Luận văn Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Hậu Giang

pdf 83 trang vuhoa 25/08/2022 8220
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Hậu Giang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_nguyen_nhan_va_dieu_kien_cua_tinh_hinh_cac_toi_xam.pdf

Nội dung text: Luận văn Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Hậu Giang

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THỊ HẰNG NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẬU GIANG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THỊ HẰNG NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẬU GIANG Chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm Mã số: 60.38.01.05 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HỒ SỸ SƠN HÀ NỘI - 2017
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC 7 1.1. Khái niệm, ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục 7 1.2. Phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục 14 1.3. Cơ chế tác động của các nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục 16 1.4. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục với tình hình, nhân thân người phạm tội và với phòng ngừa tình hình các tội này 18 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẬU GIANG 22 2.1. Thực trạng nhận thức về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Hậu Giang 22 2.2. Thực trạng các nguyên nhân và điều kiện cụ thể của tình hình các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Hậu Giang 24 2.3. Thực trạng làm sáng tỏ nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Hậu Giang của các chủ thể phòng, chống tình hình các tội này trên địa bàn nói trên 52 Chƣơng 3: NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH CÁC TỘI NÀY TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẬU GIANG 56
  4. 3.1. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục trong phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Hậu Giang và vấn đề tăng cường nhận thức về chúng 56 3.2. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục và vấn đề dự báo tình hình các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Hậu Giang 57 3.3. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Hậu Giang và vấn đề về các giải pháp phòng ngừa tội phạm 59 KẾT LUẬN 71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 72 PHỤ LỤC
  5. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Tổng quan về tình hình tội phạm xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Hậu Giang từ năm 2011 -2015 Bảng 2.2. Thống kê thành phần xã hội của người phạm tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Hậu Giang từ năm 2011- 2015 Bảng 2.3. Thống kê số vụ, số bị cáo phạm tội xâm phạm tình dục bị đình chỉ điều tra, truy tố trên địa bàn tỉnh Hậu Giang từ năm 2011- 2015 Bảng 2.4. Thống kê về độ tuổi của nạn nhân trong các vụ án xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Hậu Giang từ năm 2011- 2015 Bảng 2.5. Thống kê về độ tuổi của bị cáo phạm tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Hậu Giang từ năm 2011- 2015 Bảng 2.6. Thống kê trình độ văn hóa của người phạm tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Hậu Giang từ năm 2011- 2015
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hậu Giang là một tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long, được thành lập vào năm 2004 do tách ra từ tỉnh Cần Thơ cũ. Cơ cấu lãnh thổ có 08 đơn vị hành chính, gồm 01 thành phố, 02 thị xã và 05 huyện. Diện tích tự nhiên 1744,7km2, dân số: 895.918 người, mật độ dân số trung bình là 514 người/km2. Mặc dù là tỉnh mới được thành lập chưa lâu nhưng với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh đã có những chuyển biến tích cực, tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm gần đây đạt 13,5%, giá trị gia tăng bình quân đầu người năm 2015 đạt 36,5 triệu đồng/người tương đương 1.672 USD), thu nhập này cao gấp 2,3 lần so với năm 2010. Cùng với sự quan tâm trong lĩnh vực kinh tế, an ninh trật tự, phòng chống tội phạm cũng được chính quyền tỉnh Hậu Giang quan tâm sâu sát. Huy động các đoàn thể, nhân dân tham gia vào phong trào bảo vệ an ninh trật tự. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tình hình tội phạm xảy ra trên địa bàn tỉnh Hậu Giang có xu hướng tăng, đặc biệt là nhóm tội phạm xâm phạm tình dục. Khi tội phạm xâm phạm tình dục diễn ra sẽ dẫn đến những hậu quả vô cùng to lớn. Trước hết là đối với nạn nhân và gia đình nạn nhân, gây ảnh hưởng tới tâm sinh lý lâu dài của họ, đặc biệt nạn nhân là trẻ em trong suốt quá trình trưởng thành. Nhiều nạn nhân cảm thấy xấu hổ, sợ hãi và mặc cảm, không tự tin để hòa nhập với cộng đồng, xã hội. Không dừng lại ở đó, họ còn có thể bị mắc một số bệnh về tình dục như AIDS, viêm nhiễm . Đồng thời, nhóm tội xâm phạm tình dục còn ảnh hưởng tới thuần phong mỹ tục, thể hiện 1
