Luận văn Nguyên tắc suy đoán vô tội trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Nguyên tắc suy đoán vô tội trong luật tố tụng hình sự Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_nguyen_tac_suy_doan_vo_toi_trong_luat_to_tung_hinh.pdf
Nội dung text: Luận văn Nguyên tắc suy đoán vô tội trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÂM ANH TUẤN NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016 1
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÂM ANH TUẤN NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Quốc Toản HÀ NỘI - 2016 2
- Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch•a tõng ®•îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n L©m Anh TuÊn 3
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC SUY 6 ĐOÁN VÔ TỘI TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm, nội dung, phạm vi và ý nghĩa của nguyên tắc suy 6 đoán vô tội 1.1.1. Khái niệm suy đoán vô tội 6 1.1.2. Nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội 12 1.1.3. Phạm vi áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội 18 1.1.4. Ý nghĩa của nguyên tắc suy đoán vô tội 22 1.2. Mối quan hệ giữa nguyên tắc suy đoán vô tội với một số 26 nguyên tắc khác của luật tố tụng hình sự 1.2.1. Nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc tranh tụng trong 26 xét xử 1.2.2. Nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc bảo đảm quyền 28 bào chữa 1.2.3. Nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc Thẩm phán, Hội 30 thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật 1.3. Nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật quốc tế và pháp 31 luật của một số nước 1.3.1. Nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật quốc tế 31 1.3.2. Nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật của một số nước 36 4
- Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH LIÊN QUAN ĐẾN SUY ĐOÁN VÔ TỘI 43 TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN TRƯỚC KHI BAN HÀNH BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 2.1. Các quy định liên quan đến suy đoán vô tội trong pháp luật 43 hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 2.1.1. Các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến suy đoán 43 vô tội trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 2.1.2. Các quy định liên quan đến suy đoán vô tội trong Bộ luật tố 47 tụng hình sự năm 1988 2.2. Các quy định liên quan đến suy đoán vô tội trong Bộ luật tố 51 tụng hình sự năm 2003 2.2.1. Các nguyên tắc liên quan đến suy đoán vô tội 52 2.2.2. Về quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia tố tụng hình sự 53 2.2.3. Về thủ tục xét xử tại phiên tòa 56 2.3. Thực tiễn áp dụng các quy định liên quan đến suy đoán vô tội của 58 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và những bất cập, vướng mắc 2.3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định liên quan đến suy đoán vô 58 tội của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 2.3.2. Những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy 61 định liên quan đến suy đoán vô tội của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 2.3.3. Nguyên nhân của những bất cập, vướng mắc trong áp dụng 66 các quy định liên quan đến suy đoán vô tội của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 Chương 3: NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI TRONG BỘ LUẬT 70 TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC NÀY TRONG THỰC TIỄN 3.1. Nguyên tắc suy đoán vô tội và các quy định có liên quan 70 trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 5
