Luận văn Nguyên nhân và điều kiện tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Nguyên nhân và điều kiện tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_nguyen_nhan_va_dieu_kien_tinh_hinh_toi_cuop_giat_ta.pdf
Nội dung text: Luận văn Nguyên nhân và điều kiện tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI Lê Thu Huyền NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2018
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI Lê Thu Huyền NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm Mã số: 8.38.01.05 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN TẤT VIỄN HÀ NỘI - 2018
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Các số liệu, trích dẫn được sử dụng trong luận văn đảm bảo tính chính xác. Tôi xin chịu trách nhiệm về nội dung công trình nghiên cứu của mình./.
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN 7 1.1. Khái niệm, ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1 7 1.2. Phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản 13 1.3. Cơ chế tác động của các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản 15 1.4. Mối liên hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản với tình hình tội cướp giật tài sản, với nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản và với hoạt động phòng ngừa. 18 Chương 2: THỰC TRẠNG NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 2013-2017 22 2.1. Khái quát tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1 22 2.2. Nhận diện các nguyên nhân và điều kiện cụ thể tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1 giai đoạn 2013 – 2017 34 2.3. Những hạn chế trong công tác tổ chức phòng, chống tội phạm 44 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP LOẠI TRỪ NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢNTRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 47 3.1. Dự báo tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh 47 3.2. Giải pháp khắc phục nguyên nhân và điều kiện tình hình tội cướp giật tài sản và phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản 50 KẾT LUẬN 66 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ANTT : An ninh trật tự BLHS : Bộ luật hình sự CAND : Công an nhân dân TAND : Tòa án nhân dân THTP : Tình hình tội phạm VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
- DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Mức độ tổng quan tình hình tội phạm và tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1 giai đoạn 2013 – 2017. Bảng 2.2. Cơ số tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1 giai đoạn 2013 – 2017 Bảng 2.3. Diễn biến tình hình các tội tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1 giai đoạn 2013 – 2017 (so sánh định gốc) Bảng 2.4. Cơ cấu về mức độ tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1 phân theo số dân 10 đơn vị hành chính cấp phường Bảng 2.5. Cơ cấu về mức độ tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1 phân theo diện tích 10 đơn vị hành chính cấp phường Bảng 2.6. Cơ cấu xét theo các bước thực hiện hành vi phạm tội Bảng 2.7. Cơ cấu xét theo phương tiện gây án Bảng 2.8. Cơ cấu xét theo thời gian gây án Bảng 2.9. Cơ cấu xét theo địa điểm thực hiện hành vi phạm tội Bảng 2.10. Cơ cấu xét theo chế tài áp dụng Bảng 2.11. Cơ cấu theo độ tuổi của bị cáo Bảng 2.12. Cơ cấu xét theo giới tính của bị cáo Bảng 2.13. Cơ cấu xét theo nơi ở của bị cáo Bảng 2.14. Cơ cấu xét theo trình độ học vấn của bị cáo Bảng 2.15. Cơ cấu xét theo nghề nghiệp của bị cáo Bảng 2.16. Cơ cấu xét theo hoàn cảnh gia đình của bị cáo Bảng 2.17. Cơ cấu xét theo tình trạng hôn nhân Bảng 2.18. Cơ cấu xét theo đặc điểm tiền án, tiền sự Bảng 2.19. Cơ cấu xét theo đặc điểm tái phạm, tái phạm nguy hiểm của bị cáo Bảng 2.20. Cơ cấu xét theo giới tính của người bị hại và tài sản bị cướp giật