  7. sự suy đồi và xuống cấp về đạo đức trầm trọng. Ảnh hưởng tới trật tự an toàn xã hội, gây tâm lý lo lắng, hoang mang cho dân cư trên địa bàn tỉnh. Trước tình hình đó, với sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, sâu sát của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp của tỉnh Hậu Giang, cùng sự nỗ lực của các ngành, đoàn thể trên địa bàn tỉnh đã triển khai, thực hiện nghiêm túc các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước, các Chỉ thị, Nghị quyết về hoạt động phòng ngừa, đấu tranh, xử lý các loại tội phạm nói chung, tội phạm xâm phạm tình dục nói riêng trong giai đoạn hiện nay và đã bước đầu đạt được những kết quả tích cực. Tuy nhiên, tình hình các tội xâm phạm tình dục vẫn liên tục xảy ra và có xu hướng gia tăng [xem bảng 2.1 – phụ lục] với diễn biến ngày càng phức tạp; một số vụ án xâm phạm tình dục đặc biệt nghiêm trọng xảy ra làm cho quần chúng nhân dân sợ hãi, phẫn nộ. Với hậu quả to lớn, nặng nề và sự gia tăng của nhóm tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Hậu Giang, cần tìm hiểu đầy đủ, chính xác nguyên nhân và điều kiện mang tính “địa tội phạm” của nó nhằm tìm ra biện pháp giải quyết cụ thể, thiết thực, phù hợp với đặc điểm địa lý, dân cư và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh. Đó cũng là lý do học viên chọn nghiên cứu đề tài “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Hậu Giang” làm luận văn thạc sỹ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm gần đây, có một số công trình nghiên cứu như: - Phan Thị Ngoan 2011), Đấu tranh phòng, chống tội hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng, Luận văn luật học, Học viện khoa học xã hội; - Diệp Huyền Thảo 2012), Các tội xâm phạm tình dục đối với trẻ em trên địa bàn tỉnh Trà Vinh: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận văn luật học, Học viện khoa học xã hội; 2
  8. - Nguyễn Thị Nga 2014), Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Bình Phước, Luận văn luật học, Học viện khoa học xã hội; - Võ Công Sáu 2015), Tội xâm phạm tình dục đối với trẻ em trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận văn luật học, Học viện khoa học xã hội; - Nguyễn Văn Qui 2016), Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Tây Ninh, Luận văn luật học, Học viện khoa học xã hội. Có thể thấy, trên địa bàn các tỉnh ở Đồng bằng sông Cửu Long mới có các công trình chỉ nghiên cứu về một tội hoặc một nhóm tội theo độ tuổi trẻ em), chứ chưa nghiên cứu bao quát của một nhóm tổng thể “nhóm tội xâm phạm tình dục” nói chung. Đây cũng là đề tài mới mẻ chưa được tác giả nào nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Hậu Giang để từ đó đưa ra biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn thiết thực, hữu hiệu đối với loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Hậu Giang. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu chuyên sâu về nguyên nhân và điều kiện của các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Hậu Giang từ năm 2011 đến năm 2015, luận văn đề xuất các biện pháp phòng ngừa có hiệu quả tình hình nhóm tội phạm này. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn tập trung thực hiện các nhiệm vụ sau: Phân tích khái niệm, ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục; 3
