Luận văn Nguyên tắc hoạt động của kiểm toán độc lập theo luật kiểm toán độc lập 2011
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Nguyên tắc hoạt động của kiểm toán độc lập theo luật kiểm toán độc lập 2011", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_nguyen_tac_hoat_dong_cua_kiem_toan_doc_lap_theo_lua.pdf
Nội dung text: Luận văn Nguyên tắc hoạt động của kiểm toán độc lập theo luật kiểm toán độc lập 2011
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ THÙY LIÊN NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP THEO LUẬT KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP 2011 Chuyên ngành: LUẬT KINH TẾ Mã ngành: 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN CƯƠNG Hà Nội, 2017
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng rôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luân văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Học viên Khoa học Xã hội Việt Nam. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Thùy Liên
- MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP 6 1.1 Những vấn đề lý luận cơ bản về kiểm toán độc lập 6 1.2 Các nguyên tắc hoạt động của kiểm toán độc lập 15 Chương 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VÀ THỰC TIỄN THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP Ở VIỆT NAM 20 2.1 Thực trạng quy định pháp luật về nguyên tắc hoạt động của kiểm toán độc lập tại Việt Nam hiện nay 23 2.2Thực tiễn tuân thủ các quy định pháp luật về nguyên tắc hoạt động của KTĐL 42 Chương 3: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP 51 3.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về nguyên tắc hoạt động của kiểm toán độc lập 51 3.2 Phương hướng hoàn thiện pháp luật về nguyên tắc hoạt động của kiểm toán độc lập 56 3.3 Giải pháp tăng cường sự tuân thủ nguyên tắc hoạt động của kiểm toán độc lập 61 KẾT LUẬN 71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 72 PHỤ LỤC 74
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BCKT Báo cáo kiểm toán BCTC Báo cáo tài chính BTC Bộ Tài chính CAPA Confederation of Asian and Pacific Accountants Liên đoàn Kế toán châu Á Thái Bình Dương. CIMA Chartered Institute of Managenemt Accountants Hiệp Hội Kế toán Quản trị Công chứng Anh Quốc. CMKiT Chuẩn mực Kiểm toán CTKT Công ty Kiểm toán CTY Công ty CTKT Công ty kiểm toán DN Doanh nghiệp DNKT Doanh nghiệp kiểm toán IFAC International Federation of Accountants Liên đoàn Kế toán Quốc tế ISA The International Accounting Standards Chuẩn mực kiểm toán quốc tế KTĐL Kiểm toán độc lập KTNN Kiểm toán Nhà nước KTV Kiểm toán viên TNHH Trách nhiệm hữu hạn TPP Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương UBCKNN Ủy ban chứng khoán Nhà nước VACPA Hiệp hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nếu nói rằng nền kinh tế thị trường có hiệu quả hơn so với nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung thì kiểm toán độc lập chính là một công cụ quản lý kinh tế, tài chính đắc lực góp phần nâng cao tính hiệu quả đó của nền kinh tế thị trường. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường là nhiều thành phần kinh tế, là tự do sản xuất, kinh doanh và cạnh tranh. Mỗi doanh nghiệp đều có những biện pháp hạn chế mặt trái, tiêu cực của cơ chế thị trường và tự thân vận động phù hợp với những đòi hỏi có tính quy luật sống còn của nó. Tổ chức kiểm toán độc lập là những doanh nghiệp không cạnh tranh với các doanh nghiệp (trừ doanh nghiệp kiểm toán) mà bạn hàng giúp các doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong cạnh tranh. Hơn thế nữa, nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế muốn quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh cần phải có thông tin chính xác kịp thời và tin cậy. Để đáp ứng được yêu cầu này đòi hỏi phải có bên thứ ba độc lập khách quan, có trình độ chuyên môn cao được pháp luật cho phép cung cấp thông tin tin cậy cho đối tượng quan tâm. Vì