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quận 1 là quận trung tâm của thành phố Hồ Chí Minh, bao gồm Quận Nhất và Quận Nhì (Sài Gòn cũ) được sáp nhập vào năm 1976.Quận 1 ở vị trí có thể được khắc họa như sau: phía bắc giáp quận Bình Thạnh, quận Phú Nhuận và quận 3; phía đông giáp quận 2 lấy sông Sài Gòn làm ranh giới; phía tây giáp quận 5 và phía nam giáp quận 4 lấy rạch Bến Nghé làm ranh giới. Quận 1 có 10 phường, diện tích 7,7211 km2, dân số khoảng 210.342 người (năm 2017), bao gồm nhiều dân tộc sinh sống, trong đó người Kinh chiếm đại đa số 89,3%, người hoa chiếm 10,2% và các dân tộc khác chiếm 0,5%. Với vị trí giao thông thuận lợi: nằm bên sông Sài Gòn, tiếp cận đầu mối giao thông đường thủy qua hai cảng: Sài Gòn và Khánh Hội, thuận lợi cho việc thông thương với các nước trên thế giới bằng đường biển. Hệ thống kinh rạch Bến Nghé, Thị Nghè thuận lợi về vận tải hàng hóa giữa trung tâm thành phố và đồng bằng sông Cửu Long. Hệ thống đường bộ thuận lợi, là trung tâm nối liền với toàn quận trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Những năm qua, Quận 1 đã có những bước chuyển biến lớn lao trong xây dựng kinh tế và phát triển văn hóa xã hội, giữ vững và phát huy ưu thế của một trung tâm thành phố về hành chính và ngoại giao, Quận 1 có 128 cơ quan ban ngành Thành Phố, Trung ương trú đóng. Từ ngày hình thành cho đến nay, Quận 1 luôn giữ vị trí trung tâm của thành phố. Qua hơn 300 năm xây dựng và phát triển, ngày nay Quận 1 đã trở thành trung tâm hành chính, văn hóa, dịch vụ, thương mại, xuất nhập khẩu của thành phố Hồ Chí Minh. Đặc biệt hàng năm, quận đã thu hút hàng triệu khách du lịch là người nước ngoài trên toàn thế giới đến thăm quan. Là quận phát triển nhất cả nước về mọi mặt bên cạnh đó thì tình hình an ninh, trật tự vẫn diễn biến phức tạp ảnh hưởng đến sự phát triển về kinh tế, 1
- văn hóa, xã hội trên địa bàn. Tình hình tội phạm nói chung, tình hình các tội xâm phạm sở hữu nói riêng, đăc biệt là tội cướp giật tài sản vẫn diễn ra hết sức phức tạp. theo báo cáo kết quả thụ lý giải quyết các loại án của TAND Quận 1 cho thấy từ năm 2013 đến năm 2017 có 1.741 vụ án, với 2.457 bị cáo đã được xét xử hình sự sơ thẩm, trong đó tội cướp giật tài sản là 212 vụ án, với 269 bị cáo, tức là tỷ lệ tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1 trong 5 năm qua chiếm tỷ lệ 12,18% về số vụ và 10,95% về số bị cáo. Là quận trung của cả nước nói chung, thành phố Hồ Chí Minh nói riêng về văn hóa, kinh tế, chính trị, trên địa bàn tập trung nhiều cơ quan hành chính như Ủy ban nhân dân thành phố, Viện Kiểm sát tối cao, Tòa án Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh,các cơ quan Lãnh sự quán, Đại sứ quán , do đó tình hình tội cướp giật như trên là rất đáng báo động cần đề ra các biện pháp phòng ngừa đạt hiệu quả với loại tội phạm này. Như vậy, đấu tranh với tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1 là một yêu cầu bức thiết từ thực tiễn xã hội. Yêu cầu này đã được Quận ủy và Ủy ban nhân dân Quận 1 luôn quan tâm và thực hiện bằng chỉ thị, kế hoạch cụ thểđể thực hiệnchương trình hành động số 04CTr/TU ngày 31/12/2010 của Ban Thường vụ Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh theo chỉ đạo của Trung ương,căn cứ Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22 tháng 10 năm 2010 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, đồng thời tổ chứctriển khai thực hiện Quyết định số 623/QĐ-TTg ngày 14 tháng 4 năm 2016của Chính phủ về phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 - 2025 và định hướng đến năm 2030, mà mục tiêu đã được xác định cụ thể là: “Đẩy lùi tội phạm và tệ nạn xã hội, phấn đấu đến năm 2020 giảm từ 3 - 5% tổng số vụ phạm tội hình sự so với năm 2016”. 2
