Luận văn Nguyên tắc “Thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay

pdf 122 trang vuhoa 25/08/2022 9420
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Nguyên tắc “Thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_nguyen_tac_tham_phan_va_hoi_tham_nhan_dan_xet_xu_do.pdf

Nội dung text: Luận văn Nguyên tắc “Thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THỊ BÍCH DIỆP NGUYÊN TẮC “THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT” TRONG CÔNG CUỘC CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: T.S Nguyễn Ngọc Chí HÀ NỘI - 2007 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
  2. KHOA LUẬT VŨ THỊ BÍCH DIỆP NGUYÊN TẮC “THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT” TRONG CÔNG CUỘC CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2007
  3. Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Bích Diệp - Cao học Luật khóa 10 MỤC LỤC MỤC LỤC 1 MỞ ĐẦU 3 Chương 1: 10 MỘT VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ VỊ TRÍ , VAI TRÕ, QUYỀN HẠN, TRÁCH NHIỆM CỦA THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN 10 1.1. VỊ TRÍ, VAI TRÕ, QUYỀN HẠN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA THẨM PHÁN 10 1.2. VỊ TRÍ, VAI TRÕ, QUYỀN HẠN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA HỘI THẨM NHÂN DÂN. 16 1.3. THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ XÉT XỬ CÓ HỘI THẨM NHÂN DÂN (BỒI THẨM VIÊN) THAM GIA - NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ CỦA NHIỀU NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI. 23 Chương 2: 26 NGUYÊN TẮC “THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT” VÀ NHỮNG QUY ĐỊNH TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 26 2.1. KHÁI NIỆM NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ. 26 2.2. NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC “THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT”. 28 2.2.1. Nội dung cơ bản của nguyên tắc ’’Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật’’. 28 2.2.2. Ý nghĩa của nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. 34 2.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG VÀ CÁC ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC “THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT” 41 2.4. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỚI NGUYÊN TẮC “THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT”. 63 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 69 Chương 3: 70 ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC “THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT” TRONG CÔNG CUỘC CẢI CÁCH TƢ PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 70 1
  4. Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Bích Diệp - Cao học Luật khóa 10 3.1. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC “THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT” TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ Ở NƢỚC TA HIỆN NAY. 70 3.1.1. Về sự tác động từ bên ngoài đến các phán quyết của Hội đồng xét xử. 70 3.1.2. Tính độc lập của Hội thẩm nhân dân. 74 3.2. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC “THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT” TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ Ở NƢỚC TA HIỆN NAY. 76 3.3. HƢỚNG HOÀN THIỆN TRONG CÔNG CUỘC CẢI CÁCH TƢ PHÁP. 94 3.3.1. Hoàn thiện cách thức tổ chức và quản lý Toà án. 94 3.3.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật. 98 3.3.3. Nâng cao năng lực, trình độ và phẩm chất đạo đức cho Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. 105 3.3.4. Nâng cao nhận thức của các Chính trị gia và nhân dân về tầm quan trọng của nền tƣ pháp độc lập. 110 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 111 KẾT LUẬN 112 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 115 2