vậy, đã hình thành nên loại hình kiểm toán độc lập. Trên thế giới, hầu hết các nước đi theo kinh tế thị trường đều có hoạt động kiểm toán độc lập. Trái lại ở các nước đi theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung đều không có kiểm toán, thậm chí không truyền bá kiến thức về kiểm toán độc lập. Ở Việt Nam, hoạt động kiểm toán đã được hình thành và phát triển ở miền Nam trước giải phóng. Nhưng sau thống nhất đất nước, với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, kiểm toán độc lập không tồn tại nữa. Cho đến khi Đảng và Nhà nước ta chủ trương đa dạng hoá các loại hình sở hữu và đa phương hoá các ngành đầu tư đã đặt ra những đòi hỏi cấp thiết của kiểm toán độc lập thì loại hình kiểm toán độc lập mới thực sự xuất hiện. Ngay từ khi mới xuất hiện, hoạt động kiểm toán độc 1
- lập đã đóng vai trò hết sức quan trọng tới sự phát triển ổn định và công bằng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam. Cũng giống như bất kỳ loại hình hoạt động kinh doanh nào khác, kiểm toán độc lập cũng phải tuân theo những nguyên tắc nhất định được đặt ra từ trước. Những nguyên tắc này được được pháp luật quy định cụ thể nhằm đảm bảo kết quả cuối cùng của hoạt động kiểm toán độc lập giúp Nhà nước duy trì tính ổn định và công bằng trên thị trường. Thực tế cho thấy báo cáo tài chính của nhiều công ty, doanh nghiệp thường không đi sát với thực tiễn tình hình kinh doanh của họ. Họ thường có xu thế che giấu những mặt tiêu cực, hạn chế của mình để thu hút vốn từ các nhà đầu tư cũng như thu hút khách hàng. Các doanh nghiệp kiểm toán độc lập ra đời mục đích chính là phát hiện và ngăn chặn những điểm sai sự thật trong báo cáo tài chính của các doanh nghiệp, tạo sự lành mạnh trong cạnh tranh. Chính vì vậy khi Việt Nam chuyển sang áp dụng cơ chế thị trường, hoạt động kiểm toán độc lập đã sớm được nước ta quan tâm xây dựng thể chế có liên quan. Pháp luật Việt Nam về hoạt động kiểm toán độc lập được ra đời từ những năm đầu của thời kỳ đổi mới nhưng mãi đến năm 2011 mới ban hành văn bản pháp luật chính là Luật Kiểm toán độc lập năm 2011. Cho đến nay hệ thống văn bản pháp luật về KTĐL của Việt Nam trải qua 25 năm phát triển và hoàn thiện nhằm tiếp cận với các thông lệ, chuẩn mực quốc tế và phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế hiện nay. Trong đó 2 loại văn bản quan trọng là Luật Kiểm toán độc lập 2011 và hệ thống chuẩn mực nghề nghiệp kiểm toán. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp kiểm toán luôn phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản mà pháp luật quy định. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có những trường hợp vi phạm nguyên tắc gây hậu quả nghiêm trọng, làm mất uy tín, chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập của Việt Nam trong mắt các nhà đầu tư. Một số vấn đề bất cập nổi lên hiện nay trong lĩnh vực kiểm toán độc lập còn chưa được xử lý triệt để. 2
- Chính vì vậy, cần có những biện pháp chặt chẽ và cứng rắn hơn nhằm đảm bảo tính trung thực và chính xác của hoạt động kiểm toán, góp phần vào sự phát triển chung của toàn nền kinh tế. Thực tế cho thấy, chỉ khi các nguyên tắc hoạt động kiểm toán được tôn trọng và đảm bảo thực thi thì hiệu quả của hoạt động kiểm toán độc lập đạt được là cao nhất. Từ những lý do trên đây, tôi lựa chọn đề tài: “Nguyên tắc hoạt động của kiểm toán độc lập theo Luật Kiểm toán độc lập 2011” để thực hiện luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Có thể thấy rằng, nguyên tắc của hoạt động kiểm toán độc lập là vấn đề chưa được sự quan tâm nghiên cứu nhiều ở Việt Nam, nhất là từ góc độ luật học. Hầu hết sự nghiên cứu chỉ dừng lại dưới hình thức các bài viết ngắn trong các tạp chí, báo cáo đóng góp ý kiến tại các buổi hội thảo hoặc nghiên cứu dưới góc độ kinh tế, tài chính. Những vấn đề chung về nguyên tắc hoạt động của KTĐL đã được một số giáo trình đưa ra. Vấn đề nghiên cứu về pháp luật