Luận văn Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm về tham nhũng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

pdf 83 trang vuhoa 25/08/2022 9720
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm về tham nhũng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_nguyen_nhan_va_dieu_kien_cua_tinh_hinh_toi_pham_ve.pdf

Nội dung text: Luận văn Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm về tham nhũng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGÔ TUẤN KIỆT NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2017
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGÔ TUẤN KIỆT NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm Mã số: 60.38.01.05 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN TRUNG THÀNH HÀ NỘI - 2017
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN NHÂN, ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM THAM NHŨNG 6 1.1 Khái niệm tham nhũng và tội phạm về tham nhũng 6 1.2 Khái niệm nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm tham nhũng 15 1.3. Cơ chế tác động làm phát sinh hành vi tội phạm tham nhũng 26 Chương 2: THỰC TRẠNG NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 30 2.1 Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm tham nhũng 30 2.2 Tình hình nguyên nhân, điều kiện của tội phạm về tham nhũng tại Thành phố Hồ Chí Minh 40 Chương 3: GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC, LOẠI TRỪ NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM THAM NHŨNG 58 3.1 Giải pháp kinh tế, xã hội 58 3.2 Giải pháp về chính trị, tư tưởng 60 3.3 Giải pháp về văn hóa, giáo dục 62 3.4 Giải pháp tổ chức, quản lý 63 3.5 Giải pháp pháp luật 67 3.6 Giải pháp đối với công tác đấu tranh phòng chống của cơ quan bảo vệ pháp luật 70 3.7 Giải pháp về kiểm soát quyền lực, kiểm soát minh bạch 74 3.8 Giải pháp về hợp tác quốc tế và học tập kinh nghiệm phòng chống tội phạm tham nhũng của các nước trên thế giới 75 KẾT LUẬN 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 78
  4. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết nghiên cứu đề tài Tham nhũng là hiện tượng xã hội, có tính lịch sử, là vấn đề mang tính chất toàn cầu. Ở nước ta hiện nay, ngoài việc gây hậu quả thiệt hại về vật chất, tham nhũng còn gây ra sự bất bình trong nhân dân, tạo nên sự bất công trong xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước. Tệ nạn tham nhũng là thách thức số một, là yếu tố kìm hãm lớn nhất đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Vì vậy, vấn đề phòng, chống tham nhũng, ngăn chặn, khắc phục tệ nạn này hiện nay không chỉ là vấn đề của một tỉnh, một thành phố mà là vấn đề của cả quốc gia. Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp nhằm ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham nhũng, nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau nên cuộc đấu tranh này chưa đem lại hiệu quả; tình trạng tham nhũng vẫn xảy ra nghiêm trọng. Tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX năm 2001, Đảng ta đã chỉ rõ: “ Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một số bộ phận không nhỏ đảng viên là rất nghiêm trọng. Nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy của hệ thống chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của đất nước ta”. Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 tiếp tục khẳng định: “tình hình tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp trên nhiều lĩnh vực, nhất là trong quản lý, sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, tiềm ẩn các xung đột lợi ích, phản kháng về xã hội, làm tăng thêm khoảng cách giàu nghèo. Tham nhũng trở thành vật cản lớn cho thành công của công cuộc đổi mới, cho sức chiến đấu của Đảng, đe dọa sự tồn vong của chế độ”. Thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm kinh tế - xã hội lớn nhất của cả nước, là vùng chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ; phía Bắc giáp Bình Dương; Tây Bắc giáp Tây Ninh; Đông và Đông Bắc giáp Đồng Nai; Đông 1