  5. Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Bích Diệp - Cao học Luật khóa 10 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Có thể nói, hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam thời gian qua nhìn chung đã đạt đƣợc những thành tựu đáng kể, góp phần đẩy lùi tình trạng phạm tội trong xã hội, tuy nhiên còn bộc lộ nhiều yếu kém, còn bỏ lọt tội phạm, làm oan ngƣời vô tội, xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Những điều đó đã tạo nên dƣ luận xã hội không tốt khiến nhân dân thiếu lòng tin vào các cơ quan tƣ pháp và nền công lý xã hội chủ nghĩa. Và một trong những nguyên nhân dẫn đến hiện trạng trên là do nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” ở nƣớc ta chƣa đƣợc thừa nhận và quan tâm đúng mức. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp ở Việt Nam đến năm 2020 đã khẳng định “cần xác định Toà án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm” và “trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân”. Và nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” đã nhận đƣợc sự quan tâm của Bộ Chính trị khi nội dung của nguyên tắc này đƣợc thể chế hoá trong Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hƣớng đến năm 2020”. Nghị quyết khẳng định “Trọng tâm là hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân, bảo đảm Toà án xét xử độc lập, đúng pháp luật, kịp thời và nghiêm minh; phân định thẩm quyền xét xử của Toà án sơ thẩm và Toà án phúc thẩm phù hợp với nguyên tắc hai cấp xét xử. Hoàn thiện cơ chế quản lý Toà án nhân dân địa phƣơng theo hƣớng đảm bảo tính độc lập giữa các cấp Tòa án trong hoạt động 1
  6. Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Bích Diệp - Cao học Luật khóa 10 xét xử”. Chính sự quan tâm đặc biệt của Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng đối với tầm quan trọng của độc lập tƣ pháp cùng với những thiếu sót, khuyết điểm trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự một vài năm trở lại đây là lý do để tôi chọn đề tài: Nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong công cuộc cải cách tƣ pháp ở Việt Nam hiện nay cho luận văn thạc sỹ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu. Đây không phải là lần đầu tiên nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” đƣợc đƣa ra phân tích và nghiên cứu nhƣng có lẽ là lần đầu tiên nguyên tắc này đƣợc nghiên cứu một cách đồng bộ, toàn diện, đặc biệt trong giai đoạn cải cách tƣ pháp ở nƣớc ta hiện nay. Do nội dung của nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” có phạm vi biểu hiện hẹp nên các nhà nghiên cứu trƣớc đây thƣờng chỉ nhắc tới nguyên tắc này theo khía cạnh là một trong những nhiệm vụ và trách nhiệm của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân mà chƣa tìm hiểu sâu cơ chế nào để các thành viên của Hội đồng xét xử có thể thực hiện tốt nguyên tắc độc lập xét xử của Toà án. Bên cạnh đó, nhiều công trình nghiên cứu khi đề cập đến tính độc lập xét xử lại nhìn nhận vấn đề dƣới góc độ so sánh sự độc lập tƣ pháp giữa các nƣớc có nền tƣ pháp phát triển với các nƣớc đang ở trong thời kỳ quá độ. Và nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” cũng thƣờng đƣợc nhắc đến trong nhiều bài viết cũng nhƣ các công trình nghiên cứu khi bàn về vị trí, vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân dƣới góc độ là những ngƣời tiến hành tố tụng. Ví dụ nhƣ các bài viết: "Độc lập xét xử ở các nƣớc quá độ: Một góc nhìn so sánh" của tác giả Lƣu Tiến Dũng đƣợc đăng tải trên tạp chí Toà án nhân dân số 20, 21/2006. 2
  7. Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Bích Diệp - Cao học Luật khóa 10 "Khắc phục tham nhũng tƣ pháp trong khi phải đảm bảo độc lập tƣ pháp" của tác giả J.Clifford Wallace đƣợc đăng tải trên tạp chí Toà án nhân dân số 8/2006. "Một số vấn đề về quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán và yêu cầu hoàn thiện pháp luật" đƣợc đăng tải trên tạp chí Toà án nhân dân số 10/2000 và bài viết "Tiêu chuẩn Thẩm phán - Thực trạng và những yêu cầu đặt ra trong thời kỳ mới" của tác giả Nguyễn Văn Hiện đƣợc đăng tải trên tạp chí Toà án nhân dân số 4/2001. "Mấy ý kiến về đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội thẩm" của tác giả Hoàng Hùng Hải đƣợc đăng tải trên tạp chí Toà án nhân dân số 6/2005. "Để Hội thẩm nhân dân không chỉ là hình thức" của tác giả Nguyễn Khắc Bộ đƣợc đăng tải trên tạp chí Toà án nhân dân số 3/2004. "Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán theo quy định của pháp luật hiện hành" của hai tác giả Phạm Văn Lợi và Trần Thanh Hƣơng đƣợc đăng tải trên tạp chí Toà án nhân dân số 8/1998. Nhƣng có lẽ chƣa ai nghiên cứu sâu về mối quan hệ giữa Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân cũng nhƣ mối quan hệ giữa họ và các chủ thể khác trong hoạt động xét xử cũng nhƣ lý giải câu hỏi tại sao nguyên tắc này chƣa đƣợc áp dụng triệt để tại Việt Nam và hƣớng hoàn thiện trong công cuộc cải cách tƣ pháp ở Việt Nam trong thời gian tới. 3. Mục đích của đề tài. 3.1. Về mặt lý luận. Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận liên quan đến nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” và vai trò của nó trong thực tiễn xét xử tại Việt Nam. 3
  8. Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Bích Diệp - Cao học Luật khóa 10 Góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự nƣớc ta trong bối cảnh cải cách tƣ pháp trên tinh thần của Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị nhằm xây dựng tại Việt Nam hệ tố tụng hoàn chỉnh, tiến bộ và vì con ngƣời. Là tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu. 3.2. Về mặt thực tiễn. Thứ nhất, trong quá trình cải cách tƣ pháp, việc nghiên cứu nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” có vai trò to lớn giúp chúng ta nhìn nhận lại thực tiễn xét xử tại Việt Nam trong thời gian qua và xác định một bƣớc đi đúng đắn cho nền tƣ pháp Việt Nam với mong muốn đƣa Toà án thực sự trở thành cơ quan độc lập, là linh hồn của Nhà nƣớc pháp quyền. Thứ hai, nghiên cứu để tìm ra cách hạn chế bớt sự tác động của các thế lực khác vào hoạt động xét xử với mục đích xây dựng một nền tƣ pháp mạnh, dân chủ, khách quan, công bằng và đem lại lòng tin cho nhân dân vào pháp luật và công lý. 4. Phạm vi nghiên cứu. Trong khuôn khổ của luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu các vấn đề sau: Một vài nét khái quát về vị trí, vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân theo quy định của một số nƣớc thuộc hệ thống pháp luật Common Law và hệ thống pháp luật Civil Law, theo pháp luật Việt Nam và theo quan điểm của các luật gia. Nội dung và ý nghĩa của nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, vị trí của nó trong hệ thống các 4
  9. Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Bích Diệp - Cao học Luật khóa 10 nguyên tắc của luật tố tụng hình sự Việt Nam và những yếu tố đảm bảo cho việc xét xử độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Những quy định của pháp luật thực định thể hiện nội dung của nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” cũng nhƣ nghiên cứu thực tiễn áp dụng nguyên tắc này trong hoạt động xét xử của một số nƣớc trên Thế Giới. Thực trạng áp dụng nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, các yếu tố ảnh hƣởng đến việc áp dụng nguyên tắc này tại Việt Nam và hƣớng hoàn thiện trong công cuộc cải cách tƣ pháp trong thời gian tới. Nói tóm lại, cơ cấu của Luận văn gồm ba phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Trong đó phần nội dung gồm có ba chƣơng: Chƣơng 1: Một vài nét khái quát về vị trí, vai trò, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Chƣơng 2: Nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” và những quy định trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Chƣơng 3: Áp dụng nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong công cuộc cải cách tƣ pháp ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp. Cuối cùng là: Danh mục tài liệu tham khảo. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu. Trong bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học xã hội nào, để đạt đƣợc sự thành công thì một yếu tố mà ngƣời ta không thể không nhắc đến là phƣơng pháp nghiên cứu. Ở nƣớc ta, phƣơng pháp luận của tất cả các tác giả 5
