Luận văn Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do phạm nhân thực hiện tại các trại giam khu vực miền đông Nam Bộ

pdf 89 trang vuhoa 25/08/2022 7460
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do phạm nhân thực hiện tại các trại giam khu vực miền đông Nam Bộ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_nguyen_nhan_va_dieu_kien_cua_tinh_hinh_toi_pham_do.pdf

Nội dung text: Luận văn Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do phạm nhân thực hiện tại các trại giam khu vực miền đông Nam Bộ

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ ĐỨC CHUNG NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM DO PHẠM NHÂN THỰC HIỆN TẠI CÁC TRẠI GIAM KHU VỰC MIỀN ĐÔNG NAM BỘ LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC HÀ NỘI, 2017
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ ĐỨC CHUNG NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM DO PHẠM NHÂN THỰC HIỆN TẠI CÁC TRẠI GIAM KHU VỰC MIỀN ĐÔNG NAM BỘ Chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm Mã số: 60.38.01.05 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM VĂN TỈNH HÀ NỘI, 2017
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào. NGƯỜI CAM ĐOAN LÊ ĐỨC CHUNG
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC TỘI PHẠM DO PHẠM NHÂN THỰC HIỆN 8 1.1. Khái niệm, ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội phạm do phạm nhân thực hiện 19 1.2. Phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội phạm do phạm nhân thực hiện trên cơ sở của cơ chế tác động 24 Chương 2: THỰC TRẠNG NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC TỘI PHẠM DO PHẠM NHÂN THỰC HIỆN TẠI CÁC TRẠI GIAM KHU VỰC MIỀN ĐÔNG NAM BỘ 35 2.1. Thực trạng nhận thức về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội phạm do phạm nhân thực hiện tại các trại giam khu vực miền Đông Nam Bộ giai đoạn 2011-2015 35 2.2. Thực trạng các nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội do phạm nhân thực hiện tại các trại giam khu vực miền Đông Nam Bộ 49 Chương 3: NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC TỘI DO PHẠM NHÂN THỰC HIỆN TẠI CÁC TRẠI GIAM KHU VỰC ĐÔNG NAM BỘ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÒNG NGỪA HIỆN TƯỢNG TIÊU CỰC NÀY 55 3.1. Tăng cường nhận thức về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do phạm nhân thực hiện 55 3.2. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do phạm nhân thực hiện và dự báo tình hình tội phạm do phạm nhân thực hiện 56 3.3. Giải quyết nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội phạm xâm phạm sở hữu và phòng ngừa tình hình tội phạm do phạm nhân thực hiện tại các trại giam 59 KẾT LUẬN 70 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 71 PHỤ LỤC
  5. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Danh mục trại giam khu vực miền Đông Nam bộ - Bộ Công an 1 Bảng 2.2. Thống kê số liệu phạm nhân theo tội danh 1 Bảng 2.3. Thống kê phân loại phạm nhân theo mức án và độ tuổi 2 Bảng 2.4. Thống kê phạm nhân theo phân loại quản chế 2 Bảng 2.5. Thống kê số phạm nhân có tiền án và nghiện ma tuý 3 Bảng 2.6. Thống kê số phạm nhân là người dân tộc ít người 3 Bảng 2.7. Thống kê số phạm nhân theo các tôn giáo 4 Bảng 2.8. Thống kê tổng số cán bộ chiến sỹ 4 Bảng 2.9. Thống kê trình độ nghiệp vụ và cấp hàm của cán bộ chiến sỹ 5 Bảng 2.10. Thống kê trình độ và cấp hàm của cán bộ trinh sát, trực trại 5 Bảng 2.11. Thâm niên công tác của cán bộ trinh sát trại giam 6 Bảng 2.12. Cơ cấu, tình hình tội phạm trong trại giam 6 Bảng 2.13. Kết quả xứ lý phạm nhân phạm tội 7 Bảng 2.14. Địa bàn phạm nhân thực hiện hành vi phạm tội 7 Bảng 2.15. Độ tuổi của những phạm nhân phạm tội 8 Bảng 2.16. Trình độ văn hóa của những phạm nhân phạm tội trước khi vào trại 8 Bảng 2.17. Nghề nghiệp của những phạm nhân phạm tội trước khi vào trại 8 Bảng 2.19. Mức án của những phạm nhân phạm tội 9 Bảng 2.20. Tiền án, tiền sự của những phạm nhân phạm tội 9 Bảng 2.21. Thời gian phạm nhân thực hiện hành vi phạm tội 10 Bảng 2.22. Số liệu phạm nhân vi phạm nội quy, quy chế 10 Bảng 2.23. Kết quả xứ lý phạm nhân vi phạm nội quy, quy chế 10