  5. Nam giáp Bà Rịa - Vũng Tàu; Tây và Tây Nam giáp Long An và Tiền Giang. Thành phố Hồ Chí Minh còn là địa phương có số đơn vị hành chính cấp huyện nhiều hơn các tỉnh, thành phố khác và là nơi có số dân cao nhất nước. Thời gian qua, công cuộc đổi mới của Thành phố đã đạt được nhiều thành quả to lớn, tuy nhiên, đây cũng là nơi có nhiều tệ nạn xã hội nhức nhối cần phải được giải quyết, trong đó có tệ tham nhũng. Theo thống kê của các cơ quan chức năng, trong thời gian qua Thành phố đã xảy ra nhiều vụ án tham nhũng lớn, thậm chí có cả những vụ án đặc biệt nghiêm trọng cả về tính chất và quy mô phạm tội, gây bức xúc trong dư luận. Tình hình trên đòi hỏi công tác phòng, chống tội phạm tham nhũng của Thành phố Hồ Chí Minh phải có những chuyển biến mạnh mẽ cả về nhận thức và cả về hành động để chủ động phòng, chống có hiệu quả loại tội phạm nguy hiểm này, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu của Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm. Trong đó, phòng ngừa tội phạm tham nhũng là một công tác có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Tuy nhiên, thực tế công tác này đang gặp phải những khó khăn, vướng mắc, hiệu quả phòng ngừa tội phạm tham nhũng vẫn còn hạn chế đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, đánh giá cả về mặt lý luận và cả về thực tiễn. Một trong những vấn đề ảnh hưởng đến hiệu quả phòng ngừa tội phạm tham nhũng là chưa làm rõ được nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm tham nhũng cả về lý luận và thực tiễn nhất là ở một địa bàn cụ thể là thành phố Hồ Chí Minh. Chính vì vậy, tôi chọn nghiên cứu Đề tài “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm về tham nhũng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh” làm Luận văn Thạc sỹ nhằm đáp ứng yêu cầu cấp thiết của công cuộc đấu tranh phòng, chống các tội tham nhũng tại Thành phố Hồ Chí Minh. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đấu tranh phòng, chống tội phạm tham nhũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước ta, vì vậy, đã có nhiều nhà khoa học và nhiều cán 2
  6. bộ thực tiễn đã quan tâm nghiên cứu vấn đề này. Điều đó thể hiện cụ thể ở một số công trình nghiên cứu tiêu biểu đã được công bố như sau: GS.TS. Võ Khánh Vinh (2011, 2013), Giáo trình Tội phạm học, Nxb Công an nhân dân; Giáo trình “Tội phạm học”, Nxb Công an nhân dân, tái bản năm 2004, 2012; Nguyễn Văn Cảnh và Phạm Văn Tỉnh “Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt Nam”, Bộ Công an ấn hành năm 2013. TS. Phan Xuân Sơn và TS. Nguyễn Thế Lực (2008), Nhận diện tham nhũng và các giải pháp phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Trần Công Phàn (2004), Tình hình, nguyên nhân và các giải pháp đấu tranh phòng, chống các tội phạm tham nhũng, Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội; Nguyễn Thị Minh Nguyệt (2014), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội tham nhũng theo pháp luật Việt Nam. Ngoài ra, còn có một số bài báo khoa học có đề cập đến tội tham nhũng như: Bài viết “Một số ý kiến hoàn thiện quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng” của tác giả Nguyễn Đình Bính, Tạp chí Kiểm sát, số 09/2008; bài “Hình sự hóa hành vi tham nhũng trong lĩnh vực công theo Công ước chống tham nhũng của Liên Hợp quốc năm 2003” của Ths. Bùi Thế Tỉnh, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 01/2012; bài “Các giải pháp nâng cao hiệu quả phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng” của tác giả Phạm Mạnh Khải, Tạp chí Thanh tra Chính phủ, số 11/2009 Các công trình khoa học nói trên đều là những công trình có giá trị khoa học và thực tiễn cao. Nhiều công trình đã nghiên cứu khá toàn diện về tội phạm tham nhũng và đưa ra nhiều giải pháp mang tính tổng thể về mặt pháp luật, về tổ chức thực hiện nhằm đấu tranh có hiệu quả đối với tội phạm tham nhũng. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm tham nhũng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh dưới góc độ tội phạm học để đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống loại tội phạm nguy hiểm này. Do vậy, nội dung của đề tài luận văn này không trùng với các công trình đã được công bố. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Mục đích nghiên cứu 3