- 3.1.1. Khái quát về Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 70 3.1.2. Phần thứ nhất của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 72 3.1.3. Phần thứ hai và Phần thứ ba của Bộ luật tố tụng hình sự 77 năm 2015 3.1.4. Phần thứ tư của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 78 3.2. Một số giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô 79 tội trong thực tiễn 3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện một số quy định về suy đoán vô tội của 79 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 3.2.2. Tăng cường công tác phổ biến giáo dục và hướng dẫn áp 85 dụng Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự mới 3.2.3. Các giải pháp khác 87 KẾT LUẬN 88 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 90 6
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra HĐXX : Hội đồng xét xử HLPL : Hiệu lực pháp luật SĐVT : Suy đoán vô tội TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao TTHS : Tố tụng hình sự VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao XHCN : Xã hội chủ nghĩa 7
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tố tụng hình sự (TTHS) là một lĩnh vực đụng chạm trực tiếp tới các quyền tự do, dân chủ, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là người bị bắt giữ, bị can, bị cáo. Vì vậy, chống lại sự lạm quyền và bảo vệ có hiệu quả quyền con người, quyền công dân trong TTHS là một trong những nội dung rất quan trọng được cộng đồng quốc tế và mỗi quốc gia đều quan tâm: Nhân quyền và các quyền tự do cơ bản là quyền của mọi người khi được sinh ra; việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền đó là trách nhiệm trước tiên của các Chính phủ Việc đề cao và bảo vệ tất cả các quyền con người và các quyền tự do cơ bản phải được coi là một mục tiêu ưu tiên của Liên hợp quốc , là mối quan tâm chính đáng của cộng đồng quốc tế [23, tr. 656-657]. Để đạt mục tiêu trên, các văn kiện quan trọng của Liên hợp quốc đã quy định các nguyên tắc và điều kiện cần thiết, trong đó suy đoán vô tội (SĐVT) được ghi nhận là quyền con người, quyền cơ bản của mọi cá nhân và là một nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế: "Bất kỳ người bị buộc tội nào đều có quyền được suy đoán là không phạm tội , được coi là vô tội cho tới khi hành vi phạm tội được chứng minh theo pháp luật" [31, Điều 14]. Ngày nay hầu hết pháp luật của các quốc gia đều thừa nhận SĐVT là một nguyên tắc cơ bản của TTHS. Năm 1982 Việt Nam gia nhập Công ước quốc tế năm 1966 và cam kết thực hiện các nguyên tắc của Công ước này, trong đó có nguyên tắc SĐVT. Lần đầu tiên SĐVT được ghi nhận với tư cách là một nguyên tắc trong Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) đầu tiên (năm 1988) của nước ta (Điều 10), là một quyền cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 1992 (Điều 72) và là một trong các quyền con người trong Hiến pháp năm 2013 (khoản 1 Điều 31): "Người bị buộc tội được coi là không có 8
- tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật" [57]. Các nguyên tắc hiến định khác (như: Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập ; bảo đảm tranh tụng trong xét xử; chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm ) cũng được Hiến pháp mới bổ sung với nội dung rõ ràng, cụ thể hơn. Một số đạo luật khác như: Luật tổ chức Tòa án nhân dân (TAND), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND), Luật Luật sư sửa đổi cũng mới được ban hành. Đây là cơ sở pháp lý để hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta nói chung và BLTTHS nói riêng. Tuy nhiên, về SĐVT hiện nay đang còn những quan điểm khác nhau về một số vấn đề lý luận như: khái niệm, nội dung và phạm vi áp dụng; trách nhiệm chứng minh tội phạm; Vì vậy, việc nghiên cứu nhằm xác định đầy đủ nội hàm của nguyên tắc SĐVT và các nguyên tắc của TTHS nói chung, và cụ thể hóa đầy đủ, chính xác các nguyên tắc này trong BLTTHS là vấn đề cấp thiết. Mặt khác, thực tiễn TTHS gần đây cho thấy công cuộc cải cách tư pháp triển khai đã nhiều năm nhưng chưa tạo ra được sự chuyển biến cần thiết đáp ứng các yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) theo tinh thần Nghị quyết số số 49-NQ/TW. Việc