Luận văn Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

pdf 92 trang vuhoa 25/08/2022 5660
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_nhan_than_nguoi_pham_toi_co_y_gay_thuong_tich_hoac.pdf

Nội dung text: Luận văn Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN XUÂN BÁ NHÂN THÂN NGƢỜI PHẠM TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - NĂM 2017
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN XUÂN BÁ NHÂN THÂN NGƢỜI PHẠM TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm Mã số: 60.38.01.05 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Cao Thị Oanh HÀ NỘI - NĂM 2017
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả đề cập trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng và chính xác. Tác giả luận văn Nguyễn Xuân Bá
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1. KHÁI QUÁT LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƢỜI PHẠM TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CỦA SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC 7 1.1. Khái niệm và đặc điểm nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác 7 1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác 13 1.3. Quá trình hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực ở người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác 16 Chƣơng 2. THỰC TRẠNG NHÂN THÂN NGƢỜI PHẠM TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 27 2.1. Khái quát tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh 27 2.2. Đặc điểm nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh theo đặc điểm nhân thân 32 2.3. Nguyên nhân hình thành các đặc điểm nhân thân của người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh 37 Chƣơng 3. CÁC BIỆN PHÁP TĂNG CƢỜNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TỪ KHÍA CẠNH NHÂN THÂN 50 3.1. Dự báo về nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới 50 3.2. Các biện pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh dưới góc độ nhân thân người phạm tội 56 KẾT LUẬN 69 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 70 PHỤ LỤC
  5. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ANTT An ninh trật tự BCA Bộ Công an BLHS Bộ luật hình sự CSHS Cảnh sát hình sự CSKV Cảnh sát khu vực THTP Tình hình tội phạm TAND Tòa án nhân dân VKSND Viện kiểm sát nhân dân
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Số liệu xét xử sơ thẩm vụ án và bị cáo phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2011 đến năm 2015 01 Bảng 2.2. So sánh tỷ lệ tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tỷ lệ tội này trên phạm vi toàn quốc từ năm 2011 đến năm 2015 01 Bảng 2.3. Số liệu xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu từ năm 2011 đến năm 2015 . 01 Bảng 2.4. Số vụ, số bị cáo trên số diện tích, số dân từ năm 2011 đến năm 2015 của địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu 02 Bảng 2.5. Cơ cấu tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu xác định trên cơ sở kết hợp yếu tố dân cư và diện tích 02 Bảng 2.6. Hệ số tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và trên phạm vi toàn quốc 03 Bảng 2.7. Cơ cấu tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh 03 Bảng 2.8. Cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ năm 2011 - 2015 được tính toán trên cơ sở số dân của các quận, huyện trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh 04
  7. Bảng 2.9. Cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ năm 2011 - 2015 được tính toán trên cơ sở diện tích của các quận, huyện trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh 05 Bảng 2.10. Cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ năm 2011 – 2015 được tính toán trên cơ sở kết hợp yếu tố dân cư và diện tích của các quận, huyện trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh 06 Bảng 2.11. Số liệu xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh 07 Bảng 2.12. Cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh theo địa điểm phạm tội 08 Bảng 2.13. Cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh theo thời gian gây án 08 Bảng 2.14. Cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh theo thiệt hại do tội phạm gây ra 08 Bảng 2.15. Cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh theo công cụ thực hiện tội phạm của người phạm tội 09 Bảng 2.16. Cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh theo phương thức thực hiện tội phạm 09 Bảng 2.17. Cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh theo hình phạt đã áp dụng 10