  7. Phòng ngừa tội phạm là mục đích nghiên cứu của tội phạm học. Đề tài Luận văn này cũng hướng tới mục đích như vậy, nhưng bằng cách nghiên cứu chuyên sâu về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm về tham nhũng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2012 đến năm 2016 để tạo tiền đề cho việc phòng ngừa. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là: + Một là, nghiên cứu lý luận và pháp luật. Nhiệm vụ này bao gồm những hoạt động cụ thể như: Tìm, thu thập và nghiên cứu những tài liệu về tội phạm học, về pháp luật hình sự và những tài liệu khác liên quan đến đề tài luận văn làm cơ sở cho việc nhận thức thống nhất, rõ ràng phương pháp luận nghiên cứu và sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể cho phù hợp; + Hai là, nghiên cứu thực tế, bao gồm ba hoạt động sau: Tìm, thu thập, xử lý, phân tích, so sánh những số liệu thống kê thường xuyên của một số cơ quan tư pháp, đặc biệt là số liệu thống kê xét xử sơ thẩm hình sự từ năm 2012 đến năm 2016 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về các tội tham nhũng; thu thập các bản án xét xử sơ thẩm hình sự về các tội tham nhũng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian từ năm 2012 đến năm 2016 và xử lý, phân tích, so sánh theo các tiêu thức Tội phạm học cần thiết; + Ba là, nghiên cứu sáng tạo, bao gồm các việc cụ thể sau: - Khái quát hóa những vấn đề lý luận chung về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm về tham nhũng; - Áp dụng lý luận chung đó vào việc làm rõ thực trạng nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm về tham nhũng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2012 - 2016; - Kiến nghị giải pháp phòng ngừa các tội tham nhũng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trên cơ sở thực trạng đã được xác định về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm về tham nhũng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. 4
  8. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của đề tài: vấn đề lý luận và thực tiễn về nguyên nhân, điều kiện tình hình tội phạm tham nhũng dưới góc độ tội phạm học. - Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm về tham nhũng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian 05 năm từ 2012 đến 2016. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận của Luận văn là phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về nhà nước và pháp luật, về phòng chống tội phạm nói chung, tội phạm tham nhũng nói riêng. - Phương pháp nghiên cứu cụ thể bao gồm phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, khảo sát thực tiễn, tham khảo ý kiến của chuyên gia. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy, biên soạn tài liệu về tội phạm học nói chung, về tội phạm tham nhũng nói riêng. - Về thực tiễn: Đề tài là tài liệu tham khảo cho các cơ quan có thẩm quyền trong hoạch định và xây dựng các biện pháp phòng ngừa tội phạm tham nhũng tại Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung. 7. Cơ cấu Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được cấu trúc thành 3 chương, cụ thể như sau: - Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm tham nhũng - Chương 2: Thực trạng nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm về tham nhũng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh - Chương 3: Giải pháp khắc phục, loại trừ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm tham nhũng 5
