cơ chế hành vi phạm tội Một số công trình cũng đã có những nghiên cứu có hệ thống về nhân thân người phạm tội trên một địa bàn nhất định, như địa bàn tỉnh Bình Dương hay trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả của các công trình nghiên cứu này là những tri thức, hiểu biết quan trọng mà tác giả sẽ kế thừa có chọn lọc trong quá trình nghiên cứu đề tài của mình. Tuy nhiên, giai đoạn vừa qua chưa có một công trình nghiên cứu nào chuyên sâu nghiên cứu về nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa những tri thức lý luận nền tảng về nhân thân người phạm tội cũng như những tri thức nghiên cứu về nhân thân người phạm tội 4
  10. trong các loại tội, nhóm tội ở các địa phương nhất định trong các công trình của các tác giả kể trên, tác giả sẽ vận dụng đi sâu nghiên cứu về nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh. Từ thực tiễn tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh giai đoạn 2011 - 2015, tác giả sẽ đi sâu phân tích làm rõ lý luận về nhân thân người phạm tội gắn với đặc điểm của Tp.Hồ Chí Minh. Từ đó, kiến nghị các giải pháp phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh từ khía cạnh nhân thân người phạm tội. Đây chính là hướng nghiên cứu của luận văn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài nghiên cứu nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh hướng đến mục đích đề xuất các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh thông qua việc làm rõ những đặc điểm nhân thân người phạm tội và xác định được các yếu tố tác động đến quá trình hình thành nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ sau: Một là, nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản; Hai là, nghiên cứu thực tế nhằm làm rõ thực tiễn các đặc điểm nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản và các yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh giai đoạn 2011- 2015; Ba là, kiến nghị việc hoàn thiện các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh từ khía cạnh nhân thân người phạm tội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu 5
  11. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản ở cả góc độ lí luận và thực tiễn. Phần thực tiễn là nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về không gian: đề tài nghiên cứu nhân thân người phạm tội “Cướp giật tài sản” dưới góc độ tội phạm học thuộc chuyên ngành tội phạm học và phòng ngừa tội phạm trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh. - Phạm vi về thời gian: Các số liệu thống kê được tác giả thu thập trong giai đoạn từ 2011 đến năm 2015. - Phạm vi về tội danh: đề tài nghiên cứu tội cướp giật tài sản theo quy định tại Điều 136 – chương XVI Các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự 1999. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và phòng, chống tội cướp giật tài sản nói riêng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện đề tài, Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chung của lĩnh vực khoa học xã hội và các phương pháp nghiên cứu đặc thù của Tội phạm học, cụ thể: - Phương pháp nghiên cứu lí luận, nghiên cứu tài liệu, hệ thống hóa, khái quát hóa và cụ thể hóa được sử dụng để làm rõ những vấn đề lý luận chung về nhân thân người phạm các tội “Cướp giật tài sản”. - Phương pháp nghiên cứu lý luận, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, quy nạp, hệ thống, biểu đồ, diễn dịch, đối chiếu, suy luận, phương pháp lịch sử logic, phương pháp nghiên cứu tổng hợp bản án, nghiên cứu hồ sơ vụ án được sử dụng để làm rõ các đặc điểm nhân thân người phạm tội “Cướp giật tài sản” và các 6
