Luận văn Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hậu Giang
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hậu Giang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_nguyen_nhan_va_dieu_kien_cua_tinh_hinh_toi_trom_cap.pdf
Nội dung text: Luận văn Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hậu Giang
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HUỲNH DUY KHANH NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẬU GIANG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI- 2017
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HUỲNH DUY KHANH NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẬU GIANG Chuyên ngành: Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm Mã số: 60.38.01.05 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN ĐÌNH NHÃ HÀ NỘI- 2017
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN 7 1.1. Tội trộm cắp tài sản và ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản 7 1.2. Khái niệm và phân loại nguyên nhân và điều kiện của tội trộm cắp tài sản . 13 1.3. Cơ chế tác động và mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tội trộm cắp tài sản với tình hình tội phạm, nhân thân người phạm tội và phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản 24 Chương 2: NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẬU GIANG 30 2.1. Diễn biến tình hình tội trộm cắp tài sản ở tỉnh Hậu Giang giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015 30 2.2. Cơ cấu của tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hậu Giang 31 2.3. Kết quả đấu tranh và những khó khăn, bất cập trong đấu tranh phòng, chống tội trộm cắp tài sản ở tỉnh Hậu Giang từ năm 2011 đến năm 2015 40 2.4. Các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản ở tỉnh Hậu Giang giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015 43 Chương 3: DỰ BÁO TÌNH HÌNH VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ PHÒNG NGỪA TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN Ở TỈNH HẬU GIANG TRONG THỜI GIAN TỚI 54 3.1. Dự báo diễn biến tình hình tội trộm cắp tài sản ở tỉnh Hậu Giang trong thời gian tới 54 3.2. Một số giải pháp tăng cường hoạt động phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hậu Giang trong thời gian tới 57 3.3. Giải pháp nâng cao nhận thức về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản 75 KẾT LUẬN 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT - BLHS : Bộ luật hình sự. - BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự. - CQĐT : Cơ quan điều tra. - TAND : Tòa án nhân dân. - TCTS : Trộm cắp tài sản. - UBND : Ủy ban nhân dân. - VKSND : Viện kiểm sát nhân dân.
- DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Diễn biến tình hình các tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hậu Giang giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015 (so sánh định gốc) 30 Bảng 2.2. Tỷ lệ tội trộm cắp tài sản trong tổng số tội phạm trên địa bàn tỉnh Hậu Giang 31 Bảng 2.3. So sánh tương quan giữa tội trộm cắp với các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh Hậu Giang trong giai đoạn (từ năm 2011 đến năm 2015) 32 Bảng 2.4. Cơ cấu của tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hậu Giang từ năm 2011 đến năm 2015 xét theo loại tội phạm 33 Bảng 2.5. Cơ cấu tình hình tội trộm cắp tài sản ở tỉnh Hậu Giang xét theo thời gian phạm tội 34 Bảng 2.6. Cơ cấu về hình phạt đối với người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hậu Giang (từ năm 2011 đến năm 2015) 35 Bảng 2.7. Cơ cấu về độ tuổi của người phạm tội trộm cắp tài sản 38 Bảng 2.8. Cơ cấu về trình độ học vấn của người phạm tội trộm cắp tài sản 38 Bảng 2.9. Cơ cấu về giới tính, nghề nghiệp của người phạm tội trộm cắp tài sản 39 Bảng 2.10. Cơ cấu về số người nghiện chất ma túy, tái phạm, tái phạm nguy hiểm phạm tội trộm cắp tài sản 40