  8. Bảng 2.18. Một số đặc điểm nhân thân của người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2011 đến năm 2015 10 Bảng 2.19. Đặc điểm về hoàn cảnh gia đình của người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh 11 Bảng 2.20. Đặc điểm về sở thích, thói quen của người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh 11 Bảng 2.21. Đặc điểm về động cơ, mục đích của người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh 11
  9. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, trong những năm qua thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được những thành tựu đáng kể trên mọi mặt đời sống xã hội, tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định, các hoạt động đối ngoại được chú trọng, thu hút được đầu tư nước ngoài, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao rõ rệt. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong lĩnh vực trật tự, an toàn xã hội thành phố Hồ Chí Minh cũng là một trong những địa bàn phức tạp nhất. Tình hình tội phạm về trật tự xã hội nói chung và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đang diễn ra hết sức phức tạp, với tính chất ngày càng nghiêm trọng, phương thức thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Nhiều vụ án chỉ xuất phát từ xích mích nhỏ trong sinh hoạt, trong vui chơi, giải trí, trong tham gia giao thông nhưng các đối tượng sẵn sàng sử dụng vũ khí, hung khí nguy hiểm để gây thương tích cho người khác. Đáng chú ý là hiện nay các đối tượng có xu hướng liên kết lại với nhau thành các băng, nhóm tội phạm hình sự hoạt động theo kiểu "xã hội đen" bảo kê, đòi nợ, xiết nợ thuê, giải quyết các mâu thuẫn cá nhân hoạt động ngang nhiên, coi thường pháp luật, thậm chí tấn công chống trả người thi hành công vụ. Qua khảo sát từ năm 2011 đến năm 2015 cho thấy, Tòa án nhân dân các cấp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử 1.825 vụ với 3.721 bị cáo phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, chiếm 5,76% so với tổng số vụ phạm pháp hình sự trên địa bàn (1.825/31.654 vụ) và chiếm 8,17% (3.721/45.496) trong tổng số bị cáo bị đưa ra xét xử hình sự trên địa bàn. Tính trung bình hàng năm, số vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được đưa ra xét xử là 365 vụ với 744,2 bị cáo. Như vậy, có thể thấy tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác chiếm tỷ lệ cao trong tổng số các tội phạm hình sự, chỉ đứng sau các tội xâm phạm sở hữu và chúng gây ra những hậu quả nặng nề cho con người và xã hội. Đồng thời qua nghiên cứu cũng cho thấy, có đến 96,59% đối tượng phạm tội là nam giới, 72,54% đối tượng phạm tội có độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi, 62,57% đối tượng có trình độ trung học cơ sở, 1
  10. số đối tượng không có việc làm và có việc làm nhưng không ổn định chiếm 83,25%. Thực trạng trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan như, sự thiếu quan tâm, chăm sóc, uốn nắm của bố mẹ, của người thân trong gia đình, sống trong các gia đình không hạnh phúc, thường xuyên đánh, chửi nhau, sự đề cao, coi trọng quá mức giá trị của đồng tiền, sự coi thường kỷ cương pháp luật, coi thường tính mạng, sức khỏe của người khác, thích hưởng thụ, lười lao động, ăn chơi đua đòi, nghiện games, nghiện rượu, thích sử dụng bạo lực, ưa sỹ diện của một bộ phận không nhỏ người dân trên địa bàn; sự yếu kém của một số cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, sự buông lỏng trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội, quản lý con người của các cơ quan chức năng đã làm cho tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trên địa bàn trở lên phức tạp và có chiều hướng năm sau tăng hơn năm trước. Nhân thân người phạm tội có vai trò quan trọng trong cơ chế hành vi phạm tội. Vì vậy, việc nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có ý nghĩa rất lớn trong định tội, định khung và quyết định hình phạt được chính xác; tạo cơ sở cho việc xác định nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, giúp cho các cơ quan chức năng đề ra các biện pháp phòng ngừa hiệu quả đối với tội này, đồng tạo cơ sở cho việc xây dựng các biện pháp giáo dục, cải tạo người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, giúp họ nhận ra những sai lầm, sớm tiến bộ để trở về với cộng đồng và xã hội. Từ những luận giải trên, tác giả chọn đề tài: “Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài - Nhóm các công trình nghiên cứu nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội: Giáo trình tội phạm học, của GS. TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Đại học Huế, năm 2011; Giáo trình tội phạm học của tập thể tác giả, Đại học Luật Hà Nội, năm 2012; Tội phạm học Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn của tập thể tác giả, 2