  12. yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội “Cướp giật tài sản” trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh giai đoạn 2011 – 2015. - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm, phân tích, suy luận logic, quy nạp, diễn dịch được sử dụng nhằm đưa ra kiến nghị việc hoàn thiện các giải pháp phòng ngừa tình hình tội “Cướp giật tài sản” từ góc độ nhân thân người phạm tội. - Để nghiên cứu sâu các đặc điểm nhân thân người phạm tội, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu 100 bản án, hồ sơ vụ án với 167 bị cáo phạm tội CGTS trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015 đã được Tòa án các cấp xét xử cũng như số liệu thống kê các số liệu thống kê của các cơ quan tiến hành tố tụng ở Tp.Hồ Chí Minh để phân tích, tổng hợp số liệu thể hiện các đặc trưng về nhân thân người phạm tội CGTS. Ngoài ra, tác giả cũng đã sử dụng phương pháp điều tra xã hội học nhằm khảo sát, tìm hiểu về quan điểm của người chưa thành niên với phương pháp giáo dục của gia đình và nhà trường; những yếu tố chủ quan thuộc về người phạm tội mà bản án của Tòa án không thể hiện. Kết quả khảo sát được tác giả sử dụng trong nội dung của luận văn sẽ làm rõ thêm những yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội “Cướp giật tài sản” trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh giai đoạn 2011 - 2015. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận chung về nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện hơn nữa lý luận của tội phạm học nói chung và lý luận về phòng, chống tình hình tội “Cướp giật tài sản” nói riêng. Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được vận dụng vào thực tiễn công tác phòng, chống tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội “Cướp giật tài sản” nói riêng trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh trong thời gian tới. Kết quả nghiên cứu của luận văn cũng là những tài liệu tham khảo hữu ích cho các cán bộ, giảng viên, sinh viên trong các cơ sở đào tạo. 7. Cơ cấu luận văn 7
  13. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu ba chương, cụ thể như sau: Chương 1. Những vấn đề lý luận chung về nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản. Chương 2. Thực tiễn nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản và những yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh giai đoạn 2011 - 2015. Chương 3. Hoàn thiện giải pháp phòng ngừa tội cướp giật tài sản trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh từ khía cạnh nhân thân người phạm tội. 8
  14. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản 1.1.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản Để hình thành lí luận về nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản, tác giả luận văn tiếp cận từ lí luận về nhân thân người phạm tội nói chung trong Tội phạm học để luận giải lí luận về nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản. Khi nói đến nhân thân chủ yếu là nói đến con người với tính cách là thành viên của xã hội, người tham gia vào quan hệ xã hội, là thực thể xã hội. Khái niệm nhân thân người phạm tội được hình thành từ khái niệm “nhân thân” và khái niệm “người phạm tội” [44, tr.147]. Trong hoạt động sản xuất, con người không thể tách khỏi xã hội, tính xã hội là đặc điểm cơ bản làm cho con người khác con vật thể hiện ở hoạt động giao tiếp xã hội. Hoạt động ấy không phải theo bản năng như động vật mà là hoạt động có ý thức – bản năng xã hội của con người là bản năng có ý thức [14, tr.611]. Như vậy, con người sống trong xã hội luôn mang đặc tính xã hội. Nhân thân con người là sự thống nhất giữa các đặc tính xã hội và đặc tính sinh học hay nhân thân con người là tổng hợp những đặc điểm, dấu hiệu thể hiện bản chất của con người tham gia vào tất cả các mối quan hệ xã hội. Đó là các đặc điểm, dấu hiệu sinh học, nhân khẩu học, các đặc điểm về xã hội học, đạo đức – tâm lý. Tiếp cận dưới góc độ Luật hình sự, nhân thân của người phạm tội trong luật hình sự được hiểu là tổng hợp những đặc điểm riêng biệt của người phạm tội có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự của họ [40, tr.127]. Nhân thân của người phạm tội tuy không là yếu tố cấu thành tội phạm nhưng những đặc điểm về nhân thân của người phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Các cơ quan điều tra, truy tố và xét xử muốn giải quyết được đúng đắn bất cứ vụ án hình sự nào đều đỏi hỏi phải nghiên cứu đầy đủ về nhân thân người phạm tội. 9