  10. Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Bích Diệp - Cao học Luật khóa 10 khi nghiên cứu về khoa học pháp lý đều bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác - Lê nin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về Nhà nƣớc và pháp luật. Là công trình nghiên cứu về pháp luật tố tụng hình sự nên ngoài những phƣơng pháp luận truyền thống, các phƣơng pháp cụ thể đƣợc sử dụng trong quá trình thực hiện luận văn là phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử. Bên cạnh đó, luận văn còn có sự tham khảo các bài viết, các ý kiến của các chuyên gia trong và ngoài nƣớc khi bàn về nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. 6. Điểm mới về mặt khoa học. Nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” không phải là vấn đề mới về mặt lý luận vì nó đã lần đầu đƣợc nhắc đến trong các văn bản pháp luật ngay sau khi chúng ta giành đƣợc độc lập vào năm 1945 và đƣợc tiếp tục khẳng định là một trong những nguyên tắc hiến định trong các bản Hiến pháp tiếp theo. Trên thực tế, chúng ta chỉ có thể tập trung nghiên cứu và nghiên cứu tốt những vấn đề mà thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải giải quyết. Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 24/5/2005 cũng đã khẳng định “Trọng tâm là hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân, bảo đảm Toà án xét xử độc lập Hoàn thiện cơ chế quản lý Toà án nhân dân địa phƣơng theo hƣớng đảm bảo tính độc lập giữa các cấp Toà án trong hoạt động xét xử”. Có thể, đây là lần đầu tiên nguyên tắc này đƣợc lựa chọn làm đề tài cho một luận văn thạc sỹ và cũng là lần đầu tiên những vấn đề liên quan đến nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” đƣợc trình bày một cách đồng bộ và có hệ thống. Bởi vậy, luận văn không chỉ phân tích một cách kỹ lƣỡng nội dung, ý nghĩa và những yếu tố có 6
  11. Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Bích Diệp - Cao học Luật khóa 10 thể làm ảnh hƣởng đến tính độc lập xét xử của Tòa án mà còn trả lời cho câu hỏi chúng ta phải làm những gì đề nguyên tắc này có thể đƣợc áp dụng triệt để tại Việt Nam? Nhiều ngƣời cho rằng đây là một đề tài có phạm vi hẹp nên ngƣời viết có thể sẽ gặp khó khăn khi xây dựng đề cƣơng và tìm kiếm những tài liệu tham khảo. Nhƣng hy vọng với tâm huyết và lòng nhiệt tình của mình, tác giả sẽ đóng góp một chút công sức nhỏ bé cho công cuộc cải cách tƣ pháp đang đƣợc Đảng, Nhà nƣớc và những ngƣời yêu mến nghề luật quan tâm./. 7
  12. Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Bích Diệp - Cao học Luật khóa 10 Chương 1: MỘT VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ VỊ TRÍ , VAI TRÒ, QUYỀN HẠN, TRÁCH NHIỆM CỦA THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN 1.1. VỊ TRÍ, VAI TRÒ, QUYỀN HẠN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA THẨM PHÁN. Thẩm phán dù ở quốc gia nào, châu lục nào và thuộc hệ thống pháp luật nào thì cũng đều có nhiệm vụ xét xử và làm việc trong một cơ quan nhà nƣớc có tên gọi là Toà án (đôi khi là giải quyết các công việc khác theo quy định của pháp luật mỗi nƣớc). Tuy nhiên, trên Thế Giới tuỳ thuộc vào từng hệ thống pháp luật mà cách thức chọn lựa Thẩm phán và nhiệm vụ, quyền hạn của các Thẩm phán đƣợc quy định không giống nhau. Theo hệ thống pháp luật Common Law, nguồn để bổ nhiệm Thẩm phán chính là từ các vị luật sƣ danh tiếng và tài giỏi. Tiêu biểu cho hệ thống pháp luật này là Vƣơng quốc Anh và Hoa Kỳ. Tại hai quốc gia này, các vị Thẩm phán đều có xuất thân từ các luật sƣ tranh tụng hoặc luật sƣ tƣ vấn danh tiếng vì tâm lý chung đều chỉ ra nếu không có trình độ ngang bằng hoặc xuất sắc hơn các luật sƣ thì một Thẩm phán thật khó có thể đảm đƣơng vị trí trọng tài trong một phiên toà. Cũng theo hệ thống pháp luật này, khi tham gia xét xử, nhiệm vụ và quyền hạn của Thẩm phán có rất nhiều khác biệt. Đơn cử nhƣ ở Anh, trong tố tụng nói chung và tố tụng hình sự nói riêng, Thẩm phán thể hiện vai trò thụ động hơn các luật sƣ. Theo pháp luật Anh, về nguyên tắc, việc tiến hành các thủ tục tố tụng là trách nhiệm của các bên (thông qua luật sƣ của mình). Vai trò chính của các Thẩm phán trong khi xét xử là đảm bảo sự tuân thủ của các thủ tục tố tụng, ở Anh có câu thành ngữ “Thẩm phán nào mở miệng nói thì không còn suy nghĩ đƣợc” [13, tr. 96]. Thậm chí vào năm 1955, tại Anh, Toà phúc thẩm đã gửi trả một vụ việc để xét xử lại với lý do duy nhất là Thẩm phán xử sơ thẩm vụ kiện đó đã hỏi quá nhiều, làm cho các bên không thể xuất trình đƣợc 8