  11. Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, năm 2000; Luận văn thạc sĩ luật học, Nhân thân người phạm tội trong tội phạm học, Nguyễn Thị Thanh Thủy, Đại học Luật Hà Nội, năm 1996; Luận án Tiến sĩ luật học, Nhân thân người phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, Nguyễn Thị Thanh Thủy, Đại học Luật Hà Nội, năm 2005. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên mới chỉ tập trung làm rõ những vấn đề lý luận chung về nhân thân người phạm tội như: Khái niệm nhân thân người phạm tội, phân biệt khái niệm nhân thân người phạm tội với một số khái niệm có liên quan, ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội, các đặc điểm của nhân thân người phạm tội tác giả sẽ tiếp thu và kế thừa những quan điểm khoa học trên làm nền tảng, căn cứ, cơ sở lý luận trong luận văn của mình. - Nhóm các công trình có liên quan trực tiếp đến đề tài nghiên cứu Ngoài các công trình nghiên cứu nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội nêu trên, có một số công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu của đề tài, như: - Võ Thị Thương (2016), Nhân thân người phạm tội xâm phạm sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội. - Phạm Văn Phương (2015), Nhân thân người chưa thành niên phạm tội từ thực tiễn tỉnh Bình Định, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội. - Nguyễn Tuyết Mai (2006), Một số đặc điểm chú ý về nhân thân người phạm tội về ma túy ở Việt Nam, Tạp chí Luật học, (số 11), tr. 23 -26 - Nguyễn Thị Thanh Thủy (1996), Nhân thân người phạm tội trong tội phạm học, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội. - Nguyễn Thị Thanh Thủy (2005), Nhân thân người phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội. Các công trình nghiên cứu nêu trên nhìn chung đã làm rõ vai trò của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt, trong thực tiễn quyết định loại trừ, hoặc miễn trách nhiệm hình sự. Một số công trình nghiên cứu nhân thân người phạm tội với một số tội phạm cụ thể Tuy nhiên, chưa có một công trình nào 3
  12. nghiên cứu chuyên sâu về nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về nhân thân người phạm tội, đi sâu vào nghiên cứu các đặc điểm của nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2011 đến năm 2015; nghiên cứu phân tích, làm rõ những nguyên nhân tạo ra các đặc điển nhân thân tiêu cực của người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; đưa ra hệ thống các biện pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện được mục đích trên, luận văn cần giải quyết tốt một số nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu lý luận chung về nhân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, và làm rõ đặc điểm, nguyên nhân hình thành những đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. - Dự báo tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới. - Đề xuất các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ góc độ nhân thân. 4. Mục đích và phạm vi nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. 4
  13. 4.1. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu làm rõ đặc điểm nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; tìm ra các nguyên nhân hình thành các đặc điểm tiêu cực của người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, trên cơ sở đó đưa ra các dự báo và đề xuất các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ góc độ nhân thân. - Phạm vi về địa bàn: Địa bàn nghiên cứu được giới hạn trong phạm vi thành phố Hồ Chí Minh. - Phạm vi về thời gian: Từ năm 2011 đến năm 2015 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin về phép duy vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, chính sách Pháp luật của Nhà nước về phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể, như: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Sử dụng để nghiên cứu các công trình khoa học có liên quan, các văn bản pháp lý, các báo cáo sơ kết, tổng kết. - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Sử dụng để nghiên cứu tổng kết đánh giá những kết quả, tài liệu thu thập được từ thực tiễn hoạt động phòng ngừa tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua. - Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh số liệu: Sử dụng để điều tra, khảo sát thực tế và thống kê, đánh giá thực trang, diễn biến, cơ cấu của tình hình tội cố ý 5