KTĐL cũng có một số công trình nghiên cứu là Luận văn Thạc sĩ năm 2014 của tác giả Huỳnh Trúc Lâm với đề tài: “Địa vị pháp lý của kiểm toán độc lập theo pháp luật Việt Nam hiện nay”; Luận văn Thạc sĩ năm 2014 của tác giả Nguyễn Thị Khuyên với đề tài: “Pháp luật về dịch vụ kiểm toán độc lập ở Việt Nam”; bài viết: “Một số ý kiến về Luật Kiểm toán độc lập”; bài viết “Bàn về dự án Luật Kiểm toán độc lập” của TS. Hà Thị Ngọc Hà, Tạp chí Kiểm toán tháng 3/2011. [28] Vì vậy, nghiên cứu để nắm rõ hơn về pháp luật về nguyên tắc hoạt động của kiểm toán độc lập và đưa ra các giải pháp hoàn thiện là hết sức quan trọng. Đề tài này giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan hơn về nguyên tắc hoạt động của KTĐL, từ đó đưa ra được một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác áp dụng các nguyên tắc của kiểm toán độc lập vào thực tiễn. 3
- 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của Luận văn là làm rõ nội dung và thực trạng việc tuân thủ nguyên tắc hoạt động của Kiểm toán độc lập theo Luật Kiểm toán độc lập năm 2011, từ đó đưa ra những đề xuất, định hướng giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về nguyên tắc hoạt động của KTĐL tại Việt Nam. Để thực hiện mục tiêu trên, Luận văn có những nhiệm vụ sau: - Phân tích nguyên tắc hoạt động của kiểm toán độc lập theo Luật Kiểm toán độc lập 2011, bước đầu so sánh với nguyên tắc hoạt động của kiểm toán độc lập ở một số quốc gia trên thế giới. - Đánh giá thực trạng áp dụng nguyên tắc hoạt động của kiểm toán độc lập trong quá trình kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán BCTC hiện nay tại Việt Nam. - Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận, thực trạng, thực thi nguyên tắc hoạt động của kiểm toán độc lập ở Việt Nam thời gian qua, đưa ra những quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tuân thủ nguyên tắc hoạt động của kiểm toán độc lập. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của Luận văn chủ yếu là các nguyên tắc hoạt động của KTĐL theo pháp luật Việt Nam hiện nay, thực trạng tuân thủ pháp luật của các KTV, DNKT, các chuẩn mực đạo đức, CMKiT Việt Nam và các vụ việc gian lận, vi phạm trong kiểm toán BCTC. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Để giải quyết các nhiệm vụ trên, luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp, lịch sử, thống kê,luật học so sánh - Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng ở cả 3 chương của luận văn nhằm hệ thống hóa cơ sở lý luận, khái quát thực trạng áp dụng và thực thi 4
- thực hiện nguyên tắc hoạt động của KTĐL và đề xuất những giải pháp nhằm hạn chế việc vi phạm nguyên tắc hoạt động của KTĐL. - Phương pháp lịch sử, thống kê nhằm đánh giá tình hình phát triển của ngành KTĐL tại Việt Nam và một số nước trên thế giới như Mỹ, Úc và một số nước châu Á. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn đưa ra cái nhìn tổng quát về việc tuân thủ các nguyên tắc hoạt động của kiểm toán độc lập ở Việt Nam và đề xuất một số phương hướng, giải pháp hoàn thiện việc tuân thủ pháp luật về nguyên tắc hoạt động của kiểm toán độc lập ở Việt Nam. Chỉ ra những vụ sai phạm trong việc tuân thủ nguyên tắc hoạt động của KTĐL, sai phạm trong việc không tuân thủ các chuẩn mực đạo đức và CMKiT, những hậu quả đối với DNKT và sự phát triển kinh tế của xã hội. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về nguyên tắc hoạt động của kiểm toán độc lập. Chương 2: Thực trạng quy định và thực tiễn thực thi pháp luật về nguyên tắc hoạt động của kiểm toán độc lập ở Việt Nam. Chương 3: Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả tuân thủ các nguyên tắc hoạt động của KTĐL. 5
- CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP 1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về kiểm toán độc lập 1.1.1. Khái niệm kiểm toán độc lập Trên thế giới có tương đối nhiều quan điểm về khái niệm kiểm toán. Kiểm toán có gốc từ Latinh là: "Audit" gắn liền với nền văn minh Ai Cập và La Mã cổ đại xuất hiện vào thế kỷ thứ III trước công nguyên. Auditing có nghĩa là "nghe", do các nhà cầm quyền La Mã tổ chức để kiểm tra độc lập về tình hình tài chính. Hình ảnh của kiểm toán cổ điển là việc kiểm tra về tài sản, phần lớn được thể hiện bằng cách người ghi chép đọc to lên cho một bên độc lập "nghe" rồi chấp nhận. Cho đến những năm 30 của thế kỷ XX, kiểm toán với nghĩa là kiểm tra độc lập và bày tỏ ý kiến mới được phát triển ở các nước Bắc Mỹ và Tây Âu [8, tr.5] Ở các nước Phương Tây, khái niệm kiểm toán đã bao hàm cả hình thức Kiểm toán độc lập. Tại Hoa Kỳ, "Kiểm toán là một quá trình mà qua đó một người độc lập, có nghiệp vụ tập hợp và đánh giá rõ ràng về một thông tin có thể lượng hoá có liên quan đến một thực thể kinh tế riêng biệt nhằm mục đích xác định và báo cáo mức độ phù hợp giữa thông tin có thể lượng hoá với những tiêu chuẩn đã được thiết lập” [5, tr.30]. Các nhà khoa học về kiểm toán Hoa Kỳ cũng khẳng định sự kiểm tra độc lập của kiểm toán viên, tuy nhiên nhấn mạnh hơn đến khía cạnh chuyên môn tức là các kiểm toán viên không chỉ độc lập mà phải “có nghiệp vụ”. Khái niệm của Hoa Kỳ cũng nhấn mạnh đến sự phù hợp giữa thông tin với các tiêu chuẩn đã được thiết lập. Còn các nhà kinh tế nước Pháp lại quan niệm rằng: "Kiểm toán là việc nghiên cứu và kiểm tra các tài khoản niên độ của một tổ chức do một người độc lập, đủ 6
- danh nghĩa gọi là một kiểm toán viên tiến hành để khẳng định rằng những tài khoản đó phản ánh đúng tình hình tài chính thực tế không che dấu sự gian lận và chúng được trình bày theo mẫu chính thức của luật định” [5, tr.31]. Ở Việt Nam, khái niệm kiểm toán ra đời tương đối muộn và được cụ thể hóa qua hai hình thức Kiểm toán Nhà nước và Kiểm toán độc lập. Theo quy định tại khoản 1, Điều 5 Luật kiểm toán độc lập 2011, “Kiểm toán độc lập là việc kiểm toán viên hành nghề, doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam kiểm tra, đưa ra ý kiến độc lập của mình về báo cáo tài chính và công việc kiểm toán khác theo hợp đồng kiểm toán”. Kiểm toán là một quá trình chứ không phải là một hoạt động đơn lẻ; quá trình đó phản ánh hoạt động của các chuyên gia độc lập, có thẩm quyền, có kỹ năng nghiệp vụ; thông qua hoạt động kiểm toán, các chuyên gia có thể thu thập, định lượng, đánh giá các thông tin về chủ thể kinh tế (so với chuẩn mực đã xác định) và có thể kiểm tra, kiểm soát được các hoạt động kinh tế. Kiểm toán độc lập là loại kiểm toán được tiến hành bởi các KTV thuộc các công ty, các văn phòng kiểm toán chuyên nghiệp. Quy định tại Luật Kiểm toán độc lập 2011 cho thấy quan hệ giữa các chủ thể trong hoạt động KTĐL là quan hệ mua bán dịch vụ, đơn vị kinh tế được kiểm toán trả phí dịch vụ cho các KTV theo thỏa thuận trong hợp đồng kiểm toán, được pháp luật thừa nhận và quản lý chặt chẽ. Các KTV độc lập là những người hội tụ đủ các tiêu chuẩn theo chuẩn mực kiểm toán và các quy định pháp lý về hành nghề kiểm toán. Báo cáo kiểm toán được KTV đưa ra để thực hiện kiểm tra và xác nhận về sự trung thực, hợp lý của các bản báo cáo tài chính, làm cơ sở cho những người quan tâm đến doanh nghiệp có cơ sở thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình; cơ sở để doanh nghiệp thực hiện các nghĩa vụ đối với các cơ quan Nhà nước. 7
- Hoạt động KTĐL là hoạt động kiểm toán rất phổ biến ở các nước có nền kinh tế phát triển, vì thế hoạt động kiểm toán nói chung thường được coi là hoạt động KTĐL. Trong hoạt động KTĐL thì kiểm toán BCTC là chủ yếu, theo đó đề cập đến KTĐL tức là kiểm toán độc lập BCTC. 1.1.2. Ý nghĩa của hoạt động kiểm toán độc lập Kiểm toán độc lập có ý nghĩa to lớn trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước. Thứ nhất, đối với doanh nghiệp nói chung, kiểm toán độc lập tạo niềm tin cho những người quan tâm đến kết quả hoạt động, giúp doanh nghiệp chủ động hơn trong hoạt động của