Luận văn Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử - Những vấn đề lý luận và thực tiễn

pdf 133 trang vuhoa 25/08/2022 7740
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử - Những vấn đề lý luận và thực tiễn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_nguyen_tac_thuc_hien_che_do_hai_cap_xet_xu_nhung_va.pdf

Nội dung text: Luận văn Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử - Những vấn đề lý luận và thực tiễn

  1. ®¹i häc quèc gia hµ néi Khoa luËt  Lª ThÞ Hång H¹nh Nguyªn t¾c thùc hiÖn chÕ ®é hai cÊp xÐt xö- nh÷ng vÊn ®Ò lý luËn vµ thùc tiÔn LuËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Hµ Néi - 2009
  2. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Để đạt được mục đích của mình, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 quy định trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động tố tụng: khởi tố vụ án, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự cña c¸c cơ quan điều tra, Viện kiểm sát (VKS), Tòa án, Cơ quan thi hành án đồng thời quy định quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng nhằm xác định sự thật của vụ án. Mặt khác, BLTTHS còn qui định các nguyên tắc cơ bản với tính chất là những tư tưởng chỉ đạo đối với toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự hoặc đối với một loại hoạt động tố tụng nhất định như hoạt động điều tra, truy tố, xét xử Các nguyên tắc của tố tụng hình sự thực chất là những đảm bảo pháp lý cho hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, đồng thời chúng còn là những đảm bảo pháp lý cho bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. BLTTHS năm 2003 đã bổ sung nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử vào hệ thống các nguyên tắc cơ bản của BLTTHS Việt Nam. Đây cũng là một trong những điểm mới của BLTTHS năm 2003 so với BLTTHS năm 1988. Việc đảm bảo cho nguyên tắc hai cấp xét xử được thực hiện trên thực tế là một việc làm rất cần thiết. Tuy nhiên, khi áp dụng các quy định của pháp luật về xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, cũng như giám đốc thẩm và tái thẩm đã xuất hiện một số vướng mắc nhất định, gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng và gây thiệt hại cho những người tham gia tố tụng. Chẳng hạn, về xét xử sơ thẩm, trong cùng một nội dung nhưng một số điều luật tại các phần khác nhau trong BLTTHS năm 2003 chưa thực sự thống nhất với nhau, ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, khiến họ 1
  3. có những phản ứng trước các kết luận trong bản án, quyết định sơ thẩm, dẫn đến bị cáo kháng cáo, VKS kháng nghị bản án. Trong khi đó các quy định của pháp luật về xét xử phúc thẩm cũng còn nhiều hạn chế cần khắc phục. Bởi vậy, việc nghiên cứu nhằm hoàn thiện nguyên tắc này là một đòi hỏi cấp bách trong tình hình hiện nay. Điều này không chỉ có ý nghĩa khoa học và còn có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng. Trong thực tiễn áp dụng pháp luật, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà việc áp dụng nguyên tắc hai cấp xét xử cũng còn nhiều bất cập, việc kháng cáo của bị cáo, kháng nghị của VKS nhiều khi không có căn cứ mà chỉ nhằm trì hoãn, dây dưa, kéo dài việc thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, phát sinh nhiều vấn đề tiêu cực trong xã hội. Từ thực tiễn trên đây đã đặt ra yêu cầu cần thiết phải nghiên cứu một cách toàn diện những quy định của pháp luật về nguyên tắc hai cấp xét xử nhằm làm sáng tỏ về mặt lý luận để áp dụng và thực hiện nghiêm chỉnh, hiệu quả nguyên tắc này trong thực tiễn, nâng cao hiệu quả, chất lượng giải quyết các vụ án hình sự hiện nay, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng. Với những lý do đã nêu trên, tôi chọn đề tài "Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử - Những vấn đề lý luận và thực tiễn" để nghiên cứu trong Luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hiện nay, trong khoa học