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hậu Giang là một tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long, được thành lập vào năm 2004 do tách ra từ tỉnh Cần Thơ cũ; phía Tây giáp tỉnh Kiên Giang, phía Bắc giáp thành phố Cần Thơ và tỉnh Vĩnh Long, phía Nam giáp tỉnh Bạc Liêu, phía Đông giáp tỉnh Sóc Trăng. Cơ cấu lãnh thổ có 08 đơn vị hành chính, gồm 01 thành phố, 02 thị xã và 05 huyện. Diện tích tự nhiên 1.744,7 km2, dân số: 895.918 người, mật độ dân số trung bình là 514 người/ km2. Trong những năm qua, cùng với sự đổi mới, phát triển chung của cả nước, với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp Hậu Giang đã và đang tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế, đẩy mạnh chính sách mở rộng, thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, tạo điều kiện thuận lợi cho các khu, cụm công nghiệp và doanh nghiệp hoạt động kinh doanh. Do vậy, kinh tế tiếp tục phát triển với tốc độ nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng định hướng, tình hình Kinh tế - Văn hóa - Xã hội có chuyển biến tích cực, đời sống nhân dân ngày được nâng lên, tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm gần đây đạt trung bình 13,5%, giá trị gia tăng bình quân đầu người năm 2015 đạt 36,5 triệu đồng/người (tương đương 1.699 USD), thu nhập này cao gấp 2,3 lần so với năm 2010. Bên cạnh những mặt tích cực như đã khái quát thì tình hình xã hội ở Hậu Giang vẫn còn tồn tại một số hạn chế, tiêu cực nhất định. Tình hình tội phạm tăng nhanh về số lượng và phức tạp về tính chất, đặc biệt là tình hình các tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung và tình hình tội trộm cắp tài sản nói riêng. Theo số liệu báo cáo thống kê tội phạm trong giai đoạn 5 năm từ 2011 – 2015 của liên ngành Công an, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang, cho thấy: Tội trộm cắp tài sản là phổ biến, chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng số tội phạm nói chung. Thực hiện Chỉ thị số 48/CT-TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tội phạm trong tình hình mới”, Tỉnh ủy đã tập trung lãnh, chỉ đạo các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành 1
- chức năng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể thường xuyên triển khai quyết liệt các biện pháp phòng ngừa tội phạm, qua đó đã gặt hái được nhiều kết quả nhất định, góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh nhà. Tuy nhiên, tình hình tội phạm vẫn chưa có biểu hiện giảm, nhất là tội phạm xâm phạm sở hữu; phổ biến là tội trộm cắp tài sản, nhiều vụ có tính chất hết sức nghiêm trọng, làm thiệt hại lớn đến tài sản của công dân, của cơ quan, tổ chức. Nó tác động tiêu cực đến tâm lý, đời sống của quần chúng nhân dân trên diện rộng, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, an toàn xã hội ở địa phương. Vì vậy, cần hạn chế, đẩy lùi tình hình tội phạm và nhất là tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hậu Giang. Để đấu tranh phòng, chống có hiệu quả đối với các tội xâm phạm sở hữu, đặc biệt là tội trộm cắp tài sản, điều quan trọng là chúng ta cần nhận thức một cách sâu sắc các dấu hiệu pháp lý hình sự, đặc điểm tội phạm học của nó; tìm ra nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, những bất cập, khiếm khuyết trong công tác đấu tranh phòng, chống tại địa phương, trên cơ sở đó xây dựng hệ thống các giải pháp hữu hiệu cho việc đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này. Vì vậy, việc Học viên chọn đề tài “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hậu Giang” nhằm nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện và có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hậu Giang trong thời gian qua, qua đó đề xuất những giải pháp hiệu quả nhằm phòng, chống tội phạm này để làm luận văn thạc sĩ luật học là mang tính cấp thiết và phù hợp với yêu cầu của tình hình hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2.1. Tình hình nghiên cứu lý luận chung của tội phạm học Để có cơ sở lý luận cho việc thực hiện đề tài luận văn, các công trình khoa học sau đây đã được tác giả nghiên cứu: - Những vấn đề lý luận về luật hình sự, tố tụng hình sự và tội phạm học (Sưu tập chuyên đề), Viện thông tin khoa học xã hội, Hà Nội 1982; 2