  9. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN NHÂN, ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM THAM NHŨNG 1.1 Khái niệm tham nhũng và tội phạm về tham nhũng 1.1.1 Khái niệm tham nhũng Tham nhũng là một hiện tượng xã hội xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện Nhà nước, gắn liền với quyền lực Nhà nước. Trong những năm gần đây, cùng với xu thế hội nhập và toàn cầu hóa về kinh tế, tham nhũng đã trở thành vấn đề toàn cầu, là tệ nạn gây nhức nhối ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Ở nước ta, tệ nạn tham nhũng đang là “quốc nạn”, làm suy yếu nền kinh tế của đất nước, làm tha hóa một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước và chế độ, là một thách thức to lớn đối với hệ thống pháp luật và thiết chế thực thi pháp luật. Thấy được sự nguy hại của tệ tham nhũng và thực trạng tình hình tham nhũng ở nước ta, Đảng đã xác định tham nhũng là một trong bốn nguy cơ, thách thức làm cản trở sự nghiệp đổi mới, có thể làm sụp đổ chế độ Xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, cùng với sự năng động của nền kinh tế thị trường, thì nạn tham nhũng ngày càng phổ biến và lan rộng. Nó len lỏi vào mọi ngóc ngách của các quan hệ quyền lực, lây lan nhanh chóng vào tất cả các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Nguy hiểm hơn nữa là tham nhũng đang hình thành một thói quen tồn tại như một thứ luật bất thành văn trong đời sống xã hội, diễn ra trên diện rộng và trở thành một “nét ứng xử” bị “vật chất hóa ”, “tiền bạc hóa”. Do vậy, không một ai là không lên án tệ nạn tham nhũng, nhưng ít ai thoát ra được khỏi vòng xoáy của nó. Vì thế, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta rất quan tâm đến vấn đề phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng. Để đấu tranh với tệ nạn tham nhũng ngày càng gia tăng, trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về chống tham nhũng. Có thể thấy rằng, văn bản pháp lý chuyên biệt đầu tiên về chống tham nhũng đó là Pháp lệnh Chống tham nhũng ngày 26/2/1998. Trong đó, văn bản này xác định: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động 6
  10. cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức” (Điều 1). Ngoài ra, trong Pháp lệnh này còn liệt kê 11 hành vi tham nhũng cụ thể và các biện pháp nhằm phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng. Nhưng qua thực tiễn triển khai thực hiện, Pháp lệnh Chống tham nhũng đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết, bất cập cần phải sửa đổi, bổ sung. Do vậy, để đáp ứng yêu cầu phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng trong tình hình mới, ngày 29/11/2005, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Luật phòng, chống tham nhũng. Luật này có hiệu lực kể từ ngày 01/06/2006 và được sửa đổi bổ sung ngày 04/08/2007. Điều 1 của Luật phòng chống tham nhũng đã định nghĩa tham nhũng là: “Hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”. Và theo Điều 3 của Luật này thì những hành vi cụ thể sau đây được coi là hành vi tham nhũng: Tham ô tài sản; Nhận hối lộ; Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; Lợi dung chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; Lạm quyền trong thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi; Giả mạo trong công tác vì vụ lợi; Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì vụ lợi; Nhũng nhiễu vì vụ lợi; Không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; Lợi dung chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi. Nghiên cứu các quy định của Bộ luật hình sự đầu tiên của nước ta được ban hành năm 1985 và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/1986 thì trong Bộ luật này chưa có quy định riêng về nhóm tội tham nhũng. Nhưng căn cứ vào dấu hiệu đặc trưng của loại tội phạm này là: “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ để vụ lợi” thì có thể thấy có một số tội phạm được quy định trong Bộ luật này có thể xếp vào nhóm tội tham nhũng, đó là: Tội tham ô; Tội nhận hối lộ; Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ; Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của công dân; Tội giả mạo trong công tác 7