- Công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trên địa bàn Quận 1 đã đạt được những kết quả nhất định, tuy nhiên đây chỉ là những biện pháp phòng ngừa các loại tội phạm nói chung chưa có những giải pháp để ngăn chặn hạn chế nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tình hình tội cướp giật tài sản cũng như phòng ngừa hiệu quả đối với loại tội này. Để đấu tranh có hiệu quả đối với loại tội phạm này, một trong những vấn đề quan trọng là cần làm rõ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản. Với cách nhìn nhận như vậy, tác giả đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Nguyên nhân và điều kiện tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên cứu luận văn Thạc sĩ Luật học, chuyên ngành Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm; Mãsố: 60.38.01.05. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Để có cơ sở lý luận cho việc thực hiện đề tài, các công trình khoa học sau đây đã được nghiên cứu: - “Tội phạm học, Luật Hình sự, Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, năm1994; -“Tội phạm học Việt Nam-Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Viện Nhà nước và Pháp luật, Nxb Công an nhân dân, năm 2000; -“Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt Nam”của TS. Phạm Văn Tỉnh, Nxb Tư pháp, năm 2007; - Giáo trình “Tội phạm học” của GS.TS. Võ Khánh Vinh, Nxb Công an nhân dân, 2013; - Giáo trình “Tội phạm học” của trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, năm 2004, 2012; - “Đấu tranh với tình hình tội phạm chống người thi hành công vụ ở nước ta hiện nay, một mô hình nghiên cứu tội phạm học chuyên ngành” của Phạm Văn Tỉnh, Đào Bá Sơn, Nxb Công an nhân dân, năm 2010; 3
- - “Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt Nam” của Nguyễn Văn Cảnh và Phạm Văn Tỉnh, do Học viện Cảnh sát nhân dân, Bộ Công an ấn hành năm 2013. Ở mức độ cụ thể và liên quan trực tiếp đến đề tài luận văn, các công trình khoa học sau đây cũng đã được tham khảo: Đào Quốc Thịnh (2014), Tội cướp giật tài sản trên địa bàn quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận văn Thạc sĩ Luật học – Học viện khoa học xã hội. Trần Xuân Huấn (2014), Tội cướp giật tài sản do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận văn Thạc sĩ Luật học – Học viện Khoa học xã hội. Lê Thuần Phong (năm 2015), Tội cướp giật tài sản trên địa bàn quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận văn Thạc sĩ Luật học – Học viện Khoa học xã hội. Trần Thanh Hải (2016), Tội cướp giật tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Dương: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận văn Thạc sĩ Luật học – Học viện Khoa học xã hội. Đặng Ngọc Thắng (2016), Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ Luật học – Học viện Khoa học xã hội. Trong các công trình liên quan trực tiếp đến đề tài luận văn nêu trên, chưa có công trình nào nghiên cứu về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu 4
- Đề tài có mục đích nghiên cứu làm rõ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn trong những năm tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Thứ nhất: Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản. Thứ hai: Nghiên cứu, phân tích làm rõ các yếu tố giữ vai trò là nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1. Thứ ba: Dự báo tình hình tội cướp giật tài sản và đề xuất giải pháp phòng ngừa tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung, đề tài được nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản dưới góc độ tội phạm học thuộc chuyên ngành Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm; - Về không gian, đề tài nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh - Về thời gian, đề tài nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1 trong thời gian từ 2013 đến năm 2017 5