- - Tội phạm học, Luật Hình sự, Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia năm 1994; - Tội phạm học Việt nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Viện Nhà nước và Pháp luật, Nxb. CAND năm 2000; - Giáo trình “Tội phạm học” của GS.TS. Võ Khành Vinh, NXB Công an nhân dân, tái bản năm 2011, 2013; - Giáo trình “Tội phạm học” của trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân năm 2004, 2012; - Giáo trình “Tội phạm học” của Học viện Cảnh sát nhân dân, Nxb. Công an nhân dân năm 2002; 2013; - Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt Nam TS. Phạm Văn Tỉnh, Nxb. Công an nhân dân năm 2007; - Bộ Công an, HVCSND, Một số vấn đề tội phạm học Việt Nam, H.2013; - Các bài viết về nguyên nhân và điều kiện của tội phạm, về nhân thân người phạm tội, về phòng ngừa tội phạm được đăng tải trên tạp chí như: Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, Tạp chí Cảnh sát nhân dân, Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Tòa án nhân dân và Tạp chí Công an nhân dân trong những năm gần đây. Các công trình đã nêu là rất cần thiết cho tác giả, vì trong đó không chỉ chứa đựng lý luận tội phạm học về các vấn đề cơ bản mà đề tài luận văn phải giải quyết mà còn có những chỉ dẫn cho việc xác định phương pháp luận nghiên cứu đề tài, từ tổng quan cho đến chi tiết. 2.2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở mức độ cụ thể và liên quan trực tiếp đến đề tài luận văn, các công trình sau đây đã được tham khảo: - Luận văn thạc sĩ luật học với đề tài “Đấu tranh phòng, chống tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Thuận” do Nguyễn Thanh Phương thực hiện năm 2009; 3
- - Luận văn thạc sĩ luật học với đề tài “Tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng, chống” do K’Nhơn thực hiện năm 2012; - Luận văn thạc sĩ luật học với đề tài “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh Tiền Giang” do Nguyễn Văn Phên thực hiện năm 2014. Ngoài ra, còn có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về loại tội phạm này theo chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự. Các luận văn, các công trình nghiên cứu này được thực hiện ở các địa bàn khác nhau, các giai đoạn, các góc độ, khía cạnh khác nhau nên có giá trị tham khảo cho việc thực hiện đề tài luận văn của học viên mà vẫn không bị trùng lặp. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Thiết lập hệ thống các biện pháp phòng ngừa tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hậu Giang chính là mục đích nghiên cứu của đề tài. Nó được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu tình hình, nguyên nhân và điều kiện của tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hậu Giang giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ các đặc điểm pháp lý của tội trộm cắp tài sản; - Khái quát hóa những vấn đề lý luận chung về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản nói chung và trên địa bàn tỉnh Hậu Giang nói riêng; - Làm rõ những nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hậu Giang giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015; - Đề xuất, kiến nghị các giải pháp phòng ngừa tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hậu Giang trên cơ sở đã xác định được các nguyên nhân và điều kiện của tội trộm cắp tài sản trên địa bàn này. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài 4
- Luận văn nghiên cứu lý luận và các hiện tượng xã hội là nguyên nhân và điều kiện phát sinh và duy trì tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hậu Giang trong khoảng thời gian từ năm 2011 đến năm 2015. 4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài - Về nội dung: Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học thuộc chuyên ngành Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm về tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và cập nhật Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015; nghiên cứu và sử dụng số liệu thực tế trên địa bàn tỉnh Hậu Giang, bao gồm số liệu thống kê của các cơ quan tư pháp hình sự tỉnh, đặc biệt là của Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang và 200 bản án hình sự về tội trộm cắp tài sản. - Về thời gian: Luận văn nghiên cứu, thu thập số liệu thực tế trong khoảng thời gian 05 năm, từ năm 2011 đến năm 2015. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Về phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đấu tranh phòng ngừa tội phạm. - Về phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp biện chứng; phương pháp hệ thống; thống kê; phương pháp nghiên cứu hồ sơ; phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn; phương pháp kế thừa; phương pháp so sánh; phương pháp mô tả, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp và các phương pháp chuyên biệt khác của tội phạm học. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tội trộm cắp tài sản, nghiên cứu của đề tài nhằm củng cố, bổ sung lý luận và góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hậu Giang nói riêng. Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được dùng làm tài liệu tham khảo giúp các cơ quan Nhà nước, Tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn tỉnh 5