  11. Sau 15 năm áp dụng, Bộ luật hình sự năm 1985 có tới bốn lần sửa đổi, bổ sung để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới. Nhưng trong ba lần đầu (lần thứ nhất vào năm 1989, lần thứ hai vào năm 1991, lần thứ ba vào năm 1992) các luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1985 vẫn chưa quy định rõ những tội phạm nào thuộc loại tội tham nhũng. Tuy nhiên, trong Thông tư liên ngành số 02/TTLN ngày 20/3/1993 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) và Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự (lần 3 năm 1992) có xác định 11 tội cụ thể sau đây thuộc các tội có tính chất tham nhũng: Tham ô tài sản Xã hội chủ nghĩa (Điều 133); Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Xã hội chủ nghĩa trong trường hợp người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn (Khoản 2 Điều 134); Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Xã hội chủ nghĩa trong trường hợp người phạm tội có lợi dụng chức vụ, quyền hạn (Khoản 2 Điều 135); Tội sử dụng trái phép tài sản Xã hội chủ nghĩa trong trường hợp người phạm tội có lợi dung chức vụ, quyền hạn (Khoản 2, Điều 137); Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của công dân (Điều 156); Tội cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng trong trường hợp người phạm tội có động cơ vụ lợi họăc động cơ cá nhân khác (Điều 174); Tội lập quỹ trái phép (Điều 175); Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm quyền trong khi thi hành công vụ (Điều 221); Tội giả mạo trong công tác (Điều 224); Tội nhận hối lộ (Điều 226); Tội đưa hối lộ trong trường hợp người phạm tội sử dụng công quỹ để đưa hối lộ (Khoản 2 Điều 227). Đến năm 1997, Quốc hội khóa IX đã thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung một số Điều luật của Bộ luật hình sự (lần thứ tư), trong đó có quy định 12 tội phạm thuộc nhóm tội tham nhũng. So với Thông tư liên ngành số 02/TTLN ngày 20/03/1993 thì Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1997 không coi các tội sau đây thuộc nhóm tội tham nhũng: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Xã hội chủ nghĩa trong trường hợp người phạm tội có lợi dụng chức vụ, quyền hạn; Tội cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng trong trường hợp người phạm tội có động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác. 8
  12. Tuy nhiên, có quy định thêm một số tội phạm khác thuộc nhóm tội tham nhũng, đó là: Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi (Điều 288a); Tội đưa hối lộ, tội làm môi giới hối lộ (Điều 227) bất kể có sử dụng công quỹ để đưa hối lộ hay không. Trên cơ sở quy định của các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên và thực tiễn đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta, Bộ luật hình sự năm 1999 (tại mục A chương XXI) đã quy định 7 tội danh sau đây thuộc các tội tham nhũng: Tội tham ô tài sản (Điều 278); Tội nhận hối lộ (Điều 279); Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 280); Tôi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 281); Tội lạm quyền trong thi hành công vụ (Điều 282); Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 283); Tội giả mạo trong công tác (Điều 284). Qua đây cho thấy các tội tham nhũng là các tội phạm về chức vụ, là tội của người có chức vụ, quyền hạn. So với Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1997 thì có 5 tội không còn được coi là tội phạm tham nhũng, đó là: Tội lập quỹ trái phép; Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa; Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa; Tội đưa hối lộ; Tội môi giới hối lộ. 1.1.2 Khái niệm, đặc điểm của các tội phạm tham nhũng theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 Mặc dù trong Bộ luật hình sự hiện hành không có quy phạm định nghĩa về tội phạm tham nhũng, nhưng căn cứ vào khái niệm tội phạm được quy định tại Điều 8 và các quy định tại mục A Chương XXI của Bộ luật hình sự về các tội phạm tham nhũng chúng ta có thể hiểu: “Các tội phạm tham nhũng là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện một cách cố ý vì mục đích vụ lợi xâm phạm hoạt động đúng đắn và uy tín của cơ quan Nhà nước, của tổ chức, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân”. Với bản chất pháp lý như vậy, các tội phạm tham nhũng có những dấu hiệu đặc trưng chung sau đây: Thứ nhất, về khách thể: 9
  13. Các tội phạm tham nhũng có tính nguy hiểm cao cho xã hội, bởi vì xâm phạm những quan hệ xã hội đảm bảo hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức Đảng và Nhà nước, cũng như uy tín của các cơ quan, tổ chức đó. Tham nhũng có thể làm biến dạng và cản trở hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức, gây trì trệ hoặc làm cho các hoạt động đó vượt ra ngoài phạm vi luật định. Tham nhũng còn có thể làm cho uy tín của cơ quan, tổ chức bị giảm sút, hoạt động của bộ máy công quyền không phát huy được hiệu lực, hiệu quả Điều đó gây ra những tác hại rất lớn cho chế độ, nếu không được ngăn chặn, đẩy lùi thì sẽ trực tiếp đe dọa đến sự tồn vong của chế độ Nhà nước, làm thay đổi bản chất của Nhà nước từ Nhà nước của dân, do dân và vì dân trở thành Nhà nước của một thiểu số người có chức, có quyền trong xã hội. Ngoài ra, các tội tham nhũng còn xâm phạm đến lợi ích vật chất của Nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân. Tuy nhiên, những lợi ích này chỉ bị các tội tham nhũng xâm phạm thông qua việc xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức. Bởi vì, chúng luôn gắn liền với hoạt động đúng đắn của cơ quan tổ, chức đó. Trong lời nói đầu của Công ước quốc tế về chống tham nhũng, khi đề cập đến tính chất nghiêm trọng của tham nhũng đã nhấn mạnh rằng: “Tham nhũng có thể đe dọa sự ổn định, an ninh xã hội, xâm phạm các thể chế và giá trị dân chủ, các giá trị đạo đức, công lý và cản trở sự phát triển bền vững và nguyên tắc nhà nước pháp quyền; Rằng: “Tham nhũng chiếm một phần quan trọng nguồn lực quốc gia và việc sử dụng sai trái nguồn lực này sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho ổn định chính trị và phát triển bền vững của các nước” Khách thể của tội phạm tham nhũng là những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ, thể hiện ở các lợi ích vật chất, phi vật chất và các giá trị chuẩn mực của xã hội nhưng đã bị hành vi tham nhũng xâm hại tới. Tội phạm tham nhũng được quy định tại mục A Chương XXI Bộ luật Hình sự. Khách thể của tội tham nhũng là xâm phạm quan hệ sở hữu về tài sản và hoạt động đúng đắn của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội. Thực tiễn điều tra các vụ án tham ô tài sản ở Công an các địa phương trong thời gian qua cho thấy có một vấn đề vướng mắc trong việc xác định tội danh đó là hành vi của người có chức vụ, 10
  14. quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiện quản lý trong các Doanh nghiệp Nhà nước chỉ chiếm một tỷ lệ vốn nhất định (dưới 50% hoặc trên 50% nhưng Nhà nước không giữ quyền chi phối) thì có phạm tội tham ô tài sản không. Đây là vấn đề mới và cũng là vấn đề đang có nhiều ý kiến khác nhau về khách thể của tội tham ô tài sản hiện nay. Mặc dù khách thể của tham nhũng tồn tại không phụ thuộc vào chủ thể tham nhũng nhưng chúng có mối quan hệ khăng khít với nhau, tác động qua lại với nhau. Do vậy, quá trình nghiên cứu tìm ra khách thể của tội phạm tham nhũng cũng cần được đặt trong mối quan hệ với chủ thể của tội phạm tham nhũng. Để hiểu như thế nào là khách thể của tội phạm tham nhũng, trước hết chúng ta cần làm rõ những quan hệ mà chủ thể của tội phạm tham nhũng hướng tới. Thông thường các quan hệ chủ thể của tội phạm tham nhũng hướng tới đó là những lợi ích vật chất, bao gồm tiền, vàng, cổ phiếu, nhà, đất, xe và các loại tài sản khác. Nhưng bên cạnh đó cũng có cả những lợi ích phi vật chất, nó thuộc giá trị tinh thần mà các chủ thể của tội tham nhũng xâm phạm, cần phải được bảo