pháp lý hình sự, nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử đã được một số tác giả quan tâm nghiên cứu, thể hiện trong những cuốn Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự, Nxb tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh năm 2004, giáo trình của các trường đại học và rải rác ở một số bài viết đăng trên các tạp chí Luật học, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, tạp chí Nhà nước và pháp luật như bài viết: "Từ nguyên tắc hai cấp xét xử đến việc tổ chức Tòa án các cấp", đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 10/2004 của Trần Văn Độ; "Nguyên tắc hai cấp xét xử và việc áp dụng 2
  4. nguyên tắc đó vào việc tổ chức tòa án các cấp", đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5/2007 của Trần Văn Độ; "Đổi mới tổ chức hệ thống Tòa án nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử", đăng trên Tạp chí Luật học, số 6/2007 của Vũ Gia Lâm. Tuy nhiên, đây là một nguyên tắc mới được qui định cụ thể trong BLTTHS năm 2003. Do đó, số lượng công trình nghiên cứu về vấn đề này nếu so với các qui định khác của quá trình tố tụng nói chung còn ít. Thiết nghĩ việc tiếp tục nghiên cứu nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử để khắc phục những hạn chế, đưa ra những giải pháp phù hợp là một việc làm cần thiết. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của pháp luật có liên quan đến nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, chỉ ra những mâu thuẫn, vướng mắc trong các quy định của pháp luật cũng như trong quá trình áp dụng trong thực tiễn. Từ đó đề xuất giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định của BLTTHS nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc này. - Để đạt được mục đích trên, tác giả của luận văn thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau: + Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong luật tố tụng hình sự. + Nghiên cứu, phân tích, làm rõ những quy định của BLTTHS Việt Nam về nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm, đồng thời đối chiếu, so sánh để tìm ra các mâu thuẫn và bất cập trong các quy định đó. Riêng đối với cấp xét xử phúc thẩm tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về việc phúc thẩm đối với các bản án hình sự sơ thẩm. + Nghiên cứu, phân tích thực trạng áp dụng nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong những năm gần đây nhằm tìm ra những khó khăn, vướng mắc, tồn tại, bất cập khi vận dụng pháp luật. 3
  5. + Đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử trong BLTTHS Việt Nam. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Đây là đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những đường lối của Đảng, Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền, cải cách nền tư pháp và nền hành chính quốc gia, xây dựng một xã hội công bằng, pháp chế, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Nội dung của đề tài được làm sáng tỏ dựa trên cơ sở nghiên cứu các văn bản pháp luật, các văn bản hướng dẫn áp dụng các quy định pháp luật có liên quan đến nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử và những bài viết trên các báo, tạp chí và các bản tổng kết của ngành Tòa án, VKS, cũng như thực tiễn công tác của bản thân tác giả. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh và phương pháp thống kê. Những kết luận và đề xuất nêu trong luận văn được dựa trên cơ sở phân tích lý luận, cơ sở khoa học, đối chiếu với kết quả khảo sát thực tế, phân tích các báo cáo tổng kết của ngành tòa án trong những năm gần đây cũng như định hướng phát triển của ngành tòa án trong những năm sắp tới. 5. Đóng góp mới của luận văn Đây là luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của BLTTHS hiện hành về nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Kết quả nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn áp dụng, đánh giá đúng thực trạng, từ đó chỉ ra những khó khăn, vướng mắc, nguyên nhân và giải pháp hoàn thiện. Do đó, luận văn có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn, đóng góp vào kho tàng lý luận về luật tố tụng hình sự Việt Nam, là tài liệu tham khảo bổ ích cho những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy, đề xuất sửa đổi, bổ 4