nhận thức và áp dụng nguyên tắc SĐVT còn rất khác nhau, trong nhiều trường hợp còn bị áp dụng theo hướng ngược lại. Tình trạng bức cung, nhục hình, xét xử theo kiểu "án tại hồ sơ" vẫn diễn ra khá phổ biến gây bức xúc, mất lòng tin của nhân dân, Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân cơ bản và quan trọng nhất là do BLTTHS năm 2003 được sửa đổi quá vội vàng, không cơ bản và đồng bộ nên chưa tạo ra được những thay đổi đột phá; không ghi nhận hoặc ghi nhận không đầy đủ các nguyên tắc cơ bản của TTHS; thiếu các quy định cụ thể hoặc quy định không rõ ràng, cụ thể về các nguyên tắc này dẫn đến việc nhận thức và áp dụng không đúng và thống nhất trong thực tiễn Vì vậy, việc làm sáng tỏ về lý luận nguyên tắc SĐVT theo Hiến pháp 9
- năm 2013; những hạn chế, bất cập và vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định liên quan đến SĐVT trong BLTTHS năm 2003 để làm cơ sở đánh giá sự hoàn thiện của các quy định về SĐVT trong BLTTHS năm 2015 đồng thời đề xuất một số giải pháp bảo đảm thực hiện các quy định về SĐVT của BLTTHS mới trong thực tiễn là vấn đề rất cấp thiết hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Những năm gần đây, SĐVT và các vấn đề liên quan đã được đề cập ở những cấp độ và phạm vi khác nhau trong các công trình nghiên cứu như: "Cải cách tư pháp và việc hoàn thiện các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự Việt Nam" (2012), Tạp chí Kiểm sát, số 08 và "Nguyên tắc suy đoán vô tội - nguyên tắc hiến định quan trọng đối với việc đổi mới tố tụng hình sự Việt Nam" (2003), Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 07, của GS TSKH Đào Trí Úc; "Bảo đảm nguyên tắc "suy đoán vô tội" và tính thống nhất giữa Hiến pháp với Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự" (2013), ngày 25/4/2013, của TS. Trịnh Tiến Việt; "Nguyên tắc suy đoán vô tội" (2006), Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 11 và "Bình luận về nguyên tắc tranh tụng trong BLTTHS năm 2015 Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi" (2015), Tạp chí Kiểm sát, số 09, của PGS.TS Nguyễn Thái Phúc; "Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam" (2012), Tạp chí Kiểm sát, số 15, của TS. Phạm Mạnh Hùng; "Các nguyên tắc của Luật tố tụng hình sự - những kiến nghị sửa đổi bổ sung", của PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí; "Sự thể hiện của nguyên tắc suy đoán vô tội trong chế định về xét xử của Luật tố tụng hình sự Việt Nam" (2010), Tạp chí TAND, số 03, của ThS. Đinh Thế Hưng; Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện, đầy đủ và có hệ thống về cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc SĐVT theo Hiến pháp năm 2013; sự phát triển ngày càng hoàn thiện của các quy định liên quan đến SĐVT trong pháp luật thực định Việt Nam từ năm 1945 đến 10
- nay để làm cơ sở khoa học cho việc đề xuất một số giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc SĐVT trong thực tiễn đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và cải cách tư pháp hiện nay. Tất cả các luận cứ nêu trên là lý do để tác giả lựa chọn "Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam" làm đề tài luận văn thạc sĩ Luật học. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu là làm sáng tỏ một số vấn đề sau: 1) Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc SĐVT: Cơ sở lý luận của nguyên tắc SĐVT; quan hệ giữa nguyên tắc SĐVT với một số nguyên tắc khác của Luật TTHS; nguyên tắc SĐVT trong pháp luật quốc tế và pháp luật của một số nước.; 2) Các quy định liên quan đến SĐVT trong pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến khi ban hành BLTTHS năm 2015; thực tiễn áp dụng các quy định liên quan đến SĐVT của BLTTHS năm 2003 và những bất cập, vướng mắc. 3) Nguyên tắc SĐVT và các quy định liên quan trong BLTTHS năm 2015; một số giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc SĐVT trong thực tiễn. Với nhiệm vụ trên, tác giả cố gắng làm sáng tỏ khái niệm, nội dung và phạm vi áp dụng nguyên tắc SĐVT có liên hệ với pháp luật quốc tế và pháp luật của một số nước; phân tích làm sáng tỏ các quy định BLTTHS năm 2003 liên quan đến SĐVT và những bất cập, vướng mắc. Trên cơ sở đó đánh giá sự hoàn thiện của các quy định của BLTTHS năm 2015 và đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện nguyên tắc SĐVT trong thực tiễn. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, về cải cách tư pháp. Quá trình thực hiện luận văn, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể: 11
- phương pháp hệ thống, lịch sử, so sánh, phân tích - tổng hợp, khảo sát thực tiễn, ; Nghiên cứu các văn kiện của Đảng, các Hiến pháp, BLTTHS, các văn bản pháp luật có liên quan, tham khảo các công trình nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước về các vấn đề liên quan. 5. Những điểm mới và đóng góp của đề tài Đây là công trình đầu tiên ở cấp độ thạc sĩ nghiên cứu có hệ thống và toàn diện về cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc SĐVT. Kết quả nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn về nguyên tắc SĐVT và các vấn đề liên quan. Những giải pháp đề xuất trong luận văn có ý nghĩa thiết thực đối với việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật TTHS. Ngoài ra, luận văn còn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo để giảng dạy, học tập cho các cơ sở đào tạo luật, trong hoạt động thực tiễn và những người quan tâm. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Chương 2: Các quy định liên quan đến suy đoán vô tội trong pháp luật Việt Nam từ 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và một số giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc này trong thực tiễn. 12
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG, PHẠM VI VÀ Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI 1.1.1. Khái niệm suy đoán vô tội Từ "presume" trong tiếng Anh được dịch sang tiếng Việt mang hai nghĩa khác nhau: 1) Suy đoán (dự đoán) và 2) Giả định. Vì vậy, trong khoa học Luật TTHS, nguyên tắc "presumption of innocence" có hai tên gọi khác nhau: Nguyên tắc "suy đoán vô tội" và nguyên tắc "giả định vô tội" [16]. Tuy nhiên, trong luận văn này chúng tôi không tranh luận về thuật ngữ mà xem xét nguyên tắc này với tên gọi "suy đoán vô tội" (theo cách gọi phổ biến từ trước tới nay ở Việt Nam) và để làm rõ khái niệm "nguyên tắc suy đoán vô tội", cần xem xét thuật ngữ "suy đoán vô tội" ở hai góc độ: Nguyên tắc SĐVT và chế định SĐVT. * Nguyên tắc suy đoán vô tội: Với tư cách là một nguyên tắc cơ bản của TTHS, SĐVT được thừa nhận không chỉ trong pháp luật quốc tế mà cả trong pháp luật của hầu hết các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Để làm rõ khái niệm nguyên tắc SĐVT, trước hết cần làm rõ khái niệm "nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự". Đây là vấn đề còn có ý kiến khác nhau. Theo PGS.TS Trần Đình Nhã thì việc sử dụng khái niệm "nguyên tắc của Luật tố tụng hình sự" là sự nhầm lẫn khi coi TTHS và pháp luật TTHS là một. Các nguyên tắc của TTHS là những chế định pháp lý, được thể hiện bởi những quy phạm pháp luật TTHS, thể hiện bản chất của TTHS và mang tính định hướng cho các hoạt động và hành vi TTHS [37]. Theo PGS.TS Phạm Hồng Hải thì nguyên tắc TTHS là những quan điểm, tư tưởng, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về quá trình giải quyết vụ án hình sự đã được thể chế hóa trong BLTTHS mà các chủ thể tiến hành và 13