- Hậu Giang đề ra các giải pháp nâng cao các biện pháp phòng, chống tội phạm, mà cụ thể là phòng chống tội trộm cắp tài sản trong phạm vi tỉnh Hậu Giang nói riêng và cả nước nói chung. Kết quả nghiên cứu của đề tài cũng là những tài liệu tham khảo hữu ích cho cán bộ, giảng viên, sinh viên trong các cơ sở đào tạo. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của luận văn được cấu trúc thành 03 chương, cụ thể là: Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản. Chương 2: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hậu Giang. Chương 3: Dự báo tình hình và một số giải pháp tăng cường hiệu quả phòng ngừa tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hậu Giang trong thời gian tới. 6
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN 1.1. Tội trộm cắp tài sản và ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản 1.1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản Giáo trình trường Đại học Luật Hà Nội đưa ra khái niệm trộm cắp tài sản: “Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có chủ” [37, tr.34]. Khái niệm này đã mô tả dấu hiệu hành vi khách quan của tội phạm là hành vi chiếm đoạt; việc chiếm đoạt được thực hiện lén lút; tài sản bị chiếm đoạt là tài sản đang được sở hữu của chủ sở hữu. Tuy nhiên, khái niệm này không thể hiện rõ một số dấu hiệu pháp lý khác của tội trộm cắp tài sản như dấu hiệu về lỗi của người phạm tội, dấu hiệu về độ tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự của chủ thể tội phạm. Khái niệm tội trộm cắp tài sản đầy đủ phải thỏa mãn các dấu hiệu của tội phạm mà theo PGS.TSKH. Lê Cảm, phải thể hiện trên ba bình diện: Bình diện khách quan, bình diện pháp lý và bình diện chủ quan; với năm dấu hiệu: Tội phạm lŕ hŕnh vi nguy hiểm cho xã hội; tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự; tội phạm lŕ hŕnh vi do ngýời có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi [7, tr.230]. Dựa vào các quan điểm trên, tác giả đưa ra khái niệm tội trộm cắp tài sản như sau: Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý, xâm phạm quyền sở hữu được Nhà nước bảo vệ bằng pháp luật. Khái niệm tội trộm cắp tài sản trên đã xác định hành vi phạm tội trộm cắp tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác. Hình thức chiếm đoạt của người phạm tội là hành vi lén lút (đây là dấu hiệu phân biệt tội trộm cắp tài sản với các tội phạm có tính chất chiếm đoạt khác), xâm phạm quyền sở hữu về tài sản của người khác. Các tội khác xâm phạm quyền sở hữu có thể bằng hành vi chiếm đoạt 7
- nhưng sự chiếm đoạt xảy ra công khai như tội cướp tài sản, tội cưỡng đoạt tài sản hoặc chiếm đoạt bằng thủ đoạn gian dối như tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Khái niệm nêu trên còn thể hiện người đủ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, loại trừ người ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự thì không phải tội phạm. Khác với các tội xâm phạm quyền sở hữu với lỗi vô ý, người phạm tội trộm cắp tài sản có lỗi cố ý khi thực hiện tội phạm: họ mong muốn chiếm lấy tài sản của người khác để thỏa mãn các nhu cầu của bản thân hoặc gia đình. 1.1.2. Dấu hiệu của tội trộm cắp tài sản Trộm cắp tài sản trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu của người khác về tài sản và đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản là tài sản đang có chủ. Theo quy định tại Điều 138 của BLHS năm 1999, đã được sửa đổi bổ sung năm 2009, các yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản thể hiện như sau: 1.1.2.1. Khách thể của tội trộm cắp tài sản Khách thể của tội trộm cắp tài sản là quyền sở hữu về tài sản. Đó là quan hệ xã hội mà trong đó quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt của chủ sở hữu được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Cũng giống như các tội được quy định trong chương các tội xâm phạm sở hữu trong đó có tội trộm cắp tài sản của Bộ luật hình sự mà đối tượng tác động là tài sản của công dân Việt Nam, người nước ngoài, cơ quan, tổ chức, nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; cơ quan, tổ chức nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam. Đối với tội phạm học, đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản có ý nghĩa vô cùng quan trọng, vì nó giữ vai trò quy định đối với phương thức thực hiện hành vi. 1.1.2.2. Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản Tội trộm cắp tài sản có cấu thành vật chất, các yếu tố thuộc mặt khách quan bao gồm các hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả của hành vi, mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả, dấu hiệu về thời gian, địa điểm, công cụ, phương tiện phạm tội . Cụ thể như sau: 8