- 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp logic, phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, hệ thống, diễn giải, quy nạp, phương pháp dự báo. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Về mặt lý luận Về mặt lý luận, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ hơn lý luận tội phạm học về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm trên địa bàn Quận 1. 6.2. Về mặt thực tiễn Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng vào việc thực hiện công tác tổ chức phòng ngừa tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1, góp phần ngăn chặn, phòng ngừa tội phạm trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh 7. Kết cấu của luận văn Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về nguyên nhân và điều kiện tình hình tội cướp giật tài sản Chương 2: Thực trạng nguyên nhân và điều kiện tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2013 - 2017 Chương 3: Giải pháp loại trừ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh 6
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN 1.1. Khái niệm, ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1 1.1.1. Khái quát những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội cướp giật tài sản Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Điều 171, Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội cướp giật tài sản. Theo các điều luật này, khách thể trực tiếp bị xâm hại là quan hệ sở hữu về tài sản mà đối tượng tác động là tài sản của chủ sở hữu hợp pháp. Mặt khách quan của tội phạm được thể hiện bằng hành công khai chiếm đoạt tài sản một cách nhanh chóng. Đặc trưng của tội cướp giật tài sản là hành vi giật, tức là giằng mạnh lấy tài sản về mình một cách nhanh chóng (ngay tức khắc). Hành vi giật tài sản đã bao gồm bản chất của tội cướp giật nên Điều luật không mô tả hành vi khách quan của tội cướp giật trong cấu thành tội phạm. Vì hành vi giật tài sản một cách nhanh chóng đã tạo ra yếu tố bất ngờ với chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm về tài sản (người đang quản lý tài sản ) làm cho những người này không có khả năng giữ được tài sản đang quản lý. Hành vi công khai chiếm đoạt cũng có nghĩa là người phạm tội không có ý thức che giấu hành vi phạm tội của mình và khi thực hiện việc chiếm đoạt cho phép chủ tài sản biết ngay có hành vi chiếm đoạt xảy ra. Để thực hiện hành vi cướp giật tài sản, người phạm tội có thể sử dụng nhiều thủ đoạn khác nhau như: lợi dụng chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản không chú ý, bất ngờ giật tài sản, lợi dụng chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản đang bị vướng mắc hoặc đang điều khiển phương tiện giao thông để giật tài sản 7
- Chủ thể của tội phạm là người từ đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự hiện hành. Về mặt chủ quan, lỗi của người phạm tội cướp giật tài sản là hình thức lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra. Mục đích của tội cướp giật tài sản là chiếm đoạt tài sản của người khác. Hình phạt đối với tội cướp giật tài sản được Bộ luật hình sự hiện hành quy định cụ thể đối với từng trường hợp, thấp nhất là 01 năm tù giam, cao nhất là tù chung thân. 1.1.2. Khái niệm nguyên nhân và điều kiện tình hình tội cướp giật tài sản Theo lý thuyết về tội phạm học, nguyên nhân của tội phạm là những hiện tượng, quá trình xã hội có khả năng làm phát sinh tình hình tội phạm trong thực tế. Những hiện tượng quá trình xã hội này có trước tội phạm về thời gian. Điều kiện là những yếu tố không có khả năng trực tiếp làm phát sinh tình hình tội phạm, không chứa đựng những mâu