  6. sung BLTTHS về vấn đề này và những người làm công tác thực tế như công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc hai cấp xét xử trong Luật tố tụng hình sự. Chương 2: Những quy định của pháp luật về nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong luật tố tụng hình sự Việt Nam. 5
  7. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. KHÁI NIỆM NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1.1. Cơ sở của nguyên tắc hai cấp xét xử trong luật tố tụng hình sự Nguyên tắc hai cấp xét xử được quy định trong luật tố tụng hình sự Việt Nam và các văn bản pháp luật quốc tế (Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ngày 16/12/1966 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, Quy chế Rom về Tòa án hình sự quốc tế) xuất phát từ các lý do sau: Thứ nhất, đối với nước ta đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong giai đoạn hiện nay vẫn tiếp tục kiên định chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân. Trong đó, mọi hoạt động của cơ quan nhà nước dù ở cấp nào cũng được thực hiện trên cơ sở pháp luật. Xây dựng nhà nước pháp quyền không có nghĩa là chỉ hoàn thiện tổ chức quyền lực Nhà nước mà còn phải xây dựng tổng thể những nền tảng kinh tế, chính trị, pháp lý, văn hóa, nhằm đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Do đó, thực hiện pháp luật tố tụng hình sự theo yêu cầu của sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải đề cao nguyên tắc phản ánh được tính dân chủ, công bằng, nhân đạo và pháp chế. Muốn đạt được như vậy, bên cạnh việc thực hiện các nguyên tắc như: Nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật thì còn phải thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử, vì nguyên tắc này là một bảo đảm cho quá trình tìm ra sự thật khách quan của vụ án, giúp Tòa án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, mọi tội phạm đều phải bị trừng trị đích đáng theo qui định pháp luật đồng thời không truy cứu oan người vô tội, tạo điều kiện cho các bị cáo bảo vệ quyền và lợi ích 6
  8. hợp pháp của mình, góp phần vào việc thực hiện xây dựng nhà nước pháp quyền, tất cả vì mục tiêu con người mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra. Thứ hai, hoạt động xét xử là một hoạt động phức tạp. Ngày nay, trước những chuyển biến về hoàn cảnh thế giới và trong nước, với xu thế phát triển ngày càng cao của khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến làm phát sinh ra ngày càng nhiều loại hình tội phạm mới, tinh vi và phức tạp hơn. Thực tế chỉ ra rằng, các Thẩm phán là chủ tọa phiên tòa mặc dù được đào tạo chuyên môn về luật pháp, có kinh nghiệm xét xử và được bổ trợ những kinh nghiệm thực tế của 02 Hội thẩm nhân dân nhưng có thể vẫn mắc phải những sai lầm do trình độ nhận thức hoặc cảm tính cá nhân. Để khắc phục được những sai sót có thể xảy ra đó, pháp luật tạo điều kiện cho những người tham gia tố tụng sau khi xét xử lần đầu có cơ hội yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại một lần nữa theo thủ tục phúc thẩm. Tòa án cấp trên với Hội đồng xét xử (HĐXX) có số lượng Thẩm phán nhiều hơn có kinh nghiệm hơn sẽ là bảo đảm tốt hơn cho vụ án được giải quyết chính xác, khách quan, công bằng và cũng là cơ hội để Tòa án cấp trên sửa sai cho Tòa án cấp dưới, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Thứ ba, nguyên tắc hai cấp xét xử được áp dụng trên thực tế còn có tác dụng nâng cao tinh thần trách nhiệm của các Thẩm phán xét xử sơ thẩm. Thực tế cho thấy, với khả năng các phán quyết của họ có thể sẽ bị Tòa án phúc thẩm xem xét lại, thậm chí là hủy án sẽ làm cho các Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa ở cấp sơ thẩm thận trọng hơn, cân nhắc kỹ lưỡng, đầu tư nghiên cứu hồ sơ vụ án để có một quyết định chính xác. Mặt khác, nếu Thẩm phán bị phát hiện có dấu hiệu sai lầm trong nghiệm vụ sẽ là dấu ấn không tốt cho việc thăng tiến trong tương lai hoặc tái bổ nhiệm Thứ tư, nguyên tắc hai cấp xét xử bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền bào chữa, hoặc nhờ người khác bào chữa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình tại phiên tòa, có quyền tranh luận tại phiên tòa, nhưng vì lý do nào đó, bị cáo không thực hiện quyền này tại phiên tòa sơ thẩm thì nguyên tắc hai 7
  9. cấp xét xử tạo điều kiện cho bị cáo thực hiện quyền của mình tại phiên tòa phúc thẩm, đồng thời tạo điều kiện cho bị cáo suy ngẫm, ăn năn hối cải, bồi thường khắc phục hậu quả nhằm được hưởng sự khoan hồng của pháp luật, kể cả khi đã có bản án kết tội của Tòa án sơ thẩm. Điều đó thể hiện sự nhân đạo của pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thứ năm, nguyên tắc hai cấp xét xử đảm bảo sự phù hợp giữa pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế trong hoạt động xây dựng pháp luật. Khi xây dựng pháp luật, pháp lệnh, Quốc hội nước ta luôn ưu tiên cho việc ban hành mới hoặc sửa đổi những qui định hiện hành sao cho phù hợp với Điều ước quốc tế, Công ước quốc tế đã ký kết hoặc gia nhập, đảm bảo cho các văn bản pháp luật đó được thực hiện. Điều đó có nghĩa là khi Chủ tịch nước hay người có thẩm quyền ký kết hoặc gia nhập Điều ước quốc tế, Công ước quốc tế thì các văn bản pháp luật quốc tế này phải được xem là một bộ phận của Pháp luật quốc gia. Và do đó, nó phải được tồn tại trong tổng thể thống nhất và phối hợp với pháp luật trong nước. Do đó, việc qui định nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam cũng là một đảm bảo cho sự phù hợp với Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ngày 16/12/1966 mà Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982 trong đó qui định: "Bất cứ người nào bị kết án là phạm tội đều có quyền yêu cầu Tòa án cấp cao hơn xét xử lại bản án và hình phạt đối với mình theo qui định pháp luật". Theo tác giả, trên đây là những cơ sở, lý do cơ bản để pháp luật quốc gia và các văn bản pháp luật quốc tế quy định nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử là một nguyên tắc cơ bản trong hệ thống các nguyên tắc của luật tố tụng hình sự 1.1.2. Nội dung của nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong luật tố tụng hình sự Việt Nam a) Nguyên tắc thực hành hai cấp xét xử được qui định trong các văn bản pháp luật của các quốc gia và văn bản pháp luật quốc tế, theo đó nguyên tắc này bao gồm những nội dung sau: 8
  10. Thứ nhất, bất kỳ một vụ án hình sự nào cũng được xét xử lần đầu tiên tại cấp xét xử sơ thẩm. Đối với một vụ án hình sự, sơ thẩm là cấp xét xử đầu tiên, là lần xử thứ nhất hay còn gọi là cấp xét xử thứ nhất trong hoạt động xét xử của Tòa án. Việc xét xử phát sinh trên cơ sở bản cáo trạng của VKS. Điều này có nghĩa là chỉ khi có cáo trạng truy tố bị can ra Tòa của VKS thì mới có xét xử sơ thẩm. Việc xét xử sơ thẩm một vụ án hình sự được thực hiện thông qua một phiên tòa hình sự sơ thẩm và được diễn ra theo một thủ tục nhất định được quy định trong BLTTHS. Bất kỳ một phiên tòa hình sự sơ thẩm nào dù đơn giản hay phức tạp, dù có một hay nhiều bị cáo cũng đều phải diễn ra theo thủ tục đó. Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, Tòa án giải quyết toàn bộ các vấn đề của vụ án, có nghĩa là trong bản án hình sự sơ thẩm, HĐXX sơ thẩm phải quyết định bị cáo có tội hay không có tội, phạm tội gì, áp dụng điểm, điều, khoản nào trong Bộ luật Hình sự (BLHS). Nếu có nhiều bị cáo thì áp dụng điểm, điều, khoản nào đối với từng bị cáo và quyết định hình phạt chính, hình phạt bổ sung (nếu có). Ngoài ra, HĐXX còn phải quyết định các vấn đề khác như bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng (nếu có), quyết định về phần án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm (nếu có), đồng thời tuyên bố quyền kháng cáo cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Nói cách khác, HĐXX cấp sơ thẩm phải phân tích, đánh giá toàn bộ vụ án, trên cơ sở những vấn đề đã được tranh tụng tại phiên tòa, phân tích những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đánh giá thiệt hại và xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng như lên hướng xử lý vật chứng (nếu có) để đi đến các quyết định trong bản án. Thứ hai, Bản án, quyết định của Tòa án sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật. Tất cả các bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm đều có thể bị kháng cáo, kháng nghị không loại trừ trường 9
  11. hợp nào. Khi có kháng cáo, kháng nghị thì vụ án được xét xử ở cấp xét xử phúc thẩm. Đây là cấp xét xử thứ hai và bao giờ cũng được tiến hành sau cấp xét xử sơ thẩm nhằm sửa chữa những sai lầm trong việc xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm. Đối tượng của phúc thẩm là các bản án, quyết định sơ thẩm và Tòa án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm phải là Tòa án cấp trên của Tòa án đã xét xử sơ thẩm. Như vậy, không phải tất cả các vụ án đều phải trải qua thủ tục sơ thẩm và phúc thẩm mà chỉ những bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì mới được xét xử ở cấp phúc thẩm. Đối với vụ án có kháng cáo, kháng nghị thì bản án chưa được đưa ra thi hành ngay trừ trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ vụ án, không kết tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị cáo, hình phạt không phải là tù giam hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc khi thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam thì bản án hoặc quyết định của tòa án được thi hành ngay (khoản 2 Điều 255) mặc dù vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị, mục đích là đảm bảo quyền lợi cho bị cáo, trả lại tự do cho bị cáo nếu bị cáo không bị giam giữ về một hành vi khác. Khi kháng cáo, kháng nghị thì tòa án cấp sơ thẩm phải chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp phúc thẩm xét xử. Tuy nhiên, trước khi bắt đầu hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo hoặc VKS có quyền bổ sung, thay đổi kháng cáo, kháng nghị nhưng không được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo, rút một phần hoặc toàn bộ kháng cáo, kháng nghị. Trong trường hợp rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị tại phiên tòa thì việc xét xử phúc thẩm phải được định chỉ. Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ khi Tòa án phúc thẩm ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm. Thứ ba, quyền kháng cáo thuộc về bị cáo và những người tham gia tố tụng khác với phạm vi và giới hạn do luật quy định. Tòa án tạo điều kiện cho những người tham gia tố tụng thực hiện quyền kháng cáo của mình. Bị cáo, người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án 10
  12. hoặc quyết định sơ thẩm (Điều 231 BLTTHS). Quyền kháng nghị thuộc về VKS cùng cấp hoặc VKS cấp trên trực tiếp. Thời hạn kháng cáo là mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết. Thời hạn kháng nghị của VKS cùng cấp là mười lăm ngày, của VKS cấp trên trực tiếp là ba mươi ngày, kể từ ngày tuyên án. Trong trường hợp đặc biệt, có lý do chính đáng thì Tòa án có thể chấp nhận kháng cáo quá hạn. Việc chấp nhận hay không chấp nhận được quyết định bởi HĐXX gồm ba Thẩm phán. Thứ tư, đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm hết thời hạn theo quy định của pháp luật mà không có kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật. Khi đó Tòa án sơ thẩm phải ra quyết định thi hành án ngay đối với các bị cáo. Bản án Phúc thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị và có hiệu lực thi hành ngay sau khi bản án được tuyên. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày tuyên án hoặc từ khi ra quyết định Tòa án cấp phúc thẩm phải gửi bản án, quyết định phúc thẩm cho Tòa án cấp sơ thẩm (và các cơ quan khác theo quy định của pháp luật) để Tòa án sơ thẩm ra quyết định thi hành án. Thứ năm, đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án hoặc có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung bản án hoặc quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó thì được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Giám đốc thẩm, tái thẩm là hai hình thức của thủ tục xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có sai lầm và bị kháng nghị. Nó được thực hiện sau khi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật chứ không phải là thủ tục nối tiếp của hai cấp xét xử sơ thẩm, phúc thẩm. Vì vậy, giám đốc thẩm và tái thẩm không được coi là cấp xét xử thứ ba. Việc kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thuộc về VKS, Tòa án. Người phạm tội có quyền kháng cáo 11
  13. đối với các bản án đã có hiệu lực pháp luật. Việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm phải có các căn cứ quy định tại Điều 273, Điều 291 BLTTHS. b) Phân biệt hai cấp xét xử với xét xử một cấp. Xét xử một cấp là chế định về xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm, nghĩa là các bản án chỉ được xét xử một lần là xét xử sơ thẩm. Cơ chế xét xử một cấp tồn tại từ sau Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 14-2-1946 Hồ Chủ tịch đã ký Sắc lệnh số 21/ SL về việc tổ chức Tòa án quân sự (TAQS) quy định: "Tất cả những vụ án phản cách mạng đều được xét xử một lần và là chung thẩm", việc xét xử này thuộc thẩm quyền của TAQS. Đây là văn bản đầu tiên xác định sự ra đời của thủ tục xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm. Từ khi ra đời cho đến nay, thủ tục này được quy định ở nhiều văn bản pháp luật tố tụng khác nhau cụ thể tại Sắc lệnh số 19/SL ngày 16/2/1947 về tổ chức Tòa án binh trên toàn cõi Việt Nam; Sắc lệnh số 45/SL ngày 24/4/1947; Sắc luật số 01 ngày 15 tháng 3 năm 1976; Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (TAND) năm 1981; Luật Tổ chức TAND năm 1992 và BLTTHS năm 1988. Từ năm 1960, Tòa án có thẩm quyền xét xử một lần (chung thẩm) thuộc về Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC). "Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân tối cao đều là chung thẩm và có hiệu lực pháp luật" (Điều 9 Luật Tổ chức TAND năm 1960). Vì vậy, thủ tục xét xử một lần còn được gọi là thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm chứ không gọi là "chung thẩm" như thời kỳ trước. Sự thay đổi về tên gọi này là cần thiết vì nó dễ phân biệt với thủ tục chung thẩm nhưng với ý nghĩa là cấp xét xử thứ hai (sau này gọi là phúc thẩm). BLTTHS năm 1988 ra đời, thủ tục xét xử theo trình tự sơ thẩm đồng thời chung thẩm của TANDTC vẫn tồn tại. Tại khoản 3 Điều 145 BLTTHS năm 1988 quy định: "Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án quân sự cấp cao xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp". Theo Thông tư liên ngành số 02 ngày 22/12/1982 của TANDTC, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC), Bộ Nội vụ, Bộ tư pháp hướng dẫn để xét xử một vụ án hình sự theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm phải hội đủ các điều kiện cần và đủ sau: 12