- Một là, về hành vi khách quan: Hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác. Căn cứ vào Điều 8 của Bộ Luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009, chia tội phạm ra làm bốn loại theo bốn mức độ nguy hiểm của hành vi, tương ứng với mức độ nguy hiểm của hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản ở tội trộm cắp tài sản của người khác, đó là 4 mức độ: - Mức độ 1, hành vi ít nghiêm trọng là hành vi gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với nó là đến ba năm tù. - Mức độ 2, hành vi nghiêm trọng là hành vi gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với nó là đến bảy năm tù. - Mức độ 3, hành vi rất nghiêm trọng là hành vi gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với nó là đến mười lăm năm tù. - Mức độ 4, hành vi đặc biệt nghiêm trọng là hành vi gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với hành vi này là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Hai là, về hậu quả nguy hiểm: - Hậu quả nguy hiểm ở hành vi cơ bản: Điều 138 của Bộ Luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009, quy định: Giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ hai triệu đồng trở lên hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. - Hậu quả nguy hiểm ở hành vi tăng nặng: Gây hậu quả nghiêm trọng: + Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; + Bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. - Hậu quả nguy hiểm ở hành vi tăng nặng: Gây hậu quả rất nghiêm trọng: 9
- + Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; + Bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. - Hậu quả nguy hiểm ở hành vi tăng nặng: Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng: + Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; + Bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân. Ba là, phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả xảy ra, tức là, hậu quả gây nguy hiểm cho xã hội chính là kết quả của hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác và hành vi đó là nguyên nhân gây ra hậu quả. Bốn là, các dấu hiệu về thời gian, địa điểm, công cụ, phương tiện phạm tội không có tính bắt buộc đối với mọi tội trộm cắp tài sản. 1.1.2.3. Chủ thể của tội trộm cắp tài sản Nói đến chủ thể của tội trộm cắp tài sản là nói đến hai yếu tố sau: Thứ nhất, về độ tuổi: Người từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thực hiện hành vi vi phạm quy định tại khoản 3,4 Điều 138; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thực hiện hành vi vi phạm quy định tại Điều 138 của Bộ luật hình sự hiện hành. Thứ hai, về năng lực hành vi: Chủ thể có năng lực hành vi là những chủ thể có khả năng nhận thức được hành vi và hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra. 1.1.2.4. Mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản Mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản bao gồm lỗi và mục đích của hành vi phạm tội. Tội trộm cắp tài sản được thực hiện do lỗi cố ý; mục đích là mong muốn chiếm đoạt được tài sản thuộc sở hữu của người khác và mục đích này có trước khi thực hiện hành vi. Đây là dấu hiệu bắt buộc đối với tội này. 1.1.3. Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự hiện hành Trộm cắp tài sản là hành vi phạm tội được quy định tại Điều 138 của Bộ Luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009. Cụ thể điều luật này quy định như sau: 10
- “1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Tái phạm nguy hiểm; d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; đ) Hành hung để tẩu thoát; e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; g) Gây hậu quả nghiêm trọng. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng.” Đối với tội trộm cắp tài sản, BLHS năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009, không còn quy định riêng thành hai tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa và tội trộm cắp tài sản công dân mà quy định thống nhất thành tội trộm cắp tài sản, 11