  15. Tội phạm học nghiên cứu nhân thân người phạm tội có phạm vi rộng hơn nhiều so với Luật hình sự. “Đối tượng nghiên cứu của tội phạm học là con người phạm tội chứ không phải là con người nói chung. Người phạm tội là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm” [44, tr.149]. Khi nghiên cứu nhân thân người phạm tội chính là nghiên cứu tổng hợp tất cả những dấu hiệu, đặc điểm của con người phạm tội cụ thể. Những dấu hiệu đặc trưng trong nhân thân người phạm tội mà Tội phạm học nghiên cứu bao gồm tất cả các đặc điểm, dấu hiệu riêng biệt của người phạm tội. Các đặc điểm riêng đó có thể là: Tuổi, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, lối sống, hoàn cảnh gia đình, đời sống kinh tế, thái độ chính trị, sở thích cá nhân, ý thức chấp hành pháp luật Như vậy, nhân thân người phạm tội là “Tổng thể tất cả các dấu hiệu, đặc điểm có ý nghĩa về mặt xã hội, trong sự kết hợp với điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài ảnh hưởng đến hành vi phạm tội của người đó” [58, tr.131]. Trên cơ sở khái niệm nhân thân người phạm tội nêu trên có thể đưa ra định nghĩa nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản như sau: Nhân thân người phạm tội CGTS là tổng thể các đặc điểm, dấu hiệu về mặt xã hội, đạo đức, tâm lý, trong sự kết hợp với điều kiện và hoàn cảnh nhất định đã dẫn đến người đó thực hiện hành vi phạm tội CGTS được quy định tại Điều 136 BLHS 1999. 1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản Nhân thân người phạm tội là vấn đề quan trọng được nhiều ngành khoa học xã hội nghiên cứu như khoa học luật hình sự, khoa học luật tố tụng hình sự, khoa học điều tra tội phạm, tâm lý học tư pháp, tội phạm học Tuy nhiên, mỗi ngành khoa học đều có mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu khác nhau cho nên khi nghiên cứu về nhân thân người phạm tội thì mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu và hướng tiếp cận cũng khác nhau. Khoa học luật hình sự nghiên cứu nhân thân người phạm tội với mục đích xác định và đánh giá hành vi phạm tội, trách nhiệm hình sự và quyết định biện pháp 10
  16. xử lý hình sự đối với người phạm tội theo luật hình sự [63, tr.193]. Khoa học luật hình sự nghiên cứu nhân thân người phạm tội với phạm vi hẹp hơn có tác dụng giúp các cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung, Tòa án nói riêng giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Luật tố tụng hình sự nghiên cứu nhân thân người phạm tội để xác định hướng tiến hành tố tụng, quyền và nghĩa vụ của chủ thể trong các giai đoạn khác nhau đối với mỗi vụ án hình sự; lựa chọn biện pháp ngăn chặn, thực nghiệm điều tra, trưng cầu giám định. Nghiên cứu các đặc điểm nhân thân có ý nghĩa đối với định tội, định khung và quyết định hình phạt [45, tr.187]. Khoa học điều tra tội phạm nghiên cứu nhân thân người phạm tội nhằm xây dựng các giả thiết điều tra, kiểm tra các giả thiết điều tra đó phục vụ cho công tác đấu tranh chống tội phạm. Tâm lý học tư pháp nghiên cứu người phạm tội với mục đích xác định năng lực trách nhiệm hình sự và xử lý những người phạm tội là người mắc các bệnh về tâm lý, tâm thần [44, tr.145]. Tội phạm học với tư cách là ngành khoa học pháp lý – xã hội học chuyên nghiên cứu về tội phạm và người phạm tội cùng những nguyên nhân và điều kiện của