  14. - Bị cáo phạm những tội đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm an ninh chính trị, tài sản xã hội chủ nghĩa hoặc tài sản công dân, làm cho nhân dân căm phẫn và yêu cầu chính trị của địa phương là phải trừng trị nghiêm khắc, kịp thời. - Bị cáo là những tên phản cách mạng, lưu manh, côn đồ, những tên chuyên làm ăn phi pháp, những cán bộ nhân viên sa đọa, biến chất. - Trong vụ án không có nhiều bị cáo, chứng cứ đã rõ ràng, đầy đủ không còn nghi vấn gì về tội phạm. - Mức độ tội của bị cáo đặc biệt nghiêm trọng, cần phải trừng trị bằng hình phạt cao nhất. Cho đến khi BLTTHS năm 2003 ra đời cơ chế một cấp xét xử mới được thay thế hoàn toàn bởi cơ chế hai cấp xét xử, hủy bỏ thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm của TANDTC. Theo thủ tục xét xử một cấp, bản án, quyết định sơ thẩm đồng thời chung thẩm có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên án. Bị cáo và những người có quyền lợi pháp lý trong vụ án cũng như VKS không được quyền kháng cáo, kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm đồng thời chung thẩm theo thủ tục phúc thẩm. Xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm trong thời điểm nhất định đã góp phần đáng kể vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm đặc biệt là trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh và trong những năm đầu mới giành chính quyền. Nó có ưu điểm là làm cho việc xét xử nhất là các vụ án trọng điểm, án phức tạp nhanh chóng hơn, bản án đã tuyên đảm bảo được tính ổn định, tiết kiệm được chi phí xét xử cũng như thời gian và công sức. Đặc biệt là phù hợp và có hiệu quả đối với việc xét xử các phần tử phản cách mạng chống chính quyền nhân dân, giải quyết dứt điểm các vụ án phản cách mạng đồng thời thể hiện được quyền lực của chính quyền nhân dân, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội và ổn định kinh tế trong những ngày đầu của chính quyền còn non trẻ phải tiếp quản một xã hội đầy khó khăn và tội phạm. Việc xét xử do TANDTC tiến hành với đội ngũ Thẩm phán có trình độ chuyên môn sâu, có nhiều kinh nghiệm 13
  15. nên chất lượng xét xử nhìn chung tốt, đảm bảo xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Song, xét về mặt đảm bảo quyền kháng cáo của người bị kết án nói riêng, quyền con người nói chung thì thủ tục xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm cần được xem xét lại. Điều này xuất phát từ các lý do sau: Thứ nhất, nếu như nguyên tắc hai cấp xét xử bảo đảm bản án quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo qui định của pháp luật, điều này có nghĩa là tất cả các bản án, quyết định của Tòa án sơ thẩm đều có thể bị kháng cáo, kháng nghị không loại trừ bất kỳ trường hợp nào đối với bất kỳ bị cáo nào phạm tội vào bất kỳ loại tội nào kể cả tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Trong khi đó, đối tượng của xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm trước đây chỉ là đối với những vụ án nghiêm trọng, phức tạp, do đó, mức hình phạt tuyên đối với bị cáo thường rất nặng, thậm chí tù chung thân hoặc tử hình mà người bị kết án lại không có quyền kháng cáo, trong khi người phạm tội ít nghiêm trọng hơn lại được kháng cáo. Đó là điều bất hợp lý. Hơn nữa, đây lại là các vụ án có tính phức tạp cao, nếu chỉ xét xử một lần e là khó tránh khỏi những sơ suất có thể phát sinh mà sau này không có cơ hội để sửa chữa lại. Thứ hai, thủ tục xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm đã vi phạm nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo được quy định tài Điều 131 Hiến pháp và Điều 12 BLTTHS năm 1988 (tức Điều 11 BLTTHS năm 2003). Theo nguyên tắc này người bị Tòa án đưa ra xét xử có quyền tự bào chữa cho mình ở cấp sơ thẩm và khi chưa thỏa đáng với bản án, quyết định sơ thẩm thì có quyền kháng cáo bản án để được xét xử lại ở cấp phúc thẩm nhưng nếu họ bị xét xử theo thủ tục sơ thẩm đống thời chung thẩm thì bị cáo sẽ không có quyền yêu cầu xét xử phúc thẩm, vì thế, quyền tự bào chữa của bị cáo đã không thể thực hiện được một cách trọn vẹn. Thứ ba, thủ tục xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm cũng đã vi phạm nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật được quy định tại Điều 52 Hiến pháp và Điều 4 BLTTHS năm 1988. Với nguyên tắc này, tất cả 14