thuẫn và xung đột trong xã hội nhưng lại tạo ra những khả năng và hoàn cảnh thuận lợi để nguyên nhân nhanh chóng làm phát sinh tội phạm. Trong mối tương quan giữa nguyên nhân, điều kiện thì nguyên nhân luôn là nhân tố trực tiếp làm phát sinh tội phạm, luôn thể hiện những mâu thuẫn về nhiều mặt trong đời sống xã hội, và những mâu thuẫn này luôn tồn tại ổn định về mặt thời gian. Còn điều kiện là những nhân tố tồn tại kém vền vững, không ổn định, dễ bị phá vỡ và thay đổi. Nguyên nhân và điều kiện luôn có sự thay đổi liên tục về mặt lịch sử. Việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tội phạm nói chung và các tội xâm phạm hoạt động tư pháp nói riêng được dựa trên luận điểm rất cơ bản, coi tội phạm là một hiện tượng xã hội phức tạp, tồn tại khách quan và có mối liên hệ với các hiện tượng xã hội khác, đồng thời cũng khẳng định khả năng ngăn chặn và từng bước loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội. 8
- Các nguyên nhân và điều kiện của tình trạng tội phạm rất đa dạng và biểu hiện ở nhiều mức độ khác nhau nên việc xác định chúng gặp rất nhiều khó khăn. Bởi vì nguyên nhân và điều kiện có mối liên hệ chặt chẽ với nhau mà nếu tách biệt chúng ra có khi lại không phân biệt được đâu là nguyên nhân, đâu là điều kiện. Hơn nữa, tình trạng tội phạm là hệ quả của nguyên nhân và điều kiện được nảy sinh bỏi rất nhiều các hiện tượng xã hội khách quan và chủ quan tác động qua lại lẫn nhau và luôn nằm bên ngoài ý thức của người phạm tội. Vì vậy có những trường hợp có thể coi hiện tượng xã hội này là nguyên nhân nhưng cũng có thể coi đó là điều kiện mặc dù nguyên nhân và điều kiện là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau của chủ nghiã duy yật biện chứng. Điều đó có nghĩa rằng nguyên nhân không phải là điều kiện nhưng ở một hoàn cảnh nào đó, một chừng mực nào đó thì điều kiện lại trở thành nguyên nhân của tội phạm. Tuy nhiên sự phân tích trên chỉ có tính chất tương đối. Tội phạm học phân chia nguyên nhân và điều kiện của tội phạm học làm ba loại: - Nguyên nhân và điều kiện của tình trạng tội phạm nói chung - Nguyên nhân và điều kiện của nhóm tội phạm (có cùng khách thể loại) - Nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể. Để làm rõ nguyên nhân của tội phạm cụ thể thì không chỉ phân tích một tội phạm cụ thể biệt lập, mà cần xem xét nó trong mối quan hệ giữa cái Chung và cái riêng, giữa bộ phận và chỉnh thể, tức là phải dựa trên những nhận xét, đánh giá và tìm hiểu các nguyên nhân và điều kiện của tình trạng tội phạm nói chung cũng như tìm hiểu nguyên nhân và điều kiện của một nhóm tội có cùng khách thể loại. Việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện phạm tội ở ba mức độ như vậy không có nghĩa là phân chia 9
- một cách cơ học các nguyên nhân và điều kiện ra làm ba phần: cho tình trạng tội phạm, cho một nhóm tội và cho một tội phạm cụ thể mà ở đây, các nguyên nhân và điều kiện đó phải được xem xét trong một hệ thống. Giữa các yếu tố là nguyên nhân và điều kiện có vô vàn mối liên hệ với nhau, tác động lên tình trạng tội phạm trong những phạm vi khác nhau và ở những mức độ khác nhau. Với tính cách là hiện tượng xã hội, tình hình tội phạm có nguyên nhân và điều kiện xã hội. Về vấn đề này, GS.TS Võ Khánh Vinh khẳng định: “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm được hiểu là hệ thống các hiện tượng xã hội tiêu cực trong hình thái kinh tế–xã hội tương ứng quyết định sự ra đời của tình hình tội phạm như là hậu quả của mình” và “các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm tạo thành một hệ thống gồm nhiều bộ phận cấu thành nó” [39, tr.86] Với tính cách là những hiện tượng xã hội tiêu cực, nguyên nhân và điều kiện xuất hiện trong xã hội, tồn tại trong xã hội có nguồn gốc và bản