mình. Dù hoạt động trong bất kì lĩnh vực kinh tế nào, thì kết quả hoạt động hàng năm của doanh nghiệp đều được thể hiện trên báo cáo tài chính (gồm bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh báo cáo tài chính).Vì nhiều nguyên nhân khác nhau, các chủ doanh nghiệp - người có trách nhiệm lập báo cáo tài chính đều muốn che giấu các phần yếu kém hoặc khuyếch trương kết quả kinh doanh của mình trên bảng báo cáo tài chính. Trái lại, những người quan tâm đến kết quả kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp lại đòi hỏi sự trung thực chính xác của bản báo cáo tài chính đó. Vì thế, cần có sự kiểm tra, xác nhận của người thứ ba. Doanh nghiệp kiểm toán độc lập nói chung hay kiểm toán viên độc lập nói riêng là những người hoạt động theo nguyên tắc của pháp luật, có đủ năng lực uy tín với cả chủ doanh nghiệp và người quan tâm đến bản báo cáo tài chính (các cơ quan Nhà nước, cơ quan thuế, ngân hàng, cơ quan chủ quản doanh nghiệp, các cổ đông, nhà đầu tư, nhân viên công ty) sẽ là những người thay mặt doanh nghiệp thực hiện những công việc trên và cuối cùng sẽ cho ra một kết quả chính xác nhất. 8
- Hiện nay, Nhà nước ta đang chú trọng phát triển kinh tế, khuyến khích thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Chính vì thế, pháp luật Việt Nam, cụ thể là pháp luật về doanh nghiệp và pháp luật về đầu tư đang dần quy định theo chiều hướng có lợi cho các chủ thể kinh doanh. Theo Điều 5, Luật Đầu tư 2014 quy định: “Nhà nước đối xử bình đẳng giữa các nhà đầu tư; có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh, phát triển bền vững các ngành kinh tế”. Các nhà đầu tư nước ngoài khi thực hiện đầu tư vào Việt Nam luôn đòi hỏi một báo cáo tài chính được kiểm toán, xác nhận về tình hình kinh doanh của của doanh nghiệp mà họ dự định đầu tư. Những ý kiến, nhận xét của kiểm toán viên giúp cho nhà đầu tư nhìn nhận rõ ràng nhất tiềm năng phát triển của doanh nghiệp và có phương án đầu tư hợp lý. Bên cạnh đó, thông qua báo cáo tài chính, các nhà quản lý, chủ doanh nghiệp cũng có thể kịp thời phát hiện những sai sót, lãng phí, vi phạm pháp luật do cố ý hay vô ý để xử lý kịp thời nhằm ngăn ngừa các tổn thất, giúp doanh nghiệp hạn chế được rủi ro, kịp thời điều chỉnh các hoạt động kinh doanh, hoạt động quản lý và phát huy những thế mạnh, tiềm năng tài chính của doanh nghiệp. Thứ hai, kiểm toán độc lập góp phần hướng dẫn nghiệp vụ, củng cố nề nếp hoạt động tài chính kế toán nói riêng và hoạt động của các tổ chức kinh tế nói chung. Mọi hoạt động, đặc biệt là hoạt động tài chính đều bao gồm những mối quan hệ đa dạng, luôn luôn biến đổi và được cấu thành bởi hàng loạt nghiệp vụ cụ thể. Để hướng các nghiệp vụ này vào mục tiêu giải quyết các quan hệ tài chính - kế toán, các nghiệp vụ phát sinh trong quá trình hạch toán thì không chỉ cần có định hướng đúng và thực hiện tốt mà cần thường xuyên kiểm tra, rà soát và tổ chức thực hiện tốt trên cơ sở những bài học thực tiễn sẽ dần khắc phục được những hạn chế trong quá trình thực hiện. Kinh nghiệm 9
- thực tế cho chúng ta thấy rằng triển khai tốt hơn công tác kiểm toán mới có thể nhanh chóng đưa hệ thống tài chính kế toán - kiểm toán đi vào nề nếp. Thứ ba, kiểm toán độc lập góp phần nâng cao hiệu quả và năng lực quản lý. Kiểm toán độc lập không chỉ có chức năng xác minh mà còn có chức năng tư vấn. Chủ doanh nghiệp không thể kiểm soát một khối lượng lớn nghiệp vụ tài chính kế toán đã xảy ra trong doanh nghiệp mà không có phương pháp khoa học. Chính vì thế, việc giao cho người phụ tá thân cận của mình phụ trách những vấn đề đó là điều thường thấy ở các doanh nghiệp Việt Nam. Để biết được một cách chính xác, trung thực tình hình tài chính kế toán của mình vào kì hạn, người chủ doanh nghiệp thường mời các kiểm toán viên chuyên nghiệp độc lập có uy tín thực hiện việc kiểm tra và nhận xét bảng báo cáo tài chính của doanh nghiệp mình do người phụ trách kế toán lập ra. Những nhận xét của kiểm toán viên sẽ giúp cho các chủ doanh nghiệp kịp thời phát hiện những sai sót, lãng phí hoặc vi phạm pháp luật do cố ý hay vô ý để xử lý kịp thời hay ngăn ngừa các tổn thất. Điều đó giúp doanh nghiệp hạn chế được những rủi ro hay phát hiện ra thế mạnh những tiềm năng tài chính nội tại của doanh nghiệp; giúp chủ doanh nghiệp kiểm soát tốt hơn hoạt động của doanh nghiệp mình trong năm tài chính. 