  13. Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Bích Diệp - Cao học Luật khóa 10 chứng cứ tốt nhất [13, tr. 96]. Câu thành ngữ trên, nếu ở các nƣớc theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa, có lẽ cần đƣợc phát biểu là “Thẩm phán nào không mở miệng nói thì không xét xử đƣợc” và đối với nhiều luật gia trên Thế Giới, vụ việc bị cấp phúc thẩm huỷ vào năm 1955 ở Anh là một điều lạ lùng trong lịch sử tƣ pháp. Vƣơng quốc Anh là quê hƣơng của mô hình đối tụng và Hoa Kỳ chính là nơi hệ tố tụng tranh tụng đƣợc hoàn thiện, phát triển rực rỡ và phiên toà trong hệ tố tụng tranh tụng chính là minh chứng rõ nét nhất cho sự khác biệt trong quyền hạn của Thẩm phán tại các nƣớc theo hệ thống pháp luật Common Law với các nƣớc theo truyền thống pháp luật Civil Law. Theo quy định của hệ thống pháp luật Anh - Mỹ, khi xét xử Thẩm phán không đƣợc nghiên cứu hồ sơ từ trƣớc, không có bất kỳ thông tin nào về vụ án và tại phiên toà, với vai trò trọng tài, quyền hạn của các Thẩm phán sẽ chỉ đƣợc phát huy khi Bồi thẩm đoàn đƣa ra phán quyết bị cáo là ngƣời có tội. Bởi theo quy định của pháp luật, Thẩm phán có nghĩa vụ xác định tội danh cũng nhƣ mức hình phạt đƣợc áp dụng đối với bị cáo. Tại phiên toà hình sự theo hình thức tố tụng tranh tụng của các nƣớc thuộc hệ thống pháp luật Anh - Mỹ, không có sự liên hệ, ràng buộc giữa Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà và các bị cáo trong một vụ án hình sự. Bởi lẽ, Thẩm phán không tham gia xét hỏi bị cáo và càng không có nhiệm vụ chứng minh tội phạm nhƣ một tầng nấc cao hơn của hoạt động điều tra. Và với vị trí, vai trò nhƣ thế, Thẩm phán chỉ phải chịu trách nhiệm trong phạm vi và quyền hạn do luật định, cụ thể họ phải chịu trách nhiệm về những phán quyết của mình đối với việc xác định tội danh và mức hình phạt đƣợc áp dụng đối với các bị cáo. Còn tại một số quốc gia theo hệ thống pháp luật Civil Law, thì ứng viên Thẩm phán thông thƣờng là các giáo sƣ luật hoặc thƣ ký Toà án hoặc những 9
  14. Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Bích Diệp - Cao học Luật khóa 10 chức danh khác đang công tác tại Toà án nhƣng đều phải có một điểm chung là đƣợc đào tạo một cách bàn bản và có chuyên môn về luật. Và ngƣời ta gọi pháp luật của hệ thống Châu Âu lục địa là pháp luật hàn lâm, các luật gia của hệ thống pháp luật này là các luật gia “sách vở”. Không giống nhƣ ở các nƣớc theo hệ thống pháp luật Anh - Mỹ, nơi mà các Thẩm phán đều trƣởng thành từ việc áp dụng thực tiễn pháp luật, ở các nƣớc theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa, thông thƣờng nguồn bổ nhiệm Thẩm phán đều từ các trung tâm đào tạo về chức danh tƣ pháp của quốc gia. Đơn cử nhƣ tại Nhật Bản, nguồn bổ nhiệm Thẩm phán thông thƣờng có 3 cách: một là bổ nhiệm Thẩm phán trong số các Thẩm phán cấp dƣới hoặc trong số các luật sƣ, trong số các công tố viên, giáo sƣ đại học luật hoặc thậm chí những ngƣời khác có hiểu biết rộng về pháp luật và có kinh nghiệm. Thông thƣờng, ở nhiều quốc gia, việc bổ nhiệm Thẩm phán đƣợc tiến hành trên cơ sở chọn lựa của Hội đồng tuyển chọn sau khi nhận đƣợc đề cử của các cán bộ trong ngành thông qua việc tổ chức lấy phiếu tín nhiệm. Nhƣng tại nhiều quốc gia Châu Âu và các quốc gia đang phát triển ở Châu Á, châu Phi và khu vực Nam Mỹ, ứng cử viên Thẩm phán phải vƣợt qua một kỳ thi đầy cạnh tranh. Ví dụ, tại Nhật Bản - một quốc gia phát triển thuộc diện hàng đầu trong khu vực, để trở thành Thẩm phán thí sinh phải trải qua kỳ thi pháp luật quốc gia để vào học tại Viện nghiên cứu và đào tạo pháp luật thuộc Toà án Tối cao, kỳ thi này bao gồm có 3 bƣớc và đƣợc đánh giá là một trong những kỳ thi khó khăn nhất ở Nhật Bản. Điều này có thể đƣợc minh chứng qua các thông số sau đây, vào những năm 60-80 của thế kỷ trƣớc, hàng năm, ở Nhật Bản có khoảng 25.000 thí sinh tham dự kỳ thi quốc gia này nhƣng chỉ có khoảng 500 ngƣời thi đỗ (tỷ lệ khoảng 2%) và vào cuối thập kỷ 90, tuy con số thí sinh tham dự ngày càng tăng nhƣng mỗi năm số thí sinh thi đỗ cũng chỉ dừng lại ở mức khoảng hơn 700 thí sinh [13, tr. 153]. Nhƣng điều đáng nói ở đây là nếu đã vƣợt qua đƣợc kỳ thi này, học viên 10