  14. gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2011 đến năm 2015. 6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận về nhân thân người phạm tội nói chung và lý luận về nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan chức năng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện các biện pháp phòng ngừa hiệu quả tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong thời gian tới. Ngoài ra, luận văn còn là tài liệu tham khảo cho các giảng viên, học viên, các nhà nghiên cứu khi nghiên cứu đến những vấn đề có liên quan. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 03 chương: Chương 1: Khái quát lý luận về nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Chương 2: Thực trạng nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh Chương 3: Các biện pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ khía cạnh nhân thân 6
  15. Chƣơng 1 KHÁI QUÁT LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƢỜI PHẠM TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC 1.1. Khái niệm và đặc điểm nhân thân ngƣời phạm tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác 1.1.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Nhân thân con người nói chung và nhân thân người phạm tội nói riêng là tổng hợp các dấu hiệu, các đặc điểm phản ánh bản chất của con người tham gia vào các mối quan hệ xã hội. Đó là các dấu hiệu, đặc điểm sinh học, nhân khẩu học, đặc điểm xã hội học, và đặc điểm tâm lý – đạo đức của nhân thân người phạm tội. Người phạm tội, dù cho hành vi phạm tội của họ có gây ra hậu quả nghiêm trọng cho xã hội đến mức nào đi nữa thì họ vẫn là con người. Mác viết “Nhà nước cần phải thấy rằng kẻ vi phạm đó là một con người, một tế bào sống của xã hội, ở con người đó cũng có quả tim đang đập và dòng máu đang chảy một thành viên của tập thể thực hiện các chức năng của xã hội, một người chủ gia đình mà sự tồn tại của họ là thiêng liêng và cuối cùng điều quan trọng nhất họ là công dân của Nhà nước đó”. Như vậy, nghiên cứu nhân thân người phạm tội chính là nghiên cứu nhân thân của người đã thực hiện hành vi phạm tội, hay nói cách khác chính là nghiên cứu về nhân thân chủ thể của tội phạm. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì nhân thân con người chính là một phạm trù xã hội lịch sử, nó là sản phẩm của một thời đại nhất định, được quy định bởi các điều kiện lịch sử cụ thể của hiện thực xã hội. Mỗi một thời đại khác nhau sản sinh ra những mẫu người không giống nhau, song dù ở thời đại nào thì bản chất của con người luôn luôn là tổng hòa những mối quan hệ xã hội [17, tr. 101]. Trong bất kỳ xã hội nào con người không bao giờ sống riêng lẻ, tách mình ra khỏi xã hội mà luôn quan hệ với nhau trong quá trình lao động sản xuất cũng như 7
  16. trong mọi sinh hoạt hàng ngày. Tất cả các đặc điểm tâm, sinh lý cũng những biểu hiện trong các quan hệ xã hội của con người, thể hiện bản chất đặc trưng của một con người sẽ hợp thành nhân thân của con người đó. Nhân thân người phạm tội là một trường hợp đặc biệt của nhân thân con người, ngoài những dấu hiệu, đặc điểm của nhân thân con người nói chung thì đặc điểm đặc trưng của nhân thân người phạm tội chính là những đặc điểm thể hiện tính chất nguy hiểm cho xã hội của nhân thân người phạm tội. Nhân thân người phạm tội, dù cho nó có biểu hiện này hay biểu hiện khác thì nó đều gắn liền với một hệ thống các đặc điểm có liên quan đến tội phạm, như: Mối tương quan giữa bản chất tốt xấu trong chính bản thân người phạm tội, thể hiện ở phẩm chất đạo đức, ở trạng thái tâm lý, ý thức pháp luật và thái độ xử sự, động cơ, mục đích của họ khi thực hiện hành vi phạm tội. Những đặc điểm và các dấu hiệu xã hội, cấu trúc và mối tương quan giữa chúng cho chúng ta một quan niệm đầy đủ về nhân thân người phạm tội. Theo GS. TS Võ Khánh Vinh nhân thân người phạm tội được hiểu như sau: “Nhân thân người phạm tội tức là người có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị Luật hình sự quy định là tội phạm được hiểu là tổng thể các dấu hiệu có ý nghĩa về mặt xã hội, trong sự kết hợp với các điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài ảnh hưởng đến hành vi phạm tội của người đó” [46, tr. 131]. Như vậy, từ những phân tích trên có thể hiểu nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau: Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là tổng hợp những đặc điểm, dấu hiệu thể hiện bản chất xã hội của con người và các đặc điểm, dấu hiệu này kết hợp với các điều kiện, hoàn cảnh nhất định đã dẫn đến người đó thực hiện hành vi phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều 104 chương XIV của BLHS hiện hành. 8