- việc bổ sung nội dung định lượng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là tình tiết định tội, định khung hình phạt là những điểm thay đổi cơ bản của BLHS 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009, so với BLHS năm 1985. 1.1.4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản - Ý nghĩa lý luận: Thứ nhất, việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm. Mặt khác, việc nghiên cứu tổng quát về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản nói chung, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hậu Giang nói riêng góp phần làm rõ thực trạng, cơ cấu, diễn biến của tình hình tội xâm phạm sở hữu nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng và dự đoán xu hướng phát triển của loại tội này trong thời gian tới. Thứ hai, nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản nói chung và tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hậu Giang nói riêng còn góp phần cung cấp những thông tin hữu ích cho các ngành khoa học pháp lý khác sử dụng làm tài liệu để tiếp tục đi sâu nghiên cứu, xem xét đối tượng mà mình nghiên cứu, đồng thời là cơ sở để áp dụng các phương pháp, giải pháp trong thực tiễn phòng, chống tội phạm. Thứ ba, nghiên cứu làm rõ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản còn nhằm làm rõ, phát hiện các sơ hở, thiếu sót trên các lĩnh vực mà Nhà nước là chủ thể quản lý để kịp thời khắc phục, bổ sung, chỉnh lý các văn bản quy phạm pháp luật nhằm ngăn chặn tội trộm cắp tài sản và đưa ra các giải pháp phòng ngừa tội phạm một cách hiệu quả nhất. - Ý nghĩa thực tế: Thứ nhất, trên cơ sở nghiên cứu làm rõ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản, các chủ thể trong hoạt động phòng ngừa tội phạm tiến hành soạn thảo, đề xuất các phương pháp, giải pháp phù hợp nhằm tác động, ngăn 12
- chặn và loại trừ các nguyên nhân, điều kiện của tội phạm xâm phạm sở hữu, đặc biệt là tội trộm cắp tài sản. Thứ hai, nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản còn góp phần cung cấp những thông tin, tài liệu hữu ích cho các ngành khoa học quản lý, cơ quan có trách nhiệm giáo dục người phạm tội và cả các cơ quan nghiên cứu những phương pháp phân loại người phạm tội để nghiên cứu những hình thức, phương pháp quản lý, giáo dục người phạm tội, lập dự án phát triển trại giam, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, xây dựng quy chế tại các trại giam, các trường giáo dưỡng và cơ sở giáo dục cho phù hợp để đạt được mục đích cao nhất của việc áp dụng hình phạt là cảm hóa, giáo dục người phạm tội để họ nhận ra được sai lầm của mình mà sống có ích cho xã hội, đặc biệt là khi họ tái hòa nhập cộng đồng. Thứ ba, nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản nhằm góp phần phổ biến, tuyên truyền và nâng cao ý thức giữ gìn tài sản đối với các chủ sở hữu, đặc biệt là đối với các loại tài sản có giá trị lớn. 1.2. Khái niệm và phân loại nguyên nhân và điều kiện của tội trộm cắp tài sản 1.2.1. Khái niệm nguyên nhân và điều kiện của tội trộm cắp tài sản Trong nghiên cứu tội phạm học, nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tội phạm nói chung, của từng nhóm tội phạm cũng như của từng tội phạm cụ thể nói riêng là vấn đề hết sức cần thiết. Bởi lẽ, muốn ngăn chặn, hạn chế, đẩy lùi và triệt xóa tội phạm xảy ra khỏi đời sống xã hội thì trước hết phải làm sáng tỏ vì sao tội phạm phát sinh, tồn tại, vận động trong đời sống xã hội. Với ý nghĩa to lớn đó cho nên các nhà tội phạm học hết sức quan tâm nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm để có thể chỉ ra được những yếu tố đóng vai trò là nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tội phạm nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng. Trước hết, phải làm sáng tỏ về mặt lý luận các khái niệm “nguyên nhân” và “điều kiện”. Theo từ điển tiếng Việt, thuật ngữ “nguyên nhân” được định nghĩa là: “Điều gây ra một kết quả hoặc làm xảy ra một việc, một hiện tượng” [43, tr. 1217]. 13