  15. Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Bích Diệp - Cao học Luật khóa 10 sẽ đƣợc Chính phủ cấp lƣơng trong thời gian 2 năm học và khi ra trƣờng họ sẽ thực sự là những vị quan toà công minh và tài giỏi, đem lại niềm tin cho nhân dân vào pháp luật và công lý. Và cái khó của nghề Thẩm phán ở Nhật Bản là sau khi đƣợc đào tạo một cách bài bản và nghiêm túc ở Viện nghiên cứu và đào tạo pháp luật, một học viên phải trả qua 10 năm làm Thẩm phán tập sự trƣớc khi đƣợc bổ nhiệm chính thức. Nhƣ vậy, có thể thấy rất rõ mức độ khó khăn và sự danh giá của nghề Thẩm phán ở một trong những nƣớc có nền kinh tế phát triển vào bậc nhất trên Thế Giới và đƣơng nhiên không ai có thể đặt ra nghi vấn xung quanh vấn đề trình độ của các “luật gia quyền lực” nhƣ cách mà các luật sƣ ở Nhật Bản gọi Thẩm phán và các Công tố viên. Ở một số nƣớc theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa - nơi áp dụng hình thức tố tụng thẩm vấn, khi xét xử một vụ án hình sự, thông thƣờng không có sự tách bạch giữa quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán và các Bồi thẩm viên (Hội thẩm nhân dân) vì họ cùng xác định bị cáo có tội hay không có tội cũng nhƣ xác định tội danh và mức hình phạt đƣợc áp dụng đối với bị cáo. Theo hệ thống pháp luật Civil Law, Thẩm phán đóng vai trò quyết định trong quá trình xét xử, Thẩm phán có trong tay toàn bộ tài liệu về quá trình điều tra, là ngƣời đặt câu hỏi cho những ngƣời tham gia phiên toà. Vị trí của luật sƣ gỡ tội rất lu mờ. Luật sƣ chỉ đƣợc phát biểu khi Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà cho phép. Thậm chí ở một số nƣớc theo hệ thống này, Thẩm phán còn làm nhiệm vụ điều tra, hoặc đánh giá sự cần thiết đƣa vụ án ra xét xử. Hiện nay, ở một số nƣớc đang trong thời kỳ quá độ hoặc đang tiếp thu những hạt nhân hợp lý của hệ tranh tụng, về quyền hạn và nhiệm vụ của Thẩm phán tuy cũng đã có sự tách bạch so với Bồi thẩm đoàn (về việc phán quyết bị cáo có tội hay không có tội và xác định tội danh cũng nhƣ mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo) nhƣng đâu đó vẫn có sự khác biệt, ví dụ có nơi Thẩm phán trƣớc khi xét xử vẫn đƣợc nghiên cứu hồ sơ hay nhƣ ở Nhật Bản trƣớc khi mở phiên toà, 11
  16. Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Bích Diệp - Cao học Luật khóa 10 Thẩm phán phải đƣợc đọc bản cáo trạng và tại phiên toà Công tố viên phải chuyển hồ sơ cho Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà nghiên cứu và xem xét. Nhƣ vậy, điểm khác biệt lớn nhất giữa hình thức tố tụng thẩm vấn truyền thống và hình thức tố tụng tranh tụng là tại phiên toà hình sự, trong khi tố tụng tranh tụng coi Thẩm phán nhƣ một vị trọng tài thì tố tụng thẩm vấn cổ điển coi Thẩm phán nhƣ một điều tra viên cấp cao với nhiệm vụ chủ yếu là làm rõ hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết có liên quan để từ đó đƣa ra phán quyết cuối cùng. Với quy định nhƣ vậy, Thẩm phán sẽ phải chịu trách nhiệm về toàn bộ hành vi của mình từ việc phán quyết bị cáo có tội hay không có tội đến việc xác định tội danh và mức hình phạt đƣợc áp dụng đối với bị cáo. Theo quy định của pháp luật Việt Nam “Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Toà án”. Việt Nam là quốc gia về cơ bản theo mô hình tố tụng thẩm vấn, tức là Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán trong việc xác định bị cáo có phạm tội hay không cũng nhƣ xác định tội danh và mức hình phạt đƣợc áp dụng đối với bị cáo. Cũng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành, Hội đồng xét xử trong đó có Thẩm phán phải thực hiện nhiệm vụ xác định đầy đủ các tình tiết về từng sự việc và về từng tội của vụ án cũng nhƣ có nhiệm vụ chứng minh hành vi phạm tội, ngƣời thực hiện tội phạm và những vấn đề có liên quan đến việc quyết định hình phạt. Để thực hiện đƣợc nhiệm vụ đó, Thẩm phán có quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án trƣớc khi mở phiên toà và đƣơng nhiên với một quyền năng lớn đến thế, Thẩm phán phải chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật về toàn bộ hành vi của mình bao gồm cả việc công bố những phán quyết oan, sai và việc quyết định khung và mức hình phạt bất hợp pháp. Tuy nhiên để trở thành Thẩm phán, pháp luật Việt Nam cũng có những tiêu chuẩn khá rõ 12