- tham gia tố tụng, các cơ quan nhà nước, tổ chức và mọi công dân phải tuân theo. Khi nguyên tắc được quy định trong BLTTHS thì đó là nguyên tắc của TTHS Nếu tư tưởng, quan điểm nào đó là quan điểm, tư tưởng chủ đạo của Luật TTHS thì chúng cũng là nguyên tắc của Luật TTHS. Ví dụ: nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc nhân đạo là nguyên tắc của TTHS và là nguyên tắc của Luật TTHS [18, tr. 115-122]. Quan điểm thứ ba thì cho rằng nguyên tắc của TTHS là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo, có giá trị pháp lý bắt buộc chung đối với các chủ thể tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự [21, tr. 59]. Theo GS.TSKH Lê Cảm thì nguyên tắc của Luật TTHS là tư tưởng chủ đạo, định hướng cơ bản của hoạt động TTHS được thể hiện trong pháp luật TTHS, trong việc giải thích và thực tiễn áp dụng pháp luật TTHS thông qua một quy phạm hay chế định của nó [3, tr. 37]. Quan điểm khác lại cho rằng nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS là những tư tưởng, định hướng của hoạt động TTHS thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với quá trình giải quyết vụ án là dân chủ, kỷ cương, theo định hướng XHCN, chi phối toàn bộ quá trình TTHS hoặc chi phối một số giai đoạn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, được ghi nhận trong các văn bản pháp luật và có tính ổn định cao [24, tr. 68]. Ngoài ra, còn một số quan điểm khác về khái niệm này [61, tr. 47]. Chúng tôi đồng tình với PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí cho rằng có sự khác nhau giữa hai khái niệm "tố tụng hình sự" và "Luật tố tụng hình sự". Khái niệm "tố tụng hình sự" được hiểu là toàn bộ hoạt động của các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng, các cá nhân, cơ quan, tổ chức nhằm giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác và đúng pháp luật. Đây là hoạt động mang tính khách quan tồn tại trong xã hội có giai cấp, là đòi hỏi tất yếu của Nhà nước để trừng trị người phạm tội. Còn "Luật tố tụng hình sự" là khái niệm để chỉ tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. "Luật tố tụng hình sự" là một phạm trù chủ quan, là nhận thức hiện tượng khách quan của nhà 14
- làm luật. Vì vậy, những phương châm, định hướng quan trọng chi phối toàn bộ hay một số giai đoạn của quá trình TTHS, quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật TTHS được gọi là các nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS [4, tr. 55]. Từ khái niệm "nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự" nêu trên, có thể thấy rằng nội hàm của nguyên tắc SĐVT được quy định tại khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 thể hiện ở yêu cầu người bị buộc tội phải được coi là vô tội cho đến khi tội phạm của họ được chứng minh theo trình tự, thủ tục do luật định và được xác định bằng một bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật (HLPL). Yêu cầu này dựa trên các giá trị công bằng, bình đẳng và là một bảo đảm quan trọng và hữu hiệu đối với việc tôn trọng, bảo vệ quyền con người trong tất cả các giai đoạn của quá trình TTHS. SĐVT đối lập với "suy đoán có tội" là một khuynh hướng diễn ra phổ biến trong hoạt động tư pháp, xâm phạm nghiêm trọng nguyên tắc "suy đoán vô tội" được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 và là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng oan sai [74, tr. 26]. Từ phân tích trên, có thể khẳng định yêu cầu về SĐVT luôn giữ vai trò định hướng quan trọng và chi phối không chỉ đối với các giai đoạn của quá trình TTHS (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử) mà cả đối với giai đoạn tiền tố tụng (trường hợp bắt giữ người bị tình nghi phạm tội) và thi hành án hình sự (trường hợp bản án kết tội của Tòa án đã có HLPL bị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm) đồng thời tác động mạnh mẽ đối với quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật. Theo Từ điển Luật học, thì SĐVT là một nguyên tắc cơ bản và quan trọng của TTHS, theo đó bị can, bị cáo được coi là vô tội, không phải chịu trách nhiệm hình sự khi lỗi của người đó chưa được chứng minh theo trình tự luật định và chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có HLPL [83, tr. 678]. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng theo pháp luật của một số nước thì bản chất của nguyên tắc này được hiểu là trong mọi trường hợp nếu một người thực 15