- Theo Triết học Mác - xít, nguyên nhân là một phạm trù chỉ sự tác động qua lại giữa các mặt trong một sự vật, một hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau gây ra sự biến đổi nhất định gọi là kết quả. Như vậy, về bản chất, nguyên nhân chỉ có thể là sự tác động qua lại, để nguyên nhân sinh ra kết quả nhất định nào đó như tình hình tội phạm chẳng hạn, thì quá trình tương tác phải diễn ra trong điều kiện nhất định. Điều kiện, tuy không làm sản sinh ra kết quả, song nó lại tạo thuận lợi, hỗ trợ, thúc đẩy sự tương tác sinh ra kết quả. Về bản chất, điều kiện là những sự kiện, hiện tượng, tình huống, hoàn cảnh nhất định tạo điều kiện cho nguyên nhân sinh ra kết quả. Khi nghiên cứu về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, có thể tiếp cận dưới một số khái niệm khác nhau. Chẳng hạn như “Nguyên nhân của tội phạm là tổng hợp các nhân tố mà sự tác động qua lại giữa chúng đưa đến việc thực hiện tội phạm của người phạm tội [38, tr. 129]. Theo Giáo sư Võ Khánh Vinh: “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm được hiểu là hệ thống các hiện tượng xã hội tiêu cực trong hình thái kinh tế - xã hội tương ứng quyết định sự ra đời của tình hình tội phạm” [45, tr. 87]. Có thể đưa ra nhận định rằng: Nguyên nhân là những gì làm phát sinh ra tội phạm. Điều kiện là những gì tuy không làm phát sinh ra tội phạm nhưng nó hỗ trợ để nguyên nhân dễ dàng làm phát sinh tội phạm. Khi nghiên cứu một hành vi, một hiện tượng nào đó có thể trở thành nguyên nhân hay không, cần có những điều kiện sau: Thứ nhất, hành vi, hiện tượng đó phải xảy ra trước hậu quả về thời gian. Thứ hai, nguyên nhân phải chứa đựng khả năng gây ra hậu quả. Thứ ba, hậu quả xảy ra là hiện thực hóa khả năng của hành vi, hiện tượng. Tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 138 chương XIV Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và được quy định tại Điều 173 chương XVI của Bộ luật hình sự năm 2015. Các tội này đã xâm phạm vào khách thể là quyền sở hữu tài sản của chủ sở hữu được pháp luật hình sự bảo vệ. Xét theo mối quan hệ nhân - quả, thì quả ở đây là tình hình tội trộm cắp tài sản, còn nhân (nguyên 14
- nhân) của nó không thể là một hiện tượng, một yếu tố cụ thể nào, mà nguyên nhân chỉ có thể là sự tác động qua lại của nhiều hiện tượng, nhiều yếu tố. Như vậy, có thể hiểu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản là sự tác động qua lại giữa các yếu tố tiêu cực của môi trường sống bên ngoài với các yếu tố tâm - sinh lý tiêu cực bên trong cá nhân con người mà trong những tình huống, hoàn cảnh nhất định đã dẫn đến việc thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Luật hình sự Việt Nam quy định là tội phạm xâm phạm sở hữu, cụ thể ở đây là tội trộm cắp tài sản. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản có những phạm vi ảnh hưởng khác nhau. Tuy nhiên, trong thực tế việc phân định rõ đâu là nguyên nhân, đâu là điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản là việc làm khó khăn, phức tạp. Bởi lẽ, điều kiện dẫn đến tình hình tội trộm cắp tài sản cũng là các hiện tượng xã hội tiêu cực, nhưng khác với nguyên nhân ở chỗ điều kiện không làm phát sinh ra tội phạm mà nó chỉ tạo ra các hoàn cảnh thuận lợi cho sự hình thành, tồn tại và phát triển của tình hình tội trộm cắp tài sản. Trong thực tiễn cũng như trong lý luận, giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm trong một số trường hợp đối với hiện tượng tội phạm này là nguyên nhân nhưng đối với hiện tượng tội phạm khác lại là điều kiện. Ví dụ, với xu thế hội nhập quốc tế một cách mạnh mẽ và sâu rộng kéo theo kinh tế - xã hội phát triển thì đòi hỏi người lao động phải có trình độ và tay nghề cao hơn. Tuy nhiên, trên thực tế một bộ phận không nhỏ người lao động không đáp ứng được yêu cầu công việc và đây là nguyên nhân dẫn đến tình trạng không có việc làm, nhiều người thất nghiệp tụ tập ăn chơi, rượu chè bê tha, đời sống khó khăn là điều kiện rất thuận lợi để tội trộm cắp tài sản xảy ra. Tóm lại, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản là hai phạm trù khác nhau, giữ vai trò khác nhau trong việc sinh ra kết quả là tình hình tội trộm cắp tài sản. Thế nhưng trong lĩnh vực xã hội nói chung và tội phạm học nói riêng, sự phân biệt đâu là nguyên nhân, đâu là điều kiện chỉ mang tính chất tương đối. Hơn nữa, trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm lại luôn luôn đòi hỏi 15