  9. Phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục; Phân tích cơ chế tác động của các nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục; Phân tích, đánh giá thực trạng nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Hậu Giang từ năm 2011 đến năm 2015; Đề xuất các giải pháp nhằm giải quyết vấn đề nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Hậu Giang. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là mối quan hệ phụ thuộc giữa tình hình các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Hậu Giang trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2015 với các hiện tượng, quá trình xã hội hay nói cách khác là quy luật của sự phạm tội xâm phạm tình dục trên địa bàn nói trên. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài luận văn được nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học và phòng ngừa tội phạm. Các số liệu trình bày trong luận văn được thu thập từ kết quả điều tra, kiểm sát, xét xử các vụ án xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Hậu Giang từ năm 2011 đến năm 2015. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được nghiên cứu dựa trên phép duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; Các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về hoạt động phòng ngừa, đấu tranh, xử lý các loại tội phạm nói chung và tội phạm xâm phạm tình dục nói riêng trong giai đoạn hiện nay. 4
  10. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: Phương pháp nghiên cứu tài liệu; Phương pháp tổng kết thực tiễn rút kinh nghiệm; Phương pháp thống kê; Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp số liệu; Phương pháp trao đổi, tọa đàm. 6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận khoa học về hoạt động phòng ngừa, đấu tranh với các loại tội phạm nói chung và tội phạm xâm phạm tình dục nói riêng. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Đề tài là tài liệu để cá nhân, cơ quan, tổ chức tham khảo và vận dụng trong việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho quần chúng nhân dân về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của đề tài còn có thể sử dụng trong thực tiễn chỉ đạo và tiến hành hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Hậu Giang, nhất là hoạt động của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của luận văn được cấu trúc thành 03 chương, cụ thể là: Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận chung về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục. 5
  11. Chƣơng 2: Thực trạng nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Hậu Giang. Chƣơng 3: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục và những vấn đề đặt ra đối với phòng ngừa tình hình các tội này trên địa bàn tỉnh Hậu Giang. 6
  12. Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC 1.1. Khái niệm, ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục 1.1.1. Khái niệm nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục Theo từ điển tiếng Việt, nguyên nhân “là nhân tố tạo ra kết quả hoặc nảy sinh sự việc (đang nói đến)” và điều kiện là “cái cần phải có để cho một cái khác có thể xảy ra”. Như vậy, có thể hiểu nguyên nhân là hiện tượng mà tác động của nó gây nên, làm biến đổi hay kéo theo sau nó các hiện tượng khác. Còn điều kiện như là chất xúc tác góp phần thúc đẩy nhanh một kết quả nào đó. Nguyên nhân và điều kiện là những yếu tố của một hệ thống tác động thống nhất làm sinh ra hậu quả. Có thể thấy nguyên nhân - điều kiện dẫn tới kết quả, kết quả do nguyên nhân gây ra phụ thuộc vào những điều kiện nhất định. Điều kiện tuy không sinh ra kết quả, mà tạo điều kiện, bảo đảm cho hậu quả xảy ra. Về bản chất điều kiện là những sự kiện, hiện tượng, tình huống, hoàn cảnh nhất định. Nếu tương tác là nguyên nhân cuối cùng thật sự của sự vật thì rõ ràng là trong bất cứ trường hợp nào, suy cho cùng, nguyên nhân bao giờ cũng là tương tác giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây nên những biến đổi nhất định; còn kết quả là những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau của các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau [18, tr.245] Sự tác động lẫn nhau giữa nguyên nhân và kết quả thể hiện ở việc chuyển tải một số lượng vật chất, năng lượng và thông tin nào đó từ nguyên 7