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ở một số quốc gia trên thế giới nhà tù đơn thuần chỉ được dùng làm nơi giam giữ, quản lý, cách ly tù nhân khỏi đời sống xã hội. Còn ở Việt Nam, trại giam còn là một "trường dạy nghề" giúp cho những phạm nhân đang chấp hành án phạt tù nhận thức được giá trị của sức lao động, phấn đấu cải tạo sớm trở về đoàn tụ gia đình, trở thành người có ích cho xã hội. Nội dung này được cụ thể hóa tại khoản 3 Điều 3 Luật thi hành án hình sự “Thi hành án phạt tù là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của Luật này buộc phạm nhân phải chịu sự quản lý giam giữ, giáo dục, cải tạo để họ trở thành người có ích cho xã hội”. Môi trường trại giam ở Việt Nam do các quy định của pháp luật Việt Nam, có đặc trưng của pháp luật Việt Nam tuy nhiên ở môi trường này có những yếu tố không được như mong muốn cho nên vẫn xảy ra tình trạng phạm nhân phạm tội trong quá trình chấp hành án phạt tù. Tính đến năm 2015, Tổng cục thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp (Tổng cục VIII) đang quản lý 51 trại giam với 106.713 phạm nhân. Trong đó khu vực Đông Nam Bộ có các trại giam: Xuân Lộc (Đồng Nai), Xuyên Mộc (Bà Rịa - Vũng Tàu), An Phước (Bình Dương), Tống Lê Chân (Bình Phước), Cây Cầy (Tây Ninh). Phần lớn người phạm tội khi chấp hành án tại các trại giam đều nỗ lực cải tạo, thấy rõ tội lỗi, quyết tâm học tập cải tạo để được hưởng chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước, sớm trở về sum họp với gia đình và hòa nhập với xã hội. Tuy nhiên, vẫn có một số lượng phạm nhân nhất định rất ngoan cố, không chịu từ bỏ con đường phạm tội, không chịu tiếp thu các tác động giáo dục của cán bộ trại giam, vi phạm nội quy, quy chế trại giam thậm chí là thực hiện hành vi phạm tội mới. Đặc biệt phạm nhân phạm các tội về ma tuý hiện nay chiếm tỷ lệ cao 1
  7. (31%), phạm nhân sử dụng các chất ma tuý (19,6%), nhiều đối tượng nhiễm HIV/AIDS; những người nghiện ma tuý chiếm tỷ lệ cao lại có nhiều tiền án tiền sự, tái phạm và phạm các tội đặc biệt nghiêm trọng. Ngoài ra, lợi dụng tình trạng sinh hoạt chung, nhiều phạm nhân còn gây ra các vụ cố ý gây thương tích, giết người, trốn khỏi nơi giam giữ gây ra những khó khăn ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản lý giam giữ và giáo dục phạm nhân. Như vậy, tội phạm do phạm nhân thực hiện có nhiều loại cho nên tình hình tội phạm do phạm nhân thực hiện cũng rất đặc biệt, do một chủ thể đặc biệt thực hiện (phạm nhân ở trại giam). Chủ thể có thể ở trại giam thuộc Bộ công an, Bộ quốc phòng. Đề tài: “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do phạm nhân thực hiện tại các trại giam khu vực miền Đông Nam Bộ” thì đề tài có phạm vi nghiên cứu nhỏ, đó là nghiên cứu tình hình phạm nhân phạm tội ở các trại giam khu vực miền Đông nam bộ thuộc Bộ công an. Trong các năm từ 2011 đến 2015 tại các trại giam khu vực miền Đông Nam Bộ thuộc Bộ công an có xảy ra 258 vụ với 260 phạm nhân phạm tội trong quá trình chấp hành án, trung bình trong một năm xảy ra 50 vụ với 52 phạm nhân phạm tội mới. Vậy tại sao trong môi trường trại giam là môi trường giáo dục cải tạo phạm nhân mà lại xảy ra tình trạng phạm nhân tái phạm tội như vậy? Từ đó đặt ra yêu cầu cần thiết phải nghiên cứu về nguyên nhân và điều kiện của tình hình phạm nhân phạm tội tại các trại giam khu vực miền Đông nam bộ. Trong nghiên cứu tội phạm học, nghiên cứu nguyên nhân của tội phạm là vấn đề vô cùng quan trọng, bởi vì suy cho cùng, mục đích của tội phạm học nói riêng cũng như mục đích của công tác điều tra, truy tố, xét xử nói chung là góp phần làm giảm đến mức thấp nhất số lượng tội phạm xảy ra trong xã hội, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà muốn làm 2