1.1.3. Vai trò của hoạt động kiểm toán độc lập Ngày nay, kiểm toán độc lập có một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Điều đó được thể hiện thông qua các tổ chức kiểm toán độc lập ngày một phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt, là phạm vi kiểm toán ngày càng được mở rộng trong mọi lĩnh vực như đầu tư, tài chính, xây dựng, thuế, tư vấn Kiểm toán độc lập ra đời là một tất yếu khách quan và thiết thực đối với sự phát triển của kinh tế đất nước. 10
- Dưới góc độ kinh tế, Kiểm toán độc lập có những vai trò sau: Đối với các thành viên sáng lập, nhà đầu tư, cổ đông, vay ngân hàng, nợ người bán hàng, mua hàng trả góp, người lao động kiểm toán độc lập đóng vai trò bảo vệ quyền lợi của những người quan tâm đến doanh nghiệp. Báo cáo tài chính đã được kiểm toán giúp cho những người quan tâm đến doanh nghiệp yên tâm hơn về tình hình hoạt động, tình hình tài chính, phần lợi tức phải trả cho các chổ đông, nhà đầu tư của doanh nghiệp sau một năm hoạt động kinh doanh. KTĐL cũng có vai trò là loại hình dịch vụ để hỗ trợ doanh nghiệp, tạo lập môi trường đầu tư bình đẳng, lành mạnh. Kết quả và kết luận của kiểm toán là đánh giá, xác nhận quan trọng về độ tin cậy, về uy tín và thực trạng tiềm lực, thực trạng tài chính của doanh nghiệp để đối tác tiếp tục đầu tư hoặc quyết định các quan hệ kinh tế khác. Chính vì thế, KTĐL góp phần gia tăng chất lượng thông tin kinh tế - tài chính, đảm bảo tính độc lập, khách quan, trung thực, góp phần công khai, minh bạch thông tin, tạo niềm tin của cơ quan Nhà nước, của khách hàng và tổ chức liên quan; cổ đông, nhà đầu tư, người lao động trong doanh nghiệp, tạo động lực phát triển doanh nghiệp bền vững. Đối với hệ thống tài chính quốc gia, Kiểm toán độc lập có vai trò vô cùng quan trọng. KTĐL xác minh về tính chính xác của BCTC để tránh tình trạng doanh nghiệp ghi giảm phần lợi nhuận thu được để làm giảm các khoản phải nộp vào ngân sách Nhà nước. Chính vì thế, theo Điều 11, Luật kiểm toán độc lập năm 2011 quy định đã quy định rõ ràng: “Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về hoạt động kiểm toán độc lập; Bộ Tài chính chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động kiểm toán độc lập, Bộ; cơ quan ngang Bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tài chính thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động kiểm toán độc lập; Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương 11
- trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm quản lý nhà nước về hoạt động kiểm toán độc lập tại địa phương”. Đối với những nhà quản lý tại các doanh nghiệp, kiểm toán độc lập còn tạo nên giá trị gia tăng cho báo cáo tài chính của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp hạn chế được khả năng xảy ra các sai phạm về kế toán, tài chính. Đứng ở góc độ xã hội, hoạt động kiểm toán độc lập được luật pháp qui định và bảo hộ sẽ trở thành một công cụ bảo vệ sự ổn định của nền kinh tế, đặc biệt là đối với các quốc gia mà thị trường chứng khoán giữ một vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Tại các quốc gia này, luật pháp thường qui định các công ty cổ phần niêm yết giá ở thị trường chứng khoán và khi công bố các báo cáo tài chính hàng năm phải đính kèm báo cáo kiểm toán của kiểm toán viên độc lập. Một số quốc gia còn mở rộng đối tượng kiểm soát bắt buộc (thường gọi là kiểm soát theo luật định) cho các doanh nghiệp khác khi mà qui mô doanh nghiệp lớn trên một mức độ nào đó. Kiểm toán độc lập