chất mang tính xã hội; chúng bao giờ cũng nằm trong hệ thống các mâu thuẫn xã hội trong tất cả mọi mặt, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Các hiện tượng tiêu cực này luôn tương tác qua lại với nhau sinh ra tình hình tội phạm. Và khi tình hình tội phạm xuất hiện thì có sự tác động trở lại tái sản xuất ra tình hình tội phạm như là một kết quả tất yếu. “Bởi một hiện tượng nào đó trong mối liên hệ này là nguyên nhân thì trong mối liên hệ khác là kết quả, và ngược lại” [25, tr.256]. Trong nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm thì điều kiện cũng giống như nguyên nhân đó là những hiện tượng xã hội tiêu cực, và điều kiện không sinh ra tình hình tội phạm mà nó chỉ là chất xúc tác có tác dụng hỗ trợ, thúc đẩy tình hình tội phạm. Trong thực tế việc phân định rõ đâu là nguyên nhân, đâu là điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản là việc khó khăn. 10
- Trong lĩnh vực xã hội nói chung và tội phạm học học nói riêng, sự phân biệt giữa nguyên nhân và điều kiện chỉ mang tính chất tương đối, thực tế đấu tranh và phòng ngừa tội phạm luôn đòi hỏi phải loại trừ cả hai,tức là phải loại trừ cả nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tội phạm. Như vậy, có thể đưa ra định nghĩa như sau: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản hay của hành vi phạm tội cướp giật tài sản là sự tác động qua lại giữa các yếu tố tiêu cực của môi trường sống bên ngoài với các yếu tố tâm – sinh lý tiêu cực bên trong con người mà trong những tình huống, hoàn cảnh nhất định đã dẫn đến việc thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự hiện hành quy định là tội cướp giật tài sản. 1.1.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện tình hình tội cướp giật tài sản Nghiên cứu tội phạm học nói chung, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng nhằm đề ra các biện pháp phòng ngừa đạt hiệu quả, hạn chế, bài trừ tình hình tội phạm ra khỏi đời sống xã hội, giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội. Như vậy, nghiên cứu về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản có ý nghĩa sau: Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản góp phần nhận thức về toàn bộ tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1 từ đó minh chứng cho sự đúng đắn của lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm. Thông qua việc nghiên cứu sẽ góp phần làm rõ thực trạng, cơ cấu, diễn biến của tình hình tội phạm cướp giật tài sản và xu hướng của tình hình tội phạm trong thời gian tới. Nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sảncòn giúp hiểu rõ hơn các yếu tố thuộc nhân thân người phạm tội, xem xét, nhìn nhận những yếu tố này trong sự tác động qua lại với 11
- các yếu tố khác thuộc môi trường sống và hoàn cảnh làm phát sinh tình hình tội phạm. Thứ hai, Việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình cướp giật tài sản là cơ sở để xây dựng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội này một cách khoa học và hiệu quả. Việc tìm ra quy luật phát sinh, tồn tại, phát triển của tình hình tội cướp giật tài sản để chủ động những điều kiện cần thiết là hoạt động tư duy có định hướng chiếm vị trí rất quan trọng trong đấu tranh nhằm kiềm chế, đẩy lùi tội cướp giật tài sản trong xã hội. Nếu không xác định được hoặc xác định chưa sát hợp về nguyên nhân và điều kiện của tình hình cướp giật tài sản thì định hướng cho cuộc đấu tranh này cũng sẽ không đúng, dẫn đến kết quả bị hạn chế. Thứ ba, Nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản có ý nghĩa quan trọng đối với việc hoạch định các chính sách kinh tế, xã hội, pháp luật, hình sự Việc chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là chủ trương đúng đắn, tích cực đã thúc đẩy nền kinh tế đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế triền miên. Thế nhưng, chuyển đổi cơ chế quản lý mới của nền kinh tế tác động đến nhiều lĩnh vực khác mà ở các lĩnh vực này làm phát sinh tội phạm. Ngoài ra, tình trạng thất nghiệp ngày càng gia tăng là một yếu tố tác động mạnh mẽ đến tình hình tội phạm. Như vậy nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện tình hình tội cướp giật tài sản có ý nghĩa quan trọng trong việc hoạch định chính sách nhằm giảm thiểu, phòng ngừa tội phạm một cách hiệu quả nhất như: Hoàn thiện chính sách về việc làm trong xã hội một cách hiệu quả, tạo công việc cho những 12
- người thất nghiệp có việc làm ổn định, phát triển kinh tế trên cơ sở cần được quản lý chặt chẽ. 1.2. Phân loại nguyên nhân và điều kiện tình hình tội cướp giật tài sản Theo GS.TS. Võ Khánh Vinh thì “Trong tội phạm học, tùy thuộc vào nhiệm vụ của việc nghiên cứu người ta sử dụng việc phân chia các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm theo các cách khác nhau” [39, tr.93]. Việc phân loại các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm được tiến hành theo các tiêu chí về cơ chế, mức độ tác động, nội dung tác động và bản chất của sự tồn tại. Tình hình tội cướp giật tài sản phát sinh không bởi một nguyên nhân và điều kiện mà bởi hàng loạt các nguyên nhân và điều kiện khác nhau. Do đó để nhận thức chung về mặt khoa học và về mặt thực tiễn cần phải phân loại chúng. Trong tội phạm học, các nhà khoa học có các cách phân loại sau: 1.2.1. Căn cứ vào mức độ tác động - Nguyên nhân và điều kiện chủ yếu làm phát sinh tình hình cướp giật tài sản là những nhân tố đóng vai trò chủ chốt trong việc làm phát sinh tội cướp giật tài sản và những nhân tố này chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng số các nhân tố làm phát sinh tình hình tội cướp giật tài sản. - Nguyên nhân và điều kiện thứ yếu làm phát sinh tình hình tội cướp giật tài sản là những nhân tố chỉ đóng vai trò hạn chế và chiếm tỷ trọng không đáng kể trong tổng số các nhân tố phát sinh tình hình tội cướp giật tài sản. 1.2.2. Căn cứ vào nguồn gốc xuất hiện - Nguyên nhân và điều kiện bắt nguồn từ môi trường sống là tổng hợp các hiện tượng xã hội tiêu cực hình thành, tồn tại trong môi trường sống của cá nhân có thể tác động, ảnh hưởng đến cá nhân ở mức độ nhất định từ đó làm 13
- phát sinh tội cướp giật tài sản. Ví dụ như các hành vi lệch chuẩn trong môi trường gia đình, môi trường xã hội, môi trường giáo dục - Nguyên nhân và điều kiện xuất phát từ phía người phạm tội là tổng hợp những nhân tố tiêu cực thuộc về nhân thân người phạm tội có thể tác động, ảnh hưởng đến việc phát sinh tội cướp giật tài sản của người phạm tội. Những nhân tố tiêu cực này có thể là dấu hiệu thuộc về sinh học, tâm lý, xã hội – nghề nghiệp của người phạm tội. 1.2.3. Căn cứ lĩnh vực hình thành nguyên nhân phạm tội - Nguyên nhân kinh tế - xã hội. Đây là những hiện tượng xã hội trong lĩnh vực kinh tế - xã hội có thể tác động làm phát sinh tình hình tội cướp giật tài sản như quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, thất nghiệp, quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn - Văn hóa giáo dục. Đây là những hiện tượng xã hội tiêu cực trong lĩnh vực xây dựng, quản lý, triển khai thực hiện các chính sách, chương trình về văn hóa, giáo dục có thể tác động ảnh hưởng làm phát sinh tình hình tội cướp giật tài sản - Tổ chức quản lý. Đây là một số thiếu sót, bất cập trong hoạt động của các cơ quan chức năng có thẩm quyền quản lý trong lĩnh vực nhất định. Thuộc về các nguyên nhân này có thể là các hiện tượng xã hội như: Buông lỏng quản lý, đùn đẩy trách nhiệm cho nhau, ý thức tinh thần trách nhiệm trong việc hợp tác giải quyết vụ việc - Về chính sách pháp luật. Nguyên nhân và điều kiện thuộc thuộc lĩnh vực phát hiện và xử lý tội phạm. Việc chậm giải quyết những bức xúc xã hội hoặc xử lý chưa nghiêm, chưa kiên quyết triệt để trong đấu tranh với tội phạm có thể tác động, ảnh hưởng làm phát sinh tình hình tội cướp giật tài sản 14