nó nhằm đề ra các biện pháp phòng ngừa, cho nên vấn đề nghiên cứu nhân thân người phạm tội nói chung và nhân thân người phạm tội CGTS nói riêng được nghiên cứu với phạm vi rộng hơn, mức độ toàn diện hơn, qua đó đánh giá những yếu tố nào thuộc về nhân thân người phạm tội có ảnh hưởng trực tiếp đến việc phạm tội, từ đó đề ra các biện pháp phòng ngừa dưới góc độ nhân thân. Trong phạm vi luận văn này, tác giả xin đề cập đến việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội CGTS với các ý nghĩa chính sau: Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản, góp phần quan trọng trong việc định tội, định khung và quyết định hình phạt chính xác đối với người thực hiện hành vi phạm tội cướp giật tài sản. Trong các yếu tố liên quan đến định tội và định khung hình phạt đối với tội CGTS tại Điều 136 BLHS 1999, có đặc điểm nhân thân “tái phạm nguy hiểm” được quy định là yếu tố định khung của tội CGTS (điểm c khoản 2 của Điều 136 BLHS 1999). Khi đã định tội và định khung một cách chính xác sẽ giúp cho việc quyết 11
  17. định hình phạt đối với người phạm tội CGTS đúng đắn, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội gây ra, từ đó góp phần giáo dục và cải tạo có hiệu quả người phạm tội CGTS có hiệu quả, đồng thời ngăn ngừa tội phạm mới. Thứ hai, nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội CGTS là để làm rõ các nguyên nhân và điều kiện tác động tới tình hình tội CGTS (nguyên nhân từ phía người phạm tội và nguyên nhân từ phía xã hội). Việc nghiên cứu các đặc điểm nhân thân và những yếu tố tác động đến quá trình hình thành các đặc điểm tiêu cực của nhân thân người phạm tội CGTS, sẽ cho thấy rõ những nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm, đặc biệt là nhóm nguyên nhân và điều kiện từ phía người phạm tội.“Việc phân tích các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể chỉ ra rằng không thể nhận thức, hiểu biết được các nguyên nhân và điều kiện đó nếu thiếu việc cân nhắc nhân thân người phạm tội” [58, tr.127]. Nhân thân người phạm tội CGTS với tổng thể các đặc điểm có tác động chi phối hành vi phạm tội và cũng chính là kết quả của sự tác động qua lại giữa người phạm tội và môi trường xã hội của người phạm tội CGTS. Nghiên cứu cụ thể về các đặc điểm và những yếu tố tác động đến quá trình hình thành các đặc điểm tiêu cực của nhân thân người phạm tội CGTS từ môi trường gia đình, nhà trường, môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội vĩ mô đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm tội CGTS sẽ cho thấy rõ những nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh hành vi phạm tội CGTS. Thứ ba, nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội CGTS nhằm xác định rõ những yếu tố tiêu cực từ phía người phạm tội. “Hành vi phạm tội là kết quả không mong đợi của quá trình tương tác giữa các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường sống với các yếu tố tâm – sinh lý tiêu cực bên trong cá nhân chủ thể hành vi đã dẫn tới việc thực hiện hành động hoặc không hành động mà pháp luật hình sự xem là phạm tội” [04, tr.101]. Việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội CGTS nhằm trả lời cho câu hỏi hành vi phạm tội CGTS được hình thành do ảnh hưởng bởi cái gì, cũng như môi trường xung quanh đã tác động vào con người như thế nào khiến người đó thực hiện hành vi phạm tội CGTS. 12