  17. Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Bích Diệp - Cao học Luật khóa 10 ràng nhƣ: phải có bằng đại học luật, phải có thâm niên công tác pháp luật và đặc biệt phải tham gia một khoá học đào tạo chức danh Thẩm phán. Việc bổ nhiệm Thẩm phán đƣợc tiến hành thông qua Hội đồng tuyển chọn (gồm có đại diện của Ban tổ chức chính quyền, đại diện của Hội đồng nhân dân, đại diện của Hội luật gia và đại diện của ngƣời đứng đầu ngành Toà án tuỳ theo từng cấp) sau khi các ứng viên đã đƣợc đồng nghiệp tín nhiệm chọn lựa. Tại Việt Nam, theo quan điểm của nhiều ngƣời trong ngành, Thẩm phán là công chức Nhà nƣớc làm một nghề đặc biệt. Thẩm phán cũng cần sự mẫn cán và tài năng khi cho ra đời các sản phẩm trí tuệ, đó là các bản án. Theo quan niệm dân gian, Thẩm phán thƣờng đƣợc gọi dƣới cái tên thân mật là quan toà (quan phụ mẫu) với hình dáng trang nghiêm và đem lại công lý cho xã hội. Từ xa xƣa khi mà ngƣời dân còn chƣa biết đến khái niệm Thẩm phán thì hình ảnh của những vị quan toà chính trực, công minh, hiện thân cho lẽ phải và chân lý đã luôn khắc sâu trong tim họ. Hình ảnh một vị quan thanh liêm đã đƣợc họ ví nhƣ trời xanh, bởi quan niệm duy tâm thƣờng cho rằng không gì có thể che mắt đƣợc trời xanh, “lƣới trời lồng lộng, tuy thƣa mà khó lọt”. Vì vậy, ngƣời dân dù sống trong thời đại nào cũng đều mong muốn các vị quan toà có tấm lòng và phẩm cách trong sáng, vô tƣ để gìn giữ và bảo vệ lẽ công bằng trong xã hội. Nói tóm lại, hoạt động xét xử của ngƣời thẩm phán bao gồm những đặc điểm, đặc trƣng sau: Lao động của Thẩm phán là lao động trí não đầy khó khăn, phức tạp dƣới sự giám sát nghiêm ngặt của xã hội, công dân. Hoạt động của ngƣời Thẩm phán gắn với việc áp dụng các biện pháp cƣỡng chế liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân, tổ chức; Độc lập xét xử là nguyên tắc cơ bản đối với lao động của ngƣời thẩm phán. 13
  18. Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Bích Diệp - Cao học Luật khóa 10 Hoạt động của ngƣời thẩm phán theo một trình tự pháp lý chặt chẽ đƣợc quy định trong pháp luật tố tụng [47, tr. 43]. 1.2. VỊ TRÍ, VAI TRÒ, QUYỀN HẠN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA HỘI THẨM NHÂN DÂN. Trong những năm xa xƣa của lịch sử, khi khái niệm Hội thẩm nhân dân chƣa còn đƣợc biết đến thì việc xử án chỉ do một vị quan đảm nhiệm, điều này đƣợc lý giải bởi nguyên do: nhân dân là tầng lớp dƣới nên không thể tham gia vào bất kỳ công việc nào của đất nƣớc. Nhƣng kể từ khi Cách mạng tƣ sản nổ ra, nhà cầm quyền đã hiểu ra rằng một nhà nƣớc chỉ có thể tồn tại và phát triển nếu dựa vào sức dân và một động thái tích cực là họ đã cho nhân dân tham gia ngày một nhiều hơn vào công việc chung của đất nƣớc, mà một trong những công việc đó là hoạt động xét xử. Tuỳ thuộc vào từng hệ thống pháp luật và các hình thức tố tụng mà các vị đại biểu của nhân dân khi tham gia hoạt động xét xử có tên gọi khác nhau. Ở một số nƣớc theo hệ tố tụng tranh tụng - nơi mà khi xử án các vị đại biểu của nhân dân chỉ có quyền phán xét bị cáo có tội hay không có tội thì họ đƣợc gọi là Bồi thẩm viên và làm việc trong một cơ quan có tên gọi là Bồi thẩm đoàn. Ngay danh từ “bồi thẩm” đã cho chúng ta thấy, các thành viên của cơ quan này không ngang quyền với các Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà mà đơn giản họ chỉ là những ngƣời đồng hành cùng các Thẩm phán, họ cùng các Thẩm phán đi trên một con đƣờng nhƣng mỗi ngƣời làm một công việc khác nhau. Cụ thể, họ giúp các Thẩm phán xác định bị cáo có tội hay không có tội vì thực tế đã chỉ ra không ai thích hợp hơn nhân dân trong việc đƣa ra phán quyết một hành vi nhƣ thế nào là nguy hiểm cho xã hội và ngƣời thực hiện hành vi đó có phải là kẻ phạm tội hay không? Các luật gia theo hệ thống pháp luật Anh - Mỹ thƣờng coi chế định Bồi thẩm đoàn là sự ƣu việt của hệ thống pháp luật này và các đại biểu của nhân dân cũng cảm thấy rất hài lòng về 14