- hiện một hành vi mà hành vi đó còn có ý kiến khác nhau về việc định tội thì phải áp dụng nguyên tắc có lợi cho họ Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử nếu bên "buộc tội" không đưa ra được những bằng chứng xác đáng, mà bên "gỡ tội" lại đưa ra được những bằng chứng chứng minh bị can, bị cáo không phạm tội thì không được truy cứu người có hành vi đó. Xét về mặt nào đó thì nguyên tắc SĐVT đối lập với nguyên tắc "xác định sự thật của vụ án". Sự thật thế nào thì phải chứng minh, đi tìm, chứ không được "suy đoán" theo bất cứ hướng nào. Nếu ghi nhận nguyên tắc "suy đoán vô tội" cũng tức là không cần đến nguyên tắc "xác định sự thật của vụ án". Và như vậy, bản chất pháp luật của nước ta sẽ bị thay đổi Thực chất, nguyên tắc này chỉ để giải quyết vấn đề "thắng - thua" , buộc Hội đồng xét xử (HĐXX) phải chấp nhận "thắng - thua" giữa Luật sư và Kiểm sát viên mà không cần đến sự thật [39]. Chúng tôi cho rằng quan điểm nêu trên về SĐVT là không chính xác và có sự nhầm lẫn trong phân định các chức năng cơ bản trong TTHS giữa bên buộc tội, bên bào chữa và Tòa án. Bản chất của nguyên tắc này thể hiện ở chỗ trong mọi trường hợp sự tình nghi một người phạm tội của các chủ thể thực hiện chức năng buộc tội (Cơ quan điều tra (CQĐT)/ Điều tra viên và Viện kiểm sát (VKS)/ Kiểm sát viên) đều mới chỉ là "giả định", có nghĩa là người bị tình nghi có thể có tội và cũng có thể là không có tội. "Giả định" này phải được chứng minh bằng các chứng cứ theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định thông qua việc kiểm tra, xác minh công khai tại phiên tòa với sự tham gia đầy đủ của các chủ thể của bên buộc tội, bên bào chữa và các chủ thể khác (người làm chứng, người phiên dịch, giám định viên) dưới sự giám sát của HĐXX. Tại đây bên buộc tội (Kiểm sát viên, người bị hại) có trách nhiệm chứng minh cho sự cáo buộc của mình bằng các chứng cứ buộc tội mà họ thu thập được, bên bào chữa (Luật sư, bị cáo) cũng đưa ra các chứng cứ gỡ tội để HĐXX xem xét và ra phán quyết kết tội bị cáo hay tuyên bố họ vô tội. Kể cả khi đã có bản án kết tội, thì người bị kết án cũng chỉ bị coi là có tội khi phán 16
- quyết này có HLPL. Vì vậy, khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có HLPL thì các chủ thể tố tụng (CQĐT, VKS, Tòa án) không được coi người bị buộc tội là có tội. Yêu cầu này nhằm ngăn chặn mọi sự quy kết vội vã và định kiến đối với người bị buộc tội, tâm lý chủ quan, sự tùy tiện, tắc trách của người có thẩm quyền có thể dẫn đến làm oan người vô tội Như vậy, có thể thấy rằng SĐVT không chỉ là một nguyên tắc cơ bản và quan trọng của Luật TTHS mà còn là quyền cơ bản của người bị buộc tội. Theo nguyên tắc này thì người bị buộc tội được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội tại phiên tòa công khai, nơi bảo đảm những điều kiện cần thiết để bị cáo tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa và sự xét xử công bằng nhằm bảo vệ có hiệu quả các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Từ phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm sau: Nguyên tắc suy đoán vô tội là một nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự Việt Nam, theo đó một người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi tội phạm của họ được chứng minh theo trình tự, thủ tục luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. * Chế định suy đoán vô tội: Suy đoán vô tội không chỉ là một trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS mà còn là một chế định quan trọng của Luật TTHS. Về mặt lý luận, thì pháp luật là một hệ thống (tổng thể) các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Hệ thống các quy phạm pháp luật này được phân thành các tiểu hệ thống, mỗi tiểu hệ thống này điều chỉnh các quan hệ xã hội trong một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội và được gọi là một ngành luật. Vì vậy, với tư cách là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật của nước ta, Luật TTHS là tổng thể (hệ thống) các quy phạm pháp luật có quan hệ chặt chẽ với nhau cùng điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự (lĩnh vực tư pháp hình sự). Hệ thống các quy phạm pháp luật này 17