- 1.3. Cơ chế tác động của các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản là những hiện tượng, quá trình xã hội tiêu cực tác động qua lại với tâm, sinh lý cá nhân người phạm tội hình thành nhân cách của người phạm tội. Những cá nhân mang đặc điểm nhân thân xấu này khi gặp những tình huống cụ thể sẽ chuyển hóa thành hành vi phạm tội. GS.TS Võ Khánh Vinh cho rằng: “Những yếu tố thuộc môi trường bên ngoài hay quá trình tâm sinh lý bên ngoài con người, dù ở mức độ bất lợi và xấu như thế nào đi chăng nữa tự nó đều không phải là nguyên nhân của hành vi phạm tội cụ thể, mà là sự tương tác, kết hợp cả hai yếu tố đó mới trở thành nguyên nhân của tội phạm cụ thể ”. Cơ chế tác động của các nguyên nhân và điều kiện diễn ra theo hai giai đoạn : Một là, giai đoạn tác động qua lại giữa các yếu tố tiêu cực của môi trường sống với các đặc điểm bên trong của cá nhân để hình thành các đặc điểm nhân thân xấu của con người Hai là, giai đoạn tác động qua lại giữa các đặc điểm nhân thân xấu của con người với các tình huống cụ phạm tội cụ thể sẽ chuyển hóa thành hành vi phạm tội. Để hiểu rõ hơn về các nội dung trong cơ chế tác động của các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản ta có thể phân tích các nội dung sau: - Tác động của môi trường xã hội Môi trường sống của mỗi cá nhân có ảnh hưởng rất lớn đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của con người. Những môi trường sống bao gồm như: môi trường gia đình, môi trường giáo dục, môi trường văn hóa – xã 15
- hội Những môi trường này sẽ tác động trực tiếp đến con người từ khi sinh ra, nếu sống trong môi trường thuận lợi thì cá nhân đó sẽ hình thành những phẩm chất tốt, ngược lại tác động của những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường sẽ ảnh hưởng đến quá trình hình thành nhân cách người phạm tội. Có thể thấy rằng cá nhân sống trong môi trường gia đình không hoàn thiện, khó khăn về kinh tế, cha mẹ không quan tâm con cái sẽ tác động hình thành những phẩm chất cá nhân tiêu cực đối với con người như lòng tham, nhu cầu sai lệch về tài sản và từ đó sẽ dễ dàng phạm các tội xâm phạm sở hữu nói chung, tội cướp giật tài sản nói riêng. - Tác động của quá trình hình thành nhân cách người phạm tội Sự tác động qua lại của môi trường sống với tâm sinh lý của cá nhân sẽ hình thành nhân cách người phạm tội. Khi gặp những yếu tố thuận lợi về môi trường sống tác động hình thành nhân cách người phạm tội thì bản thân người phạm tội sẽ tác động trở lại để hình thành nhân cách con người đó. Như vậy có thể thấy rằng sự tác động của quá trình hình thành nhân cách người phạm tội là sự tác động qua lại, tương tác lẫn nhau. Điều này giải thích không phải cá nhân nào sống trong môi trường không thuận lợi thì đều phạm tội. Cùng sống trong một môi trường giống nhau nhưng có người phạm tội nhưng có người thì không. Khi môi trường sống tác động đến cá nhân thì cá nhân đó tác trở lại với môi trường và hình thành nhân cách con người. Tính độc lập của mỗi cá nhân đối với môi trường sống, cho thấy trên thực tế, có rất nhiều người sống trong môi trường, họ có thể có hoàn cảnh giống nhau hoặc tương tự như người phạm tội, nhưng không phải ai cũng trở thành người phạm tội. Hoặc là, ngay cả giữa những người phạm tội thì mức độ chịu sự tác động của môi trường dẫn đến việc thực hiện các tội phạm cũng khác nhau. Đó là do tính độc lập của mỗi cá nhân trong môi trường là khác nhau, tức là mặc dù các nhân chịu sự tác động lớn từ môi trường sống, nhưng 16