đã tham gia tích cực vào việc kiểm tra, đánh giá, xác nhận độ tin cậy của các thông tin kinh tế tài chính, góp phần đáng kể vào hoạt động sắp xếp, đổi mới, cổ phần hóa doanh nghiệp và thu hút các hoạt động đầu tư của nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế đất nước. Kiểm toán độc lập đã khẳng định được vị trí và vai trò quan trọng trong nền kinh tế. 1.1.4. Phân biệt kiểm toán độc lập với các hoạt động kiểm toán khác 1.1.4.1. Kiểm toán nhà nước Kiểm toán Nhà nước Việt Nam được chính thức thành lập ngày 11 tháng 7 năm 1994 theo Nghị định 70/CP của Chính phủ Việt Nam với chức năng kiểm toán BCTC, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động đối với cơ quan, đơn vị, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, tiền và tài sản nhà nước. 12
- Chức danh Tổng Kiểm toán Nhà nước tương đương cấp Bộ trưởng, do Thủ tướng bổ nhiệm và Quốc hội phê chuẩn. Sau khi Luật Kiểm toán Nhà nước có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2006, cơ quan Kiểm toán Nhà nước chuyển sang trực thuộc Quốc hội; vị trí Tổng kiểm toán Nhà nước do Quốc hội bầu theo sự đề cử của Ủy ban thường vụ Quốc hội sau khi được sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ. Tại Điều 12, Mục 2, Chương II Luật Kiểm toán Nhà nước 2015, nhiệm kỳ của Tổng Kiểm toán Nhà nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội (5 năm), có thể được bầu lại nhưng không quá 2 nhiệm kỳ. Sửa đổi này được đưa ra nhằm đảm bảo việc kiểm soát ngân sách nhà nước chi tiêu khách quan và độc lập hơn. Đến nay, Luật kiểm toán nhà nước năm 2015 thay thế cho Luật Kiểm toán nhà nước 2005. Tuy luật này không quy định rõ ràng về khái niệm kiểm toán Nhà nước nhưng ta vẫn có thể hiểu Kiểm toán Nhà nước là hệ thống bộ máy chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. KTNN là công việc kiểm toán do cơ quan kiểm toán nhà nước tiến hành theo luật định, được thực hiện theo kế hoạch đã định hoặc theo chỉ thị của cơ quan mà nó trực thuộc và không thu phí kiểm toán. Nội dung của Kiểm toán chủ yếu là kiểm toán tuân thủ, xem xét việc chấp hành các chính sách luật lệ, chế độc của Nhà nước và đánh giá sự hữu hiệu, hiệu quả hoạt động tại các đơn vị sử dụng vốn và kinh phí của Nhà nước. Kiểm toán viên Nhà nước là các công chức Nhà nước. Tại Khoản 8, Điều 3, Luật Kiểm toán Nhà nước 2015 quy định: “Kiểm toán viên nhà nước là công chức nhà nước được Tổng Kiểm toán nhà nước bổ nhiệm vào các ngạch kiểm toán viên nhà nước để thực hiện nhiệm vụ kiểm toán”. Cơ quan Kiểm toán nhà nước thực thi nhiệm vụ của mình chủ yếu thông qua đội ngũ Kiểm toán viên nhà nước. Vì vậy, đội ngũ Kiểm toán viên nhà nước 13
- mạnh hay yếu là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động, hiệu lực và hiệu quả cũng như uy tín của cơ quan Kiểm toán Nhà nước. Quan hệ giữa cơ quan KTNN và cơ quan được kiểm toán là quan hệ giữa chủ thể và khách thể. Kết quả kiểm toán của KTNN là căn cứ để: - Hội đồng nhân dân xem xét dự toán, phân bổ, giám sát thực hiện và quyết toán ngân sách địa phương. - Toà án và các cơ quan luật pháp sử dụng để xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về kinh tế, tài chính - Đối tượng được kiểm toán thực hiện các biện pháp khắc phục các sai phạm, yếu kém trong hoạt động do KTNN phát hiện và kiến nghị Tại Nhật Bản, Kiểm toán Nhà nước cũng được phân biệt rõ ràng với các hoạt động kiểm toán khác. Kiểm toán Nhà nước là cơ quan cao nhất, có quyền quyết định tới việc thành lập các tổ chức kiểm toán không phải là kiểm toán Nhà nước. Chính vì vậy, doanh nghiệp kiểm toán, kiểm toán viên phải được sự đồng ý của cơ quan kiểm toán Nhà nước mới được phép hoạt động. Khi đã được cho phép, kết quả kiểm toán của các doanh nghiệp kiểm toán độc lập, kiểm toán viên sẽ được công nhận và không cần qua công đoạn nữa là “kiểm tra, kiểm soát lại” bởi cơ quan kiểm toán Nhà nước [20]. Đây là một trong những nguyên tắc hoạt động của Kiểm toán tại Nhật Bản, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước này. 1.1.4.2. Kiểm toán nội bộ Kiểm toán nội bộ là hoạt động kiểm toán do các kiểm toán viên nội bộ của đơn vị tiến hành theo yêu cầu của giám đốc doanh nghiệp. Kiểm toán nội bộ xem xét việc liệu các quy trình trong doanh nghiệp có đang giúp cho doanh nghiệp quản trị được các rủi ro và đạt đến các mục tiêu chiến lược của mình hay không. Kiểm soát nội bộ có thể tính đến cả quy trình hoạt động cũng như các khía cạnh tài chính. 14