  8. giảm tội phạm, vấn đề quan trọng là phải phân tích làm rõ nguyên nhân làm phát sinh tội phạm. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể xây dựng được hệ thống biện pháp phòng ngừa hữu hiệu góp phần làm hạn chế hoặc triệt tiêu các nguyên nhân và điều kiện này. Với ý nghĩa quan trọng đó, tất cả các tài liệu nghiên cứu về tội phạm học đều dành sự quan tâm đặc biệt tới nguyên nhân và điều kiện của tội phạm. Vì những lý do như vậy, việc lựa chọn đề tài “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do phạm nhân thực hiện tại các trại giam khu vực miền Đông Nam Bộ” là đáp ứng yêu cầu cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Để nghiên cứu đề tài: “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do phạm nhân thực hiện tại các trại giam khu vực miền Đông Nam Bộ” trong quá trình thực hiện có các tài liệu sau đây được nghiên cứu: - Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2004), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, NXB. Công an Nhân dân, Hà Nội. - Dương Văn Hùng (2004), Tội phạm trốn khỏi nơi giam giữ và công tác phòng ngừa, đấu tranh tại khu vực phía Nam – Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, Trường đại học Cảnh sát nhân dân, T.p Hồ Chí Minh. - Vũ Việt Hùng (Chủ nhiệm) (2011), Một số kinh nghiệm trong kiểm sát thi hành án hình sự. Chuyên đề khoa học, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội. - Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Các công trình trên đi sâu tìm hiểu các vấn đề về tình hình tội phạm nói chung hoặc tình hình tội phạm tại các trại giam nói riêng. Chưa có nghiên cứu nào phân tích cụ thể các nguyên nhân và điều kiện tình hình tội phạm do phạm nhân thực hiện tại các trại giam khu vực miền Đông Nam 3
  9. Bộ. Vì vậy, việc lựa chọn đề tài nghiên cứu của luận văn là phù hợp với nhu cầu lý luận cũng như thực tiễn hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài: : “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do phạm nhân thực hiện tại các trại giam khu vực miền Đông Nam Bộ” là một nội dung của tội phạm học cho nên cũng phải nghiên cứu quy luật, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do phạm nhân thực hiện nhằm tạo cơ sở vững chắc cho việc phòng ngừa. Mục đích nghiên cứu của đề tài luận văn là nhằm tiếp cận một cách có hệ thống và toàn diện nguyên nhân và điều kiện tình hình tội phạm do phạm nhân thực hiện tại các trại giam khu vực miền Đông Nam Bộ trên cả hai bình diện lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở thống nhất về mặt nhận thức, kết quả nghiên cứu của luận văn tìm ra những đặc điểm của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do phạm nhân thực hiện tại các trại giam khu vực miền Đông Nam Bộ. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp, kiến nghị góp phần hoàn thiện cả lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả phòng ngừa tình hình tội phạm do phạm nhân thực hiện tại các trại giam khu vực miền Đông Nam Bộ góp phần cùng với các cơ quan bảo vệ pháp luật khác đấu tranh phòng, chống hiệu quả hơn với loại tội phạm này trong thời gian tới. Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài luận văn cần giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau đây: - Đề cập, làm rõ cơ sở lý luận về nguyên nhân và điều kiện tình hình tội phạm do phạm nhân thực hiện tại các trại giam khu vực miền Đông Nam Bộ - Khảo sát, đánh giá tổng quan nguyên nhân và điều kiện tình hình tội phạm do phạm nhân thực hiện tại các trại giam khu vực miền Đông Nam Bộ 4