  16. những người tham gia tố tụng có cùng tư cách tố tụng họ đều có quyền và nghĩa vụ pháp lý như nhau, không phân biệt bất kỳ ai, nhưng với thủ tục xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm, bị cáo và những người có quyền kháng cáo trong vụ án đều bị tước mất quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, ngược lại với bị cáo khác nếu bị xét xử theo thủ tục sơ thẩm họ lại có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm. Điều này đã tạo ra sự bất bình đẳng trước pháp luật giữa các bị cáo, quyền của các bị cáo có sự "phân biệt đối xử", không công bằng. Khắc phục những hạn chế đó, để đảm bảo lợi ích cũng như quyền bào chữa của bị cáo, cũng như để phù hợp với pháp luật quốc tế mà cụ thể là Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, nguyên tắc hai cấp xét xử ra đời xóa bỏ chế độ xét xử một cấp sơ thẩm đồng thời là chung thẩm trước đây. Như vậy, việc quy định nguyên tắc thực hiện hai cấp xét xử tại Điều 20 BLTTHS năm 2003 với những nội dung cơ bản như đã nêu trên thể hiện sự tiến bộ trong lập pháp của nước ta trong giai đoạn hiện nay. 1.1.3. Thực hiện chế độ hai cấp xét xử là nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự Việt Nam Nguyên tắc vốn được hiểu là "những quy định, phép tắc, tiêu chuẩn làm cơ sở, chỗ dựa để xem xét, làm việc" [44, tr. 1217]. Do đó, có thể khẳng định nguyên tắc là cái không thể thiếu trong hoạt động thực tiễn của con người, đảm bảo cho những hoạt động đó đi đúng hướng và đạt hiệu quả. Tố tụng hình sự, với tư cách là hoạt động pháp luật của các cơ quan nhà nước được giao nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm phải tuân theo những nguyên tắc nhất định. Trong khoa học luật tố tụng hình sự, nguyên tắc của luật tố tụng hình sự có thể được định nghĩa "là tư tưởng chủ đạo và là định hướng cơ bản được thể hiện trong pháp luật tố tụng hình sự cũng như trong việc giải thích và trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự thông qua một hay nhiều quy phạm (chế định) của nó" [1, tr. 3] 15
  17. Hoạt động xét xử là quy trình Tòa án áp dụng luật vào việc xử lý hành vi phạm tội nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, chế độ kinh tế, chính trị-xã hội, bảo vệ trật tự pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nó là hoạt động trọng tâm của hoạt động tố tụng nói riêng và hoạt động tư pháp nói chung nên cũng không nằm ngoài sự điều chỉnh của các nguyên tắc luật tố tụng hình sự mà đặc trưng là nguyên tắc thực hiện cơ chế hai cấp xét xử. Cấp xét xử được hiểu với nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng cấp xét xử là giai đoạn xem xét lại vụ án tại Tòa án với thẩm quyền xác định. Theo khái niệm này thì cấp xét xử đơn thuần là khái niệm tố tụng chung, thể hiện một giai đoạn xét xử trong quy trình giải quyết vụ án hình sự. Xuất phát từ đây, người ta cho rằng trong pháp luật tố tụng hình sự có các cấp xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm mỗi giai đoạn tương ứng với một cấp xét xử nhất định. Tuy nhiên, có quan điểm lại cho rằng cấp xét xử là hình thức tổ chức tố tụng thể hiện Quyết định của Nhà nước về xét xử các vụ án nhằm bảo đảm tính chính xác, khách quan trong phán quyết của Tòa án, bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân. Hiện nay, theo pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thực hiện theo nguyên tắc hai cấp xét xử. Đó là việc vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn luật định được Tòa án cấp trên trực tiếp xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm. Giám đốc thẩm, tái thẩm chỉ là một thủ tục đặc biệt, xét lại các bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật, mặc dù xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đều là những giai đoạn của tố tụng hình sự nhưng không thể nói chúng là các cấp xét xử khác nhau. Nguyên tắc hai cấp xét xử quy định Tòa án khi xét xử một vụ án hình sự phải đáp ứng các yêu cầu sau: - Bảo đảm đầy đủ các cơ sở pháp lý và tổ chức cho việc xét xử sơ thẩm vụ án một cách khách quan, toàn diện, chính xác, mọi vấn đề đều được cấp sơ thẩm giải quyết 16