- Theo điều 3, Dự thảo Nghị định về Kiểm toán nội bộ năm 2016, Kiểm toán nội bộ là việc kiểm tra, đánh giá, giám sát tính đầy đủ, thích hợp và tính hữu hiệu của kiểm soát nội bộ. Cũng theo dự thảo nghị định này, kiểm toán viên nội bộ được hiểu là người có đủ tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật tham gia kiểm toán nội bộ. Chức năng của kiểm toán nội bộ chủ yếu kiểm tra phát hiện rủi ro và tồn tại, đề xuất khắc phục; nâng cao tính hiệu quả, năng xuất của các bộ phận trong công ty. Đối tượng kiểm toán là kiểm tra tính chính xác của BCTC; kiểm tra tính tuân thủ các quy định của công ty; kiểm tra tính hiệu quả, năng xuất của từng bộ phận trong công ty. Trên thực tế, phạm vi của kiểm toán nội bộ thay đổi và tùy thuộc vào qui mô, cơ cấu của đơn vị cũng như yêu cầu của các nhà quản lý doanh nghiệp. Báo cáo tài chính nội bộ không được công khai và chủ yếu phục vụ cho chủ doanh nghiệp, chủ yếu xoay quanh việc kiểm tra, đánh giá tính hiệu lực và tính hiệu quả của hệ thống kế toán, hệ thống kiểm soát nội bộ cũng như chất lượng thực thi trong những trách nhiệm được giao. 1.2. Các nguyên tắc hoạt động của kiểm toán độc lập 1.2.1. Khái niệm về nguyên tắc hoạt động của kiểm toán độc lập Nguyên tắc là điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo. Nguyên tắc hoạt động kiểm toán độc lập là tư tưởng chỉ đạo chung nhất được pháp luật kiểm toán độc lập ghi nhận nhằm định hướng, chỉ đạo doanh nghiệp kiểm toán độc lập và kiểm toán viên độc lập bắt buộc phải tuân theo. Các nguyên tắc này không chỉ là những quy phạm khi điều tiết mà còn là phương châm chỉ đạo khi áp dụng pháp luật. Việc định ra các nguyên tắc hoạt động của Luật Kiểm toán độc lập 2011 dựa trên cơ sở những nguyên tắc, chuẩn mực chung, căn cứ vào đối tượng và phương pháp điều chỉnh của Luật Kiểm toán 15
- độc lập để làm đòn bẩy, phép tắc cho các đối tượng được điều chỉnh bởi Luật Kiểm toán độc lập. Về nguyên lý, các quy định cụ thể của Luật Kiểm toán độc lập đều là sự cụ thể hóa các nguyên tắc hoặc phải phù hợp với các nguyên tắc này. Nguyên tắc hoạt động của Kiểm toán độc lập bao gồm 4 nguyên tắc với những nội quy định tại Điều 8 Luật Kiểm toán độc lập 2011 như sau: 1. Tuân thủ pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động nghề nghiệp và báo cáo kiểm toán. 2. Tuân thủ chuẩn mực kiểm toán và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán Việt Nam; đối với công việc kiểm toán theo hợp đồng kiểm toán mà yêu cầu áp dụng chuẩn mực kiểm toán khác thì phải tuân thủ chuẩn mực kiểm toán đó. 3. Độc lập, trung thực, khách quan. 4. Bảo mật thông tin. 1.2.2. Nguyên tắc hoạt động của kiểm toán độc lập Kiểm toán viên, tổ chức kiểm toán phải tuân thủ nguyên tắc hoạt động của kiểm toán độc lập. Trách nhiệm của KTV được quy định tại chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200 và cũng được quy định trong chuẩn mực kiểm toán quốc tế ISA. Nguyên tắc hành nghề cơ bản của KTV là phải tuân theo các chuẩn mực trên tuân thủ các nguyên tắc như sau: • Đảm bảo tính độc lập: Trong quá trình kiểm toán, đảm bảo tính độc lập tức là cho phép KTV đưa ra ý kiến mà không chịu ảnh hưởng của những tác động trái với những đánh giá chuyên nghiệp, cho phép một cá nhân hành động một cách chính trực, khách quan và có sự thận trọng nghề nghiệp. KTV không được nhận làm kế toán cho các đơn vị mà mình có quan hệ kinh tế và quyền lợi kinh tế như 16