  10. - Khảo sát thực trạng tình hình tội phạm do phạm nhân thực hiện tại các trại giam khu vực miền Đông Nam Bộ. Tìm ra những đặc điểm mang tính đặc thù của nguyên nhân và điều kiện tình hình tội phạm do phạm nhân thực hiện tại đây. - Đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả phòng ngừa tình hình tội phạm do phạm nhân thực hiện tại các trại giam khu vực miền Đông Nam Bộ trong giai đoạn hiện nay và thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nguyên nhân và điều kiện tình hình tội phạm do phạm nhân thực hiện tại các trại giam khu vực miền Đông Nam Bộ; tìm ra các mối quan hệ biện chứng, quan hệ nhân quả phụ thuộc lẫn nhau. - Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu đề tài trong phạm vi tội phạm học thuộc chuyên ngành tội phạm học và phòng ngừa tội phạm. + Về thời gian: Đề tài nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện tình hình tội phạm do phạm nhân thực hiện tại các trại giam khu vực miền Đông Nam Bộ khoảng thời gian 05 năm từ năm 2011 đến 2015. +Về không gian: Địa bàn khảo sát, phân tích trên phạm vi các trại giam khu vực miền Đông Nam Bộ. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận của luận văn là phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta trong nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện tội phạm nói chung và nguyên nhân và điều kiện tình hình tội phạm do phạm nhân thực hiện tại các trại giam khu vực miền Đông Nam Bộ nói riêng. 5
  11. - Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Luận văn được nghiên cứu bằng nhiều phương pháp khác nhau như: Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh; bằng các biện pháp khảo sát, sử dụng biểu đồ minh hoạ; khảo cứu các văn bản, tài liệu có liên quan đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn có cách tiếp cận mới và khoa học trong việc đánh giá, phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm do phạm nhân thực hiện tại các trại giam khu vực miền Đông Nam Bộ thời gian vừa qua. Luận văn đóng góp một bước phát triển tiếp về vấn đề nguyên nhân và điều kiện đối với tình hình phạm nhân phạm tội trong trại giam. Luận văn phân tích, tổng hợp và chỉ ra những mặt đạt được cũng như bất cập trong phòng ngừa tình hình tội phạm do phạm nhân thực hiện tại các trại giam khu vực miền Đông Nam Bộ. Luận văn có thể được sử dụng trong quá trình nghiên cứu và đào tạo. Luận văn giúp cho việc quản lý phạm nhân tại các trại giam có hiệu quả hơn. Luận văn phân tích những nhu cầu khách quan, những đòi hỏi và trình bày hệ thống các đảm bảo nhằm thực hiện tốt phòng ngừa tình hình tội phạm do phạm nhân thực hiện tại các trại giam khu vực miền Đông Nam Bộ từ đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả hoạt động của công tác này. 7. Cơ cấu của luận văn Chương 1: Những vấn đề lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do phạm nhân thực hiện tại các trại giam khu vực miền Đông Nam Bộ 6
  12. Chương 2: Thực trạng nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do phạm nhân thực hiện tại các trại giam khu vực miền Đông Nam Bộ Chương 3: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do phạm nhân thực hiện tại các trại giam khu vực miền Đông Nam Bộ và những vấn đề đặt ra đối với phòng ngừa tình hình tội phạm do phạm nhân thực hiện tại các trại giam 7
  13. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC TỘI PHẠM DO PHẠM NHÂN THỰC HIỆN 1.1. Nhận thức chung về tội phạm do phạm nhân thực hiện tại các trại giam 1.1.1. Khái niệm tội phạm do phạm nhân thực hiện Trại giam là nơi trực tiếp quản lý và tổ chức thi hành án phạt tù buộc những người bị kết án tù có thời hạn, tù chung thân chấp hành hình phạt tại trại giam nhằm giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Người bị kết án tù chung thân hoặc tù có thời hạn phải chấp hành án ở các trại giam. Kể từ khi người bị kết án tù được trại giam tiếp nhận để thi hành án phạt tù đến khi họ được trả tự do khỏi trại giam được gọi là phạm nhân. Phạm nhân là những người đã có hành vi vi phạm pháp luật, bị tòa án tuyên xử mức án tù có thời hạn, tù chung thân khi bản án đó đã có hiệu lực pháp luật. Họ bị cưỡng chế đưa vào các trại giam để chấp hành án phạt tù trong một khoảng thời gian luật định nhằm cải tạo, giáo dục họ sớm hoàn lương trở về với gia đình và xã hội. Theo quy định của Pháp lệnh Thi hành án phạt tù thì tất cả phạm nhân đều phải bị quản lý, giam giữ trong trại giam hoặc trại tạm giam hoặc nhà tạm giữ (trong phạm vi của luận văn chúng tôi chỉ đề cập đến những phạm nhân đang chấp hành án tại các trại giam), ở các trại giam họ phải bị giam giữ trong các nhà giam, buồng giam, thuộc khu giam (khu I hoặc khu II) và phải chịu sự quản lý, giám sát của cơ quan quản lý trại giam. Tại Điều 3, Pháp lệnh Thi hành án phạt tù sửa đổi bổ sung năm 2007 quy định: "Trong thời gian chấp hành hình phạt, người bị kết án tù phải bị giam giữ, lao động và học tập theo quy định của pháp luật". Trong quá 8
  14. trình cải tạo, phần lớn phạm nhân khi vào trại giam đã chấp hành tốt nội quy, quy chế trại giam; cố gắng lao động, cải tạo tốt để sớm được hoàn lương trở về với cộng đồng. Nhưng cũng có không ít phạm nhận do nhận thức kém, bản chất côn đồ, thuộc dạng lưu manh chuyên nghiệp, chây lười lao động, luôn tìm mọi cách vi phạm nội quy, quy chế trại giam, kể cả có những phạm nhân thực hiện những hành vi phạm tội trong thời gian chấp hành hình phạt tù như: tội trốn khỏi nơi giam, giết người, cố ý gây thương tích, tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy những hành vi vi phạm của phạm nhân đã gây ảnh hưởng đến công tác quản lý, giáo dục, cải tạo phạm nhân và an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Do vậy, việc xác định khái niệm tội phạm do phạm nhân thực hiện là gì có ý nghĩa quan trọng trong công tác phòng ngừa của lực lượng Cảnh sát trại giam. Điều 8, Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999 quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”. Theo Điều 8, Bộ luật hình sự năm 1999, chủ thể thực hiện hành vi phạm tội là “do người có năng lực trách nhiệm hình sự” thực hiện “một cách cố ý hoặc vô ý”, xâm phạm vào những quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ “ xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân ”, do đó chúng ta thấy rằng chủ thể thực hiện hành vi phạm tội theo Bộ luật hình sự rất rộng bao gồm tất 9
  15. cả những công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch sống trên lãnh thổ Việt Nam có đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện hành vi vi phạm pháp luật Hình sự Việt Nam; chủ thể này xâm phạm vào tất cả các khách thể được Luật Hình sự Việt Nam bảo vệ. Trong các chủ thể thực hiện hành phạm tội đó có những phạm nhân đang chấp hành án tại các trại giam, họ là những người bị tòa án kết án tù có thời hạn, tù chung thân phải vào trại giam để chấp hành hình phạt, họ bị ràng buộc bởi những quy định của pháp luật trong thời gian họ chấp hành án. Do đó, tội phạm do phạm nhân thực hiện trong thời gian họ chấp hành án ở trại giam chủ yếu là ở các trại giam. Để phòng ngừa ngừa tội phạm nói chung hay tội phạm do phạm nhân thực hiện ở các trại giam nói riêng lực lượng Công an phải áp dụng tổng hợp các biện pháp phòng ngừa xã hội và phòng ngừa nghiệp vụ. Tuy nhiên, đối với phòng ngừa tội phạm do phạm nhân thực hiện ở trại giam sẽ có những đặc trưng riêng, trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu hoạt động phòng ngừa tội phạm do phạm nhân thực hiện tại các trại giam thuộc Bộ Công an quản lý khu vực miền Đông Nam bộ. Do vậy, theo chúng tôi khái niệm tội phạm do phạm nhân thực hiện trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam theo phạm vi nghiên cứu của Luận văn là: Tội phạm do phạm nhân thực hiện là hành vi vi phạm của phạm nhân thực hiện trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam đến mức phải chịu trách nhiệm hình sự đối với những tội danh được quy định trong Bộ luật hình sự. Tội phạm do phạm nhân thực hiện trong thời gian chấp hành hình phạt tù bao gồm nhiều loại tội danh khác nhau và tác động đến sự ổn định của trại giam, nếu để xảy ra không những làm mất an toàn ở trại giam mà còn ảnh hưởng đến Trật tự an toàn xã hội. Bởi vậy, phòng ngừa tội phạm do phạm 10