- được phân thành các tiểu hệ thống - các chế định pháp lý và mỗi chế định này gồm một số quy phạm pháp luật có quan hệ chặt chẽ với nhau điều chỉnh một nhóm các quan hệ xã hội cùng loại - cùng tính chất (ví dụ: chế định người bào chữa, chế định Hội thẩm, chế định phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, ). Đến lượt mình mỗi quy phạm pháp luật TTHS lại điều chỉnh trực tiếp một quan hệ xã hội cụ thể (ví dụ: quy định tại khoản 2 Điều 48 BLTTHS (quyền của người tạm giữ) điều chỉnh quan hệ giữa người bị tạm giữ với cơ quan, người có thẩm quyền tạm giữ (Thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên). Với tư cách là một chế định của Luật TTHS, SĐVT là một tiểu hệ thống bao gồm các quy phạm pháp luật TTHS có liên quan. Trước hết nguyên tắc SĐVT liên quan chặt chẽ với các nguyên tắc cơ bản khác của Luật TTHS (đặc biệt là với nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa và bảo đảm tranh tụng trong xét xử). Bởi lẽ nếu không được SĐVT thì người bị buộc tội đã bị coi là có tội ngay từ khi bị tình nghi (bị bắt giữ, khởi tố, điều tra hay truy tố ) và quyền bào chữa, quyền tranh tụng trước Tòa án để tìm ra chân lý sẽ chỉ còn là hư quyền. Khi đó xét xử chỉ còn là việc Tòa án đi tìm lời giải cho một bài toán đã có đáp số: "Bị cáo có tội". Chính vì vậy, Hiến pháp năm 2013 (Điều 31, Điều 102, ) đã ghi nhận nhiều nguyên tắc mới của TTHS, trong đó có nguyên tắc SĐVT. BLTTHS năm 2003 cũng có nhiều quy định nhằm bảo đảm để nguyên tắc SĐVT được thực thi trên thực tế như: trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội (Điều 10). Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. CQĐT, VKS, Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền tự bào chữa của họ (Điều 11); Thẩm phán, Hội thẩm độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 17); Các nguyên tắc này được cụ thể hóa trong các quy định khác của BLTTHS như: quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng; trình tự, thủ 18
- tục thu thập, cung cấp, đánh giá chứng cứ; khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử (sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm) các vụ án hình sự; Như vậy, có thể thấy một số nguyên tắc trong Hiến pháp mới và các quy định nêu trên trong BLTTHS năm 2003 có liên quan chặt chẽ với nguyên tắc SĐVT và tạo thành một chế định quan trọng - chế định SĐVT nhằm điều chỉnh đồng bộ các quan hệ phát sinh giữa người bị buộc tội, các chủ thể tố tụng và các chủ thể khác trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Chế định này bao gồm các quy phạm pháp luật TTHS (một số nguyên tắc cơ bản và các quy định cụ thể của BLTTHS) và đồng thời là điều kiện cần thiết bảo đảm tính khả thi của nguyên tắc SĐVT trên thực tế. 1.1.2. Nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội Nguyên tắc SĐVT trong Hiến pháp năm 2013 khẳng định cho đến khi có bản án kết tội của Tòa án đã có HLPL thì người bị buộc tội được coi là không có tội, tức là họ vẫn có đủ tư cách công dân với các quyền, nghĩa vụ do Hiến pháp và pháp luật quy định (trừ một số quyền bị hạn chế khi áp dụng biện pháp cưỡng chế như tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, ). Nguyên tắc này thể hiện quan điểm của Nhà nước ta trong việc tôn trọng các giá trị cao quý của con người trong xã hội và nhằm thực hiện các nguyên tắc của Công ước quốc tế năm 1966 (trong đó có nguyên tắc SĐVT) mà Việt Nam đã gia nhập năm 1982. Mặc dù cho đến nay, trong Hiến pháp cũng như các văn bản pháp luật khác của nước ta thuật ngữ "suy đoán vô tội" chưa một lần được sử dụng nhưng nội dung của nguyên tắc này đã được chính thức ghi nhận lần đầu tiên trong BLTTHS năm 1988 (Điều 10 và Điều 11), trong Hiến pháp sửa đổi năm 1992 (Điều 72) và BLTTHS năm 2003 (Điều 9 và Điều 10). Nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và cải tư pháp ở nước ta trong giai đoạn mới đồng thời làm cơ sở pháp lý để hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 đã chính thức thừa nhận các quyền con người bên cạnh các quyền cơ bản của 19