vệ, như uy tín, danh hiệu thi đua, danh hiệu văn hoá. Ngoài ra các quan hệ mà chủ thể của tội phạm tham nhũng xâm phạm còn là những giá trị mang tính chuẩn mực xã hội, cần được pháp luật bảo vệ. Thứ hai, về phương diện khách quan: Các tội phạm tham nhũng được thể hiện ở các dấu hiệu hành vi, hậu quả tác hại và các dấu hiệu khách quan khác. - Hành vi khách quan của các tội phạm tham nhũng tuy khác nhau về mặt hình thức biểu hiện nhưng đều là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn của mình làm trái công vụ. Lợi dụng hoặc lạm đụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ có nghĩa là sử dụng chức vụ, quyền hạn được giao như là phương tiện để làm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm hoặc liên quan trực tiếp đến công việc của mình hoặc làm một việc không được phép làm. Như vậy, việc thực hiện tội phạm tham nhũng của người có chức vụ, quyền hạn đều liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà người phạm tội được cơ quan, tổ chức giao cho. Nếu thiếu dấu hiệu “lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ để vụ lợi” thì không thể xử 11
  15. lý về tội tham nhũng. Do vậy, nếu người có chức vụ quyền hạn thực hiện hành vi phạm tội nhưng không sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình để phạm tội thì hành vi đó không phải là hành vi tham nhũng. Ví dụ: Người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan nhà nước thực hiện hành vi kinh doanh trái phép ở nơi cư trú thì hành vi này không phải là hành vi tham nhũng, bởi vì người thực hiện hành vi này không sử dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi Xét về mặt hình thức, hành vi khách quan của các tội phạm tham nhũng hết sức đa dạng: tương ứng với 7 tội phạm cụ thể có 7 loại hình hành vi tham nhũng khác nhau, đó là tham ô tài sản (Điều 278); nhận hối lộ (Điều 279); lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 280); lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 281); lạm quyền trong khi thi hành công vụ (Điều 282); lợi dụng chức vụ quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 283); giả mạo trong công tác vụ lợi (Điều 284). Mặc dù vậy, hành vi khách quan của tội phạm tham nhũng đều được thể hiện dưới hai hình thức cơ bản là hành động phạm tội và không hành động phạm tội. Hành động phạm tội có nghĩa là làm một việc mà pháp luật nghiêm cấm, còn không hành động phạm tội là không làm một việc mà pháp luật buộc phải làm, gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và của công dân. Những hành vi này đều là những hành vi trái với công vụ được giao. Các hành vi tham nhũng mà Bộ luật hình sự Việt Nam quy định là tội phạm có bản chất và hình thức biểu hiện tương tự như những hành vi tham nhũng mà Liên hợp quốc đặt ra cho các quốc gia thành viên có nghĩa vụ tội phạm hoá (hình sự hoá). Các hành vi đó là: hối lộ công chức quốc gia; hối lộ công chức nước ngoài hoặc công chức tổ chức quốc tế công; tham ô, biển thủ hoặc các dạng chiếm đoạt tài sản khác do công chức thực hiện; lợi dụng ảnh hưởng để trục lợi; làm giàu bất hợp pháp - Hậu quả do các tội phạm gây ra cho xã hội có thể là những thiệt hại vật chất. Đó là những thiệt hại về tài sản của Nhà nước, của tổ chức và của nhân dân. Ngoài ra, các tội phạm tham nhũng còn gây ra những thiệt hại phi vật chất khác như cản trở, ảnh hưởng đến việc thực hiện những chủ trương chính sách đổi mới; làm thay đổi những chuẩn mực đạo đức xã hội, làm vẩn đục mối quan hệ xã hội và 12