  16. nhân thực hiện trong thời gian chấp hành hình phạt tù tại trại giam là nhiệm vụ rất quan trọng của lực lượng Cảnh sát trại giam. Ngoài các dấu hiệu pháp lý của tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự nói chung thì tội phạm do phạm nhân thực hiện trong thời họ chấp hành hình phạt tù tại trại giam có những đặc điểm riêng, được thể hiện ở các các dấu hiệu đặc trưng sau đây: - Khách thể của tội phạm: tội phạm nói chung thì khách thể là tất cả những quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại còn khách thể bị xâm hại của tội phạm do phạm nhân thực hiện chỉ có một số khách thể tương ứng với các tội danh được quy định trong Bộ luật Hình sự mà phạm nhân đã thực hiện. Do đặc điểm của đối tượng chấp hành án trong các trại giam là phạm nhân, họ bị tước hoặc hạn chế một số quyền nhất định nên họ không có điều kiện xâm phạm tất cả các khách thể được Luật hình sự bảo vệ mà chỉ có thể xâm phạm vào một số khách thể trong điều kiện môi trường phạm nhân chấp hành án ở các trại giam như: sự an toàn của chế độ quản lý giam giữ và sự ổn định của trại giam, xâm phạm quyền được tôn trọng và bảo vệ về sức khỏe của con người - Mặt khách quan của tội phạm: đây là tội phạm do những người đang chấp hành bản án phạt tù (tù có thời hạn hoặc tù chung thân) ở trại giam thực hiện. Các hành vi khách quan của tội phạm do phạm nhân thực hiện trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam có nhiều loại khác nhau. Qua nghiên cứu khảo sát, chúng tôi thấy rằng những hành vi vi phạm pháp luật của phạm nhân đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự theo các tội danh được quy định trong Bộ luật hình sự của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999, chủ yếu bao gồm các hành vi sau: + Hành vi bỏ trốn của phạm nhân nhằm thoát khỏi sự quản lý giam giữ của cơ quan thi hành án phạt tù để trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật. 11
  17. (Hành vi khách quan cấu thành tội “Trốn khỏi nơi giam” Điều 311, Bộ luật hình sự năm 1999) + Hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác của phạm nhân. (Hành vi khách quan cấu thành tội “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác” Điều 104, Bộ luật hình sự năm 1999) + Hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý. (Hành vi khách quan cấu thành tội “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý” Điều 194, Bộ luật hình sự năm 1999) Ngoài ra, phạm nhân còn thực hiện một số hành vi phạm tội khác như: hành vi giết người, chống người thi hành công vụ, gây rối trật tự công cộng ), những hành vi này chiếm tỷ lệ không lớn nhưng lại rơi vào các tội nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Hậu quả của tội phạm do phạm nhân thực hiện ở trại giam bao gồm: thiệt hại tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người (chủ yếu là phạm nhân), thiệt hại về vật chất của trại giam; Chi phí trong việc tổ chức truy bắt, truy nã phạm nhân phạm tội trốn khỏi nơi giam; Chi phí trưng cầu giám định tỷ lệ thương tật, khám và điều trị thương tích cho người bị hại, chi phí mai táng trong trường hợp phạm nhân chết, chi phí giám định các chất ma túy; kinh phí tiến hành các hoạt động điều tra ban đầu, bàn giao hồ sơ theo quy định; ngoài ra những hành vi phạm tội do phạm nhân thực hiện ở các trại giam đã ảnh hưởng xấu đến công tác quản lý, giam giữ, giáo dục cải tạo phạm nhân; ảnh hưởng xấu đến sự ổn định của trại giam, gây tâm lý hoang mang trong phạm nhân và tính nghiêm minh của pháp luật. Phạm nhân chỉ chịu trách nhiệm hình sự đối với những hậu quả nguy hiểm cho xã hội nếu giữa hành vi và hậu quả có mối quan hệ nhân quả với 12