- công dân, đồng thời bổ sung nhiều nguyên tắc hiến định mới. Điều 31 của Hiến pháp mới quy định: 1. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; 2. Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời , công bằng, công khai ; 3. Không ai bị kết án hai lần vì một tôị phạm; 4. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa; 5. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại [57]. Vấn đề quan trọng đặt ra là cần xác định nội hàm của nguyên tắc SĐVT trong Hiến pháp mới và các nội dung (yêu cầu) cụ thể của nguyên tắc này cần được thể hiện trong BLTTHS sửa đổi với tư cách là một nguyên tắc cơ bản và quan trọng của Luật TTHS Việt Nam. Đây là vấn đề còn có các quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng nội hàm của nguyên tắc SĐVT trong Hiến pháp năm 2013 bao gồm cả 5 khoản được quy định tại Điều 31 [27]. Theo quan điểm thứ hai thì nội dung của nguyên tắc SĐVT trong Hiến pháp mới bao gồm: Quyền được đưa ra xét xử đối với người bị tình nghi phạm tội cũng đồng nghĩa với trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh hành vi phạm tội của người đó theo một trình tự luật định và phải nhanh chóng đưa ra xét xử đúng thời hạn; việc tuyên án phải công khai kể cả trường hợp xét xử kín [71]. Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ ba cho rằng nội hàm của nguyên tắc SĐVT chỉ bao gồm nội dung quy định tại khoản 1 Điều 31 của Hiến pháp mới: "Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được 20
- chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật" [74, tr. 35]. Các quy định còn lại trong Điều 31 Hiến pháp năm 2013 không thuộc nội hàm của nguyên tắc SĐVT mà thuộc nội hàm của các nguyên tắc khác của Luật TTHS (xét xử kịp thời, công bằng, công khai; pháp chế XHCN; bảo đảm quyền bào chữa; được bồi thường khi bị oan sai; ). Với nội hàm của nguyên tắc SĐVT đã đề cập ở trên, có thể thấy nội dung của nguyên tắc SĐVT trong Hiến pháp mới đã khắc phục được những bất cập, hạn chế trong quy định của Hiến pháp năm 1992 (Điều 72), cụ thể là: Một là, việc thay cụm từ "không ai" bằng cụm từ "người bị buộc tội" đã bảo đảm sự chính xác trong xác định phạm vi các đối tượng được áp dụng nguyên tắc này (những người có quyền được SĐVT) chỉ bao gồm "người bị buộc tội" (người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo) chứ không phải là bất kỳ người nào ("không ai") như trong Hiến pháp năm 1992. Hai là, việc bỏ cụm từ "và phải chịu hình phạt" trong nội hàm của nguyên tắc SĐVT không chỉ nhằm bảo đảm tính thống nhất, phù hợp với quy định về miễn hình phạt (Điều 54) của Bộ luật hình sự (BLHS) mà còn bao quát đầy đủ những trường hợp kết tội bằng bản án nhưng hậu quả pháp lý khác nhau: bị áp dụng hình phạt và được miễn hình phạt. Ba là, việc thay cụm từ "bị coi là có tội" bằng cụm từ "được coi là không có tội" nhằm khẳng định đây là một quyền đương nhiên (quyền con người) của người bị buộc tội, chứ không phải sự áp đặt (đặc quyền) chủ quan của cơ quan có thẩm quyền đối với người bị buộc tội. Bốn là, việc thay cụm từ "khi chưa có bản án " bằng cụm từ "cho đến khi có bản án " bảo đảm tính chính xác của nguyên tắc này: chỉ có một khả năng duy nhất là "khi có bản án kết tội", loại trừ khả năng thứ hai "chưa có bản án " có thể xảy ra (sẽ) "không có bản án". * Nội dung của nguyên tắc SĐVT cần thể hiện trong Bộ luật tố tụng hình sự: Các nguyên tắc trong Hiến pháp năm 2013 nói chung và nguyên tắc 21