  16. những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc; làm tha hóa đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước; làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Ở đây cần chú ý là mức độ hậu quả được quy định đối với từng tội không giống nhau: có những tội chỉ đòi hỏi hành vi gây ra những thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân (các tội quy định tại Điều 281, 282). Như vậy, đối với các tội phạm này luật không định lượng mức độ thiệt hại. Nhưng đối với một số tội phạm tham nhũng khác, nhà làm luật lại định lượng giá trị tài sản bị tham nhũng để phân biệt giữa tội phạm tham nhũng với hành vi không phải là tội phạm tham nhũng. Do vậy, đối với những tội phạm này, theo quy định của Luật hình sự hành vi, tham nhũng chỉ cấu thành tội phạm nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ 2 triệu trở lên. Nếu dưới mức đó thì hành vi tham nhũng chỉ cấu thành tội phạm nếu có thêm một trong các dấu hiệu sau: gây hậu quả nghiêm trọng; đã bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm; đã bị kết án về một trong những tội tham nhũng quy định tại Mục A chương XXI chưa được xóa án tích mà còn vi phạm (các tội quy đinh tại các Điều 278, 279, 280). Các dấu hiệu khách quan khác như: thời gian, địa điểm, phương thức, thủ đoạn phạm tội luật không quy định là dấu hiệu bắt buộc đối với tội phạm tham nhũng. Thứ ba, về phương diện chủ quan: Các tội phạm tham nhũng đều là những tội được thực hiện do cố ý, tức là khi phạm tội, người có chức vụ, quyền hạn nhận thức được hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi mà mình thực hiện có tính nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả của hành vi đó, nhưng vẫn mong muốn hậu quả xảy ra để đạt được mục đích vụ lợi của mình. Mặt khác, người phạm tội tham nhũng luôn xuất phát từ động cơ và nhằm mục đích vụ lợi. Điều này có nghĩa là vì muốn chiếm hưởng những lợi ích nhất định nên họ đã sử dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện hành vi phạm tội. Tính chất “vụ lợi” không chỉ thể hiện ở việc người phạm tội mong muốn đạt được lợi ích cho chính mình mà còn hướng tới việc mang lại lợi ích cho người thân, gia đình, địa phương, cơ quan hay đơn vị nơi họ công tác. Lợi ích mà người phạm tội mong muốn có được có thể là lợi ích vật chất như: tiền, vàng, nhà đất nhưng cũng có 13
  17. thể là những lợi ích phi vật chất khác như: danh vọng, chức quyền Do đó, hành vi do người có chức vụ thực hiện nhưng không xuất phát từ động cơ và nhằm mục đích có tính chất vụ lợi thì không phải là hành vi tham nhũng. Thứ tư, chủ thể của các tội tham nhũng: Chủ thể của các tội tham nhũng phải là chủ thể đặc biệt. Theo quy định của Bộ luật hình sự thì họ phải là người có chức vụ trong các cơ quan, tổ chức của Nhà nước nước hoặc của Đảng. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 227 thì: "Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do dân cử hoặc do hợp đồng hay một hình thức khác có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong thi hành công vụ" Như vậy, chủ thể của các tội phạm tham nhũng chỉ có thể là người có chức vụ, quyền hạn. Những người không có chức vụ, quyền hạn không thể trở thành chủ thể của tội phạm tham nhũng. Theo khoản 3, Điều 11 Luật Phòng, chống tham nhũng thì “Người có chức vụ, quyền hạn bao gồm: Cán bộ, công chức, viên chức; Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước, cán bộ lãnh đạo, quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp; Người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiêm vụ, công vụ đó” Vấn đề đặt ra là “chức vụ, quyền hạn” mà người phạm tội lợi dụng hoặc lạm dụng để tham nhũng có phạm vi giới hạn như thế nào? Có ý kiến cho rằng: chức vụ, quyền hạn của chủ thể trong các tội phạm về tham nhũng chỉ có thể là chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan nhà nước mà không thể là chức vụ, quyền han trong các tổ chức khác. Ý kiến khác, thì quan niệm chức vụ, quyền hạn của chủ thể trong các tội phạm về tham nhũng là chức vụ quyền hạn trong mọi tổ chức, kể cả trong khu vực nhà nước và cả ngoài khu vực nhà nước (tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng, tổ chức phi chính phủ). Chúng tôi cho rằng nếu quan niệm như vậy thì sẽ có một thực trạng là: nhận diện không đầy đủ, không đúng với quy định của Luật phòng chống tham nhũng về người có chức vụ, quyền hạn, dẫn đến không thống nhất trong việc xử lý hình sự 14