  18. nhau, nói cách khác là hậu quả đó do chính hành vi của họ thực hiện. Do đó việc xác định chính xác mối quan hệ giữa hành vi vi phạm của phạm nhân với hậu quả xảy ra là điều hết sức cần thiết để xác định phạm nhân có phạm tội hay không để xử lý phù hợp. Về thời gian, địa điểm, công cụ, phương tiện phạm tội của phạm nhân: Thời gian thực hiện hành vi phạm tội của phạm nhân là bất kể lúc nào nếu có điều kiện hoặc có sự chuẩn bị, nghiên cứu lựa chọn thời gian trước khi thực hiện. Tuy nhiên, thực tế vào buổi tối phạm nhân phải ở trong buồng giam tập thể, với nhà giam, tường giam kiên cố, vững chắc, có cán cán bộ Cảnh sát vũ trang canh gác, số lượng phạm nhân trong buồng giam tập trung đông nên phạm nhân khó có điều kiện thực hiện hành vi phạm tội. Chỉ có thời gian vào ban ngày phạm nhân được đưa ra khỏi buồng giam tập thể để ra các hiện trường lao động, học nghề, đây là những nơi có địa bàn rộng, cán bộ trại giam khó kiểm soát tất cả những hoạt động của họ, nơi đây có nhiều điều kiện thuận lợi để phạm nhân thực hiện hành vi phạm tội như: cố ý gây thương tích, trốn khỏi nơi giam hay các tội về ma túy do đó khi dẫn giải, quản lý đội phạm nhân khi đi lao động cán bộ Cảnh sát quản giáo, cán bộ Cảnh sát bảo vệ cần nâng cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện tốt các biện pháp nghiệp vụ, xây dựng các phương án phòng chống đột xuất. Địa điểm tội phạm do phạm nhân thực hiện chủ yếu xảy ra ở trại giam, tức là nơi trực tiếp quản lý và tổ chức thi hành án phạt tù buộc những người bị kết án tù có thời hạn, tù chung thân chấp hành hình phạt nhằm giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Ngoài ra, phạm nhân có thể phạm tội ở những nơi ngoài trại giam như trốn ở bệnh viện hoặc có ý gây thương tích, giết người hay quan hệ trái phép chất ma túy với người thân ở bệnh viện bên ngoài trại giam Tuy nhiên, những trường hợp này chiếm tỷ lệ rất ít trong cơ cấu các tội phạm xảy ra ở trại giam. 13
  19. Về công cụ, phương tiện gây án: có vụ phạm tội đối tượng có sự chuẩn bị hết sức chu đáo, công phu, tỷ mỷ nhưng cũng có vụ khi có cơ hội là thực hiện ngay dù đó là cơ hội nhỏ nhất, đối tượng có thể lợi dụng bất kể thứ gì có xung quanh mình để đạt được mục đích, nhất là trong môi trường trại giam luôn thiếu công cụ phương tiện gây án. Ngoài ra phạm nhân còn móc nối với người thân, công nhân hợp đồng với trại, người dân sống xung quanh trại giam để mang vật cấm vào trong trại giam nhằm thực hiện hành vi phạm tội như: các chất ma túy, lưỡi lam, lưỡi cưa sắt - Mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi của tội phạm do phạm nhân thực hiện đều thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý trực tiếp. Khi thực hiện hành vi phạm tội phạm nhân nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra. Chẳng hạn như khi thực hiện hành vi bỏ trốn, người phạm tội biết rõ hành vi trốn của mình sẽ gây trở ngại cho cơ quan quản lý trại giam, ảnh hưởng đến trật tự xã hội, chống lại án phạt tù; Hoặc trong trường hợp người phạm tội có ý gây thương tích, người phạm tội nhận thức rõ hành vi dùng sức mạnh vật chất tác động trực tiếp lên cơ thể người khác là hành vi có thể hoặc nhất định gây thương tích và mong muốn gây thương tích cho nạn nhân, để mặc cho hậu quả đó xảy ra - Chủ thể của tội phạm: Ngoài điều kiện chung về đủ năng lực trách nhiệm hình sự thì chủ thể của tội phạm do phạm nhân thực hiện là phạm nhân, tức là người đã bị Tòa án kết án tù có thời hạn, tù chung thân và đang chấp hành án phạt tù trong trại giam. 1.1.2. Phân biệt tội phạm do phạm nhân thực hiện với những hành vi vi phạm nội quy, quy chế trại giam Phạm nhân là những người đã bị kết án, họ có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, họ luôn nhận thức được những điều mình làm. Mặt khác, khi 14