  17. 1.1.2. Đặc điểm nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Trong tội phạm học, các đặc điểm nhân thân người phạm tội nói chung và các đặc điểm nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được chia làm 03 nhóm: Nhóm đặc điểm sinh học; nhóm đặc điểm tâm lý và nhóm đặc điểm xã hội. 1.1.2.1. Nhóm đặc điểm sinh học Nghiên cứu nhóm đặc điểm sinh học của nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là nghiên cứu các đặc trưng về giới tính, lứa tuổi của người phạm tội. Khi nghiên cứu về giới tính, tội phạm học tập trung xác định hai vấn đề: Một là, tỷ lệ phạm tội giữa nam giới và nữ giới như thế nào, hai là, đặc trưng của giới tính có tác động như thế nào đến cơ chế hành vi phạm tội. Những nghiên cứu của các nhà tội phạm học cho thấy, một số loại tội chủ yếu do nam giới thực hiện, nhưng nữ giới lại có nhiều thuận lợi khi thực hiện hoặc che dấu tội phạm ở một số loại tội phạm khác. Chẳng hạn người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác chủ yếu là nam giới thực hiện, nữ giới thường có xu hướng dùng lời nói để giải quyết mâu thuẫn còn nam giới chủ yếu giải quyết mâu thuẫn bằng bạo lực. Xác định được ảnh hưởng của giới tính trong cơ chế thực hiện hành vi phạm tội có ý nghĩ rất lớn trong phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng. Độ tuổi người phạm tội trong nhân thân người phạm tội có ảnh hướng rất lớn đến việc thực hiện tội phạm của người phạm tội, độ tuổi liên quan đến nhận thức, đến lí trí và ý chí của con người, mỗi độ tuổi khác nhau có nhận thức về thế giới quan, nhân sinh quan khác nhau, lí trí và ý chí cũng khác nhau. Nghiên cứu từng nhóm lứa tuổi nhằm xác định quá trình hình thành các đặc điểm nhân thân xấu, và đặc điểm lứa tuổi có vai trò như thế nào trong cơ chế hành vi phạm tội. Đây là cơ sở quan trọng trong việc xây dựng hệ thống các biện pháp phòng ngừa tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong thời gian tới. 9
  18. 1.1.2.2. Nhóm đặc điểm tâm lý Nguyên cứu đặc điểm tâm lý của nhân thân người phạm tội, chúng ta tập trung nghiên cứu các đặc trưng về trình độ học vấn, nhu cầu, sở thích, ý thức đạo đức, ý thức pháp luật của người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Nhiều nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy, trình độ học vấn là yếu tố phản ánh phần lớn mức độ nhận thức của người phạm tội khi thực hiện tội phạm. Nếu trình độ học vấn của con người cao thì mức độ nhận thức, hiểu biết về xã hội, pháp luật càng cao và khả năng kiểm soát, kiềm chế hành vi của mình cao nên ít dẫn đến phạm tội, ngược lại người có trình độ học vấn thấp thường đi kèm với trình độ nhận thức và hiểu biết về pháp luật kém, những người này thường không kiềm chế và kiểm soát được hành vi của mình trong những tình huống cụ thể. Từ đó, dẫn đến nhiều trường hợp phạm tội do thiếu hiểu biết về pháp luật, nhận thức về xã hội còn hạn chế. Ngoài trình độ học vấn, thì nhu cầu của người phạm tội cũng là nội dung cần phải tập trung nghiên cứu. Nhu cầu là một trong các yếu tố làm phát sinh động cơ phạm tội. Mỗi cá nhân trong xã hội có sự khác biệt nhau về nhu cầu và cách thức thỏa mãn nhu cầu. Nhu cầu của con người hình thành và phát triển trong những điều kiện xã hội và điều kiện lịch sử nhất định, nhu cầu của con người là rất đa dạng và phong phú, có những nhu cầu tích cực nhưng cũng có những nhu cầu lệch chuẩn. Những nhu cầu lệch chuẩn được thực hiện bằng phương pháp trái pháp luật sẽ dẫn đến phạm tội. Vì vậy, nghiên cứu đặc điểm này sẽ tạo cơ sở cho việc xây dựng các biện pháp phòng ngừa tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác một cách hiệu quả. Trong các yếu tố về tâm lý của nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác không thể không đề cập đến các quan niệm về các nhóm giá trị trong cuộc sống. Các nhóm giá trị này có thể được xác định một cách cụ thể như: Vật chất – tinh thần, cá nhân – tập thể, nội dung – 10