  19. Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Bích Diệp - Cao học Luật khóa 10 những “quyền lực” mà các nhà lãnh đạo đã dành cho họ. Nhƣng khi các nƣớc theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa truyền thống quyết định đƣa chế định Bồi thẩm đoàn vào hoạt động tố tụng hình sự của nƣớc mình thì chƣa kịp định hình, chế định này đã nhanh chóng “chết yểu”. Ngƣời ta cho rằng chế định Bồi thẩm đoàn vốn không thích hợp với các quốc gia có “mặc cảm” với nền dân chủ quá trớn, đặc biệt là những quốc gia còn mang đậm dấu ấn văn hoá phƣơng Đông. Ví dụ nhƣ ngƣời Nhật thích đƣợc một Thẩm phán chuyên nghiệp xét xử hơn là những ngƣời hàng xóm của mình [13, tr. 152] cũng giống nhƣ ngƣời Trung Quốc hay ngƣời Việt Nam chƣa sẵn sàng khi giao vận mệnh của mình vào tay những ngƣời mà sau khi phiên xử kết thúc họ lại trở về với công việc đồng áng hay chăn nuôi gia súc. Đơn cử nhƣ tại Cộng hoà Pháp - một quốc gia theo truyền thống pháp luật Châu Âu lục địa lâu đời, chế định Bồi thẩm đoàn đã phát triển qua ba thời kỳ khác nhau. Đầu tiên là vào thời gian sau cách mạng 1789, tức vào khoảng năm 1808, đoàn bồi thẩm ở Pháp chỉ có quyền phát biểu ý kiến về sự việc và tính chất tội phạm, còn các Thẩm phán chuyên nghiệp xét xử về mặt pháp luật và định mức hình phạt. Nhƣng sự phân biệt giữa trách nhiệm của Thẩm phán chuyên nghiệp và các bồi thẩm đã dẫn đến hệ quả tiêu cực khi Bồi thẩm nhận định bị cáo đúng là đã phạm tội và phải chịu hình phạt nhƣng vì muốn một mức hình phạt nhẹ hơn cho bị cáo mà lại không biết chắc chắn mức hình phạt do các Thẩm phán chuyên nghiệp sẽ tuyên nhƣ thế nào nên họ nói rằng không đủ yếu tố để cấu thành tội phạm trong hành vi của bị cáo và nhƣ vậy bị cáo đã đƣợc xử trắng án. Chính vì lẽ đó, để chấm dứt tình trạng trên có thể tiếp tục xảy ra, năm 1932 với sự sửa đổi của pháp luật thì ở Pháp, đoàn bồi thẩm đƣợc quyền phát biểu ý kiến về tình tiết vụ việc và cùng các Thẩm phán chuyên nghiệp quyết định mức hình phạt và năm 1941, nguyên tắc xét xử tập thể tuyệt đối đƣợc đảm bảo giữa Bồi thẩm và Thẩm phán chuyên nghiệp, có nghĩa là Thẩm phán 15
  20. Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Bích Diệp - Cao học Luật khóa 10 chuyên nghiệp và Bồi thẩm cùng tham gia xét xử về sự việc, các vấn đề pháp luật cũng nhƣ mức hình phạt [41, tr. 25]. Hay nhƣ tại CHLB Nga, sau khi chế định Bồi thẩm đoàn đƣợc thiết lập trong công cuộc cải cách tƣ pháp đã ngay lập tức gặp phải sự phản ứng dữ dội của ngƣời dân đối với cái gọi là “tính chuyên nghiệp” của ngƣời xét xử. Vụ án sát hại sinh viên Việt Nam Vũ Anh Tuấn do các Toà án ở Nga xét xử trong thời gian gần đây với phán quyết vô tội dành cho những kẻ sát nhân của đoàn bồi thẩm thật không thể không khiến ngƣời ta nghi ngờ về khả năng và trình độ xét xử của Bồi thẩm đoàn. Đối với các nƣớc theo truyền thống pháp luật Anh - Mỹ, vấn đề trách nhiệm của Bồi thẩm đoàn thƣờng không đƣợc xem xét quá khắt khe vì với "xuất thân" khá đa dạng và phong phú, không thể đòi hỏi các Bồi thẩm viên đánh giá sự việc vƣợt quá tầm hiểu biết của họ. Các Bồi thẩm viên trong phiên toà hình sự tại các nƣớc theo truyền thống pháp luật Common Law, về bản chất là những vị giám khảo đánh giá sự việc theo lăng kính chủ quan của mình, vì vậy không thể tránh khỏi những phán quyết mà họ đƣa ra chƣa chuẩn xác, bất hợp lý và gây phản cảm. Nhƣng nói tóm lại, dù quyết định của Đoàn bồi thẩm là đúng hay sai thì theo hệ thống pháp luật Anh - Mỹ, thật khó để truy cứu trách nhiệm của các thành viên Bồi thẩm đoàn vì không giống nhƣ Thẩm phán, pháp luật của các nƣớc thuộc hệ thống Common Law cho phép các Bồi thẩm viên đƣợc tự do đƣa ra phán quyết dựa trên niềm tin nội tâm (nhiều khi mang tính chủ quan) của mình. Theo tƣ duy của những luật gia tôn sùng hệ tố tụng tranh tụng, tại phiên toà hình sự, nhiệm vụ quan trọng nhất của Luật sƣ và Công tố viên là thuyết phục đƣợc Bồi thẩm đoàn bằng những lập luận hợp lẽ chứ không phải nghĩ đủ cách để quy kết trách nhiệm cho các thành viên của Bồi thẩm đoàn. Bởi vậy, rất có khả năng, trách nhiệm của Đoàn bồi thẩm sẽ không đƣợc xem xét dù phán quyết mà họ đƣa ra không thoả đáng và không đƣợc số đông đồng tình ủng hộ (nhƣ trƣờng hợp của đoàn bồi thẩm ở Toà 16