  20. vào trại giam phạm nhân đã được tổ chức học tập nội quy, quy chế trại giam và các văn bản pháp luật liên quan đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ trong trại giam. Do đó bất cứ hành vi nào được thực hiện gây thiệt hại đến lới ích cá nhân hay tập thể, trái quy định trong nội quy, quy chế trại giam trại giam đều phải phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh. Việc phòng ngừa ngăn chặn không để phạm nhân thực hiện hành vi vi phạm nội quy, quy chế trại giam và không để họ thực hiện hành vi phạm tội trong thời gian chấp hành án là nhiệm vụ vô cùng quan trọng của lực lượng Cảnh sát trại giam. Tuy nhiên cần làm rõ ranh giới giữa vi phạm nội quy, quy chế trại giam với hành vi phạm tội, vì đây là điểm dễ gây nhầm lẫn trong thực tế xử lý các hành vi vi phạm của phạm nhân ở các trại giam. Vì có vụ phạm tội do phạm nhân thực hiện đã đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng cán bộ trại giam chỉ xử lý kỷ luật về vi phạm nội quy trại giam, chứ chưa làm các thủ tục điều tra ban đầu về vụ phạm tội đó. Ngược lại có vụ vi phạm nội quy nhưng cán bộ trại giam lại quyết định khởi tố vụ án hình sự và cuối cùng không đủ yếu tố để khởi tố về vụ việc đó. Trước hết, hành vi vi phạm nội quy, quy chế trại giam là một hiện tượng tiêu cực xảy ra ở trại giam của phạm nhân. Những hành vi này xâm phạm đến các mối quan hệ được nội quy, quy chế trại giam bảo vệ và xác lập. Những hành vi này trực tiếp xâm hại đến chính sách quản lý Nhà nước về công tác thi hành án phạt tù, gây mất trật tự, kỷ cương, kỷ luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của phạm nhân khác. Hành vi vi phạm nội quy, quy chế của phạm nhân rất đa dạng, phạm nhân thực hiện có đủ mọi thành phần, độ tuổi, giới tính, trình độ. Với nhiều loại hành vi vi phạm như: đánh nhau gây thương tích; cờ bạc; quan hệ mua bán trái phép, tàng trữ, cất giấu, sử dụng trái phép các vật cấm; tức là phạm nhân có những hành vi trái với nội quy, quy chế trại giam đã quy định. Khi vào trại giam, phạm nhân đã được 15
  21. học tập nội quy, quy chế, do đó họ đã biết và nắm được những việc cấm họ không được làm, những việc họ phải làm, nhưng vẫn cố tình không thực hiện hoặc những việc không được làm trong thời gian chấp hành án phạt tù ở trại giam nhưng họ cố tình vi phạm. Những hành vi vi phạm nội quy, quy chế của phạm nhân, căn cứ vào tính chất, mức độ họ sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật hiện hành. Vi phạm nội quy, quy chế trại giam là hành vi gây nguy hiểm cho trại giam, trái với quy định của pháp luật về công tác thi hành án phạt tù, đặc trưng của hành vi vi phạm nội quy, quy chế trại giam là hành vi này chỉ xảy ra trong trại giam và hậu quả do những hành vi này thực hiện cũng liên quan trực tiếp tới phạm nhân. Để xử lý những hành vi vi phạm nội quy, quy chế trại giam cán bộ Cảnh sát trại giam căn cứ vào những quy định trong Pháp lệnh Thi hành án phạt tù được Uỷ ban thường vụ Quốc Hội thông qua ngày 08/03/1993 và Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội số 01/2007/UBTVQH ngày 19/10/2007 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thi hành án hình sự; Quy chế trại giam, ban hành kèm theo Nghị định 113/CP do Chính phủ ban hành ngày 28/10/2008; Nội quy trại giam ban hành kèm theo Thông tư số 69/2009/TT-BCA-V19 ngày 30/11/2009 của Bộ trưởng Bộ Công an. Trong đó, nội quy trại giam là căn cứ pháp lý trực tiếp để xử lý những hành vi vi phạm của phạm nhân. Đối với hành vi phạm tội của phạm nhân trong thời gian chấp hành án phạt tù cũng là một dạng hành vi vi phạm nội quy, quy chế ở trại giam nhưng ở mức độ cao hơn. Những hành vi phạm tội phải có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự Việt Nam. Những hành vi phạm tội do chính những phạm nhân đang chấp hành bản án phạt tù trong các trại giam thực hiện và phải bị xử lý nghiêm khắc trước pháp luật. Hành vi này là hành vi phạm tội trong thời gian đối tượng đó đang chấp hành án phạt tù ở 16