  19. hình thức, truyền thống – hiện đại định hướng các giá trị sai lầm, tôn thờ lợi ích cá nhân, hẹp hòi, ích kỉ, không coi trọng giá trị cuộc sống là mầm mống làm phát sinh tội phạm. Trong các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tỷ lệ người có sở thích uống rượu, thích xem phim có nội dung bạo lực chiếm tỷ lệ rất cao trong tổng số người phạm tội. Những quan niệm về các giá trị đạo đức, pháp luật là một trong những vấn đề quan trọng cần phải nghiên cứu trong nhân thân người phạm tội. Sự hạn chế trong tiếp cận các giá trị đạo đức của người phạm tội làm cho họ nhận thức về các giá trị đạo đức còn nông cạn và nhiều khiếm khuyết, thiếu sót. Vì vậy, họ thường lựa chọn cho mình cách xử sự chống đối lại những chuẩn mực chung của xã hội. Người phạm tội có xu hướng phủ nhận những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc, suy thoái về đạo đức, phủ nhận cái thiện và họ thường có xu hướng chống đối pháp luật hoặc coi thường pháp luật và hành động phạm tội. 1.1.2.3. Nhóm đặc điểm xã hội Nhóm đặc điểm xã hội của nhân thân người phạm tội nói chung, người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói riêng bao gồm các yếu tố như: Địa vị xã hội và nghề nghiệp, nơi cư trú, hoàn cảnh gia đình. Địa vị xã hội và nghề nghiệp là một trong những đặc điểm trong nhân thân người phạm tội. Nghiên cứu địa vị xã hội và nghề nghiệp cho chúng ta biết được nhóm người làm việc ở những ngành, lĩnh vực nào trong xã hội dễ thực hiện tội phạm và loại tội phạm họ thực hiện [46, tr. 145]. Nghề nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân của người phạm tội. Nghề nghiệp ổn định với thu nhập ổn định sẽ ít bị tác động làm phát sinh các đặc điểm nhân thân tiêu cực. Theo số liệu thống kê tội phạm thì đa số người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là người không có nghề nghiệp hoặc nghề nghiệp không ổn định, điều kiện làm việc nặng nhọc, thu nhập thấp và không ổn định, do đó vị trí trong xã hội của họ rất thấp. Mặt khác, việc không có nghề nghiệp hoặc nghề nghiệp không ổn định, thu nhập thấp gắn với việc sơ hở trong quản lý, 11
  20. thiếu sự kiểm tra, giám sát đã tác động hình thành các đặc điểm nhân thân xấu như: Sự ích kỷ, vụ lợi, bạo lực trong giải quyết các mâu thuẫn. Nơi cư trú với những đặc thù riêng về kinh tế, văn hóa, xã hội, sự giáo dục và các truyền thống đạo đức, phong tục tập quán có ảnh hưởng không nhỏ đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân của người phạm tội. Việc nắm rõ các quan hệ xã hội nơi người phạm tội sinh sống, làm việc và các di biến động của các đối tượng sẽ giúp cho công tác điều tra, khám phá đạt hiệu quả cao, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa đối với tội phạm này. Hoàn cảnh gia đình và sự thay đổi của hoàn cảnh đó ở người phạm tội cũng ảnh hưởng đến sự hình thành các đặc điểm cá nhân, và ở một mức độ nhất định chúng cũng ảnh hưởng đến tính định hướng và tính vững chắc của hành vi phạm tội [48, tr. 146]. Hoàn cảnh gia đình có tác động rất lớn đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân của người phạm tội. Những khiếm khuyết của gia đình trong mối quan hệ với các yếu tố khác như: Gia đình khuyết thiếu chỉ có bố hoặc mẹ, gia đình có bố mẹ ly hôn, ly dị, gia đình có người thân thường xuyên vi phạm pháp luật hoặc phạm tội, bố mẹ có phương pháp giáo dục không đúng cách đã tác động đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân xấu của con người và trong những điều kiện, tình huống cụ thể sẽ dẫn đến hành vi phạm tội. Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình có tác động tích cực đến cách thức xử sự, giữ vai trò kiểm soát, định hướng hành vi của các thành viên, đồng thời gia đình cũng hạn chế đến mức thấp nhất các hiện tượng tiêu cực của họ. Hoàn cảnh kinh tế gia đình là những thông tin về tình trạng kinh tế gia đình của người phạm tội bao gồm: Mức thu nhập, điều kiện nhà ở, tiện nghi sinh hoạt, phương tiện đi lại Hoàn cảnh kinh tế có ý nghĩa rất lớn đối với việc hình thành động cơ, mục đích phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và tác động trực tiếp đến cách thức xử sự của con người. Hoàn cảnh kinh tế khó khăn là lý do khiến cho con người dao động, quẫn bách, tự ti dễ làm nảy sinh tâm lý tiêu cực. Qua khảo sát cho thấy, người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh phần lớn là 12