  18. Từ đó, có thể xác định được những yếu tố tiêu cực nào từ phía người phạm tội và những yếu tố tiêu cực nào từ môi trường xã hội trong sự tác động qua lại với nhau làm phát sinh hành vi phạm tội CGTS. Thứ tư, nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội CGTS cũng có ý nghĩa trong việc đề ra các biện pháp giáo dục, cải tạo, quản lý người phạm tội một cách phù hợp và hiệu quả. Nghiên cứu nhân thân người phạm tội CGTS là một quá trình để đưa ra các hình thức, phương pháp giáo dục, cải tạo, quản lý người phạm tội phù hợp và hiệu quả. Cần phải dựa vào đặc điểm nhân thân của người phạm tội CGTS để phân loại người phạm tội CGTS, tìm ra những yếu tố cá biệt (những đặc điểm nhân thân riêng biệt) mà từ đó có những biện pháp giáo dục, cải tạo phù hợp với từng nhóm người với các đặc điểm nhân thân khác nhau, nhằm giáo dục, cải tạo họ trở lại thành người tốt, không tái phạm tội. Nghiên cứu đặc điểm nhân thân người phạm tội cũng giúp cho việc tư vấn cho phạm nhân chuẩn bị tốt cho quá trình tái hòa nhập. 1.2. Các đặc điểm của nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản Tội phạm học chia các đặc điểm nhân thân người phạm tội thành 3 nhóm như sau: Nhóm đặc điểm nhân khẩu học – xã hội; nhóm đặc điểm đạo đức – tâm lý; nhóm đặc điểm pháp lý hình sự. Các đặc điểm của nhân thân người phạm tội CGTS cũng được chia thành ba nhóm đặc điểm như vậy. 1.2.1. Nhóm đặc điểm nhân khẩu học – xã hội Những đặc điểm nhân khẩu học – xã hội của nhân thân người phạm tội CGTS bao gồm: Giới tính, lứa tuổi, nơi cư trú, địa vị xã hội, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình, trình độ học vấn [58, tr.144]. Những đặc điểm này bản thân chúng không đặc trưng cho con người với tư cách là người phạm tội, bởi chúng tồn tại trong nhân thân của bất kỳ người nào. Nghiên cứu các đặc điểm nhân khẩu học – xã hội này của người phạm tội cung cấp cho chúng ta biết được vai trò của các đặc điểm này tác động như thế nào đến hành vi phạm tội CGTS. 1.2.1.1. Đặc điểm độ tuổi 13
  19. Nghiên cứu đặc điểm độ tuổi trong nhân thân người phạm tội CGTS nhằm xác định độ tuổi nào phạm tội nhiều nhất và độ tuổi có vai trò như thế nào trong cơ chế hành vi phạm tội. Nghiên cứu đặc điểm độ tuổi của người phạm tội CGTS giúp chúng ta có thể xác định được tính chất, mức độ, đặc điểm tội phạm của từng lứa tuổi và sự ảnh hưởng của lứa tuổi đến việc thực hiện tội phạm. Độ tuổi của người phạm tội thường được tội phạm học chia làm nhiều nhóm với những đặc trưng riêng gắn với tâm lý lứa tuổi. Để nghiên cứu tìm ra các đặc điểm đặc trưng của từng độ tuổi của những người phạm tội CGTS, có thể chia người phạm tội CGTS thành các nhóm tuổi như sau: nhóm từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, nhóm từ 18 đến 30 tuổi, nhóm từ 30 tuổi trở lên. Mỗi nhóm tuổi sẽ tương ứng với mức độ nhận thức, hiểu biết cũng như khả năng kiềm chế, kiểm soát hành vi của mình. Theo cách phân nhóm này, những người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi là những người có đặc điểm tâm lý nhận thức chưa hoàn thiện, rất dễ bị ảnh hưởng bởi những tác động xấu từ môi trường. Trong những năm gần đây, những người phạm tội CGTS đang có xu hướng trẻ hóa về độ tuổi. Nhóm người phạm tội dưới 18 tuổi đang có xu hướng gia tăng. Những người trong độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi là những người đã trưởng thành, đang trong giai đoạn định hướng nghề nghiệp, tạo lập cuộc sống riêng, ở độ tuổi này họ muốn được thể hiện khả năng của mình, họ thích sống độc lập nên diễn biến tâm lý phức tạp và cũng dễ bị tác động của môi trường sống. Nhóm người từ 30 tuổi trở lên là những người đã hoàn thiện về tâm lý, ở độ tuổi này con người thường đã ổn định về gia đình, nghề nghiệp nên ít chịu ảnh hưởng của môi trường sống hơn các nhóm tuổi khác. Nghiên cứu đặc điểm lứa tuổi giúp ích cho việc sắp xếp thứ tự ưu tiên trong đấu tranh chống và phòng ngừa tội CGTS đối với từng độ tuổi cho phù hợp. [53, tr.106] 1.2.1.2. Đặc điểm giới tính Nghiên cứu đặc điểm giới tính trong nhân thân người phạm tội CGTS giúp chúng ta xác định tỷ lệ người phạm tội giữa nam và nữ, đặc trưng của giới tính có ảnh hưởng như thế nào đến cơ chế hành vi phạm tội CGTS. Thông thường tỷ lệ nam 14