  13. nhân đến hậu quả. Việc chuyển tải thông tin là một thuộc tính đặc trưng trong lĩnh vực quan hệ xã hội. Các tin tức về các hành vi khác nhau của con người, về các quy phạm hành vi, về các hệ thống giá trị, về các sự kiện khác nhau của hiện thực hàng ngày được con người lĩnh hội thông qua các kênh thông tin khác nhau, những tin tức đó tham gia hình thành nên thế giới quan, tâm lý, lối sống bên trong của họ. Theo quy định của Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì tội phạm xâm phạm tình dục bao gồm các tội: Hiếp dâm Điều 111), Hiếp dâm trẻ em Điều 112); Cưỡng dâm Điều 113); Cưỡng dâm trẻ em Điều 114); Giao cấu với trẻ em Điều 115); Dâm ô với trẻ em Điều 116); Mua dâm người chưa thành niên Điều 256). Các tội này đã xâm phạm vào khách thể là quyền bất khả xâm phạm về tình dục, nhân phẩm, danh dự được biểu hiện ở hành vi khách quan là giao cấu trái pháp luật hoặc dâm ô đối với người khác, người thực hiện tội phạm với lỗi cố ý và đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Như chúng ta đã biết, tình hình tội phạm vốn không phải là một khái niệm pháp lý mà là một phạm trù xã hội học dùng để chỉ một hiện tượng xã hội. Cơ sở để nhận thức được tình hình tội phạm phải là các hành vi phạm tội xảy ra trong thực tiễn xã hội. Tình hình tội phạm XPTD chính là hiện tượng tâm – sinh lý- xã hội tiêu cực, vừa mang tính lịch sử và lịch sử cụ thể, vừa mang tính pháp lý hình sự với hạt nhân là tính giai cấp, được thể hiện thông qua tổng thể các hành vi xâm hại tình dục cùng với chủ thể đã thực hiện các hành vi đó trong một đơn vị thời gian và không gian nhất định. Xét theo mối liên hệ nhân – quả, thì quả ở đây là tình hình các tội XPTD, vậy nhân nguyên nhân) của nó là gì? Theo GS.TS Võ Khánh Vinh quan niệm về nguyên nhân và tình hình tội phạm nói chung thì “Nguyên nhân của tình hình tội phạm là 8
  14. những hiện tượng xã hội tiêu cực ở trong mối liên hệ tương tác hai mức độ sinh ra và tái sản xuất ra tình hình tội phạm như là hậu quả tất yếu của mình. Điều kiện của tình hình tội phạm là những hiện tượng xã hội tiêu cực, tự mình không sinh ra tình hình tội phạm và các tội phạm, mà là hỗ trợ, làm dễ dàng và tăng cường cho sự hình thành và hoạt động của các nguyên nhân” [40, tr.87]. Từ quan điểm đó, chúng ta thấy rằng nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm đều là những hiện tượng xã hội tiêu cực và mang tính bản chất xã hội, chúng bao giờ cũng nằm trong hệ thống các mâu thuẫn xã hội của xã hội. Trong xã hội tư bản cũng như bất kỳ hình thái kinh tế - xã hội bóc lột nào, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm là những hiện tượng không thể loại bỏ được, bởi vì chúng gắn chặt với các quy luật phát triển cơ bản của xã hội đó. Các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm trong xã hội và xã hội chủ nghĩa, và chính tình hình tội phạm là có thể khắc phục được, bởi vì chúng mâu thuẫn với các quy luật và nguyên nhân cơ bản của chủ nghĩa xã hội, với bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, khi bàn về nguyên nhân và điều kiện của một tội cụ thể có nhiều cách sử dụng như “Nguyên nhân và điều kiện của tội phạm A”, “Nguyên nhân và điều kiện của tội A”, “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm A”. Có quan điểm cho rằng chỉ nên đề cập “nguyên nhân của tình trạng phạm tội” mà không nên phân biệt “nguyên nhân và điều kiện của tình trạng phạm tội” với trên thực tế rất khó phân biệt giữa nguyên nhân và điều kiện. Khi nghiên cứu từng loại tội phạm cụ thể thì hoàn toàn có thể phân biệt giữa nguyên nhân và điều kiện của nó. Ví dụ, tội trộm cắp tài sản, chúng ta hoàn toàn có thể phân biệt nguyên nhân của tội trộm cắp và điều kiện của tội trộm cắp. Như điều kiện của tội trộm cắp tài sản là những sơ hở của chủ tài sản 9
  15. không có ý thức bảo vệ tài sản của chính mình ví dụ không khóa cửa khi đi ra ngoài phòng, ổ khóa không tốt, cửa rào lỏng lẻo Cũng có quan điểm cho rằng không chỉ phân biệt nguyên nhân và điều kiện của từng loại tội phạm cụ thể mà cần phải phân biệt nguyên nhân và điều kiện của tình trạng phạm tội cũng như cần phân biệt nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm. Nguyên nhân và điều kiện của tình trạng phạm tội là những nguyên nhân của các nhóm và các loại tội phạm. Nguyên nhân của tình hình tội phạm là nguyên nhân chung của toàn bộ tổng số tội phạm tổng số người thực hiện các hành vi phạm tội). Cũng có ý kiến cho rằng xuất phát từ quan niệm: tội phạm trong tội phạm học phải được hiểu là tổng số người vụ việc) phạm tội tức là tội phạm phải được hiểu là hiện tượng xã hội của tổng số người đã thực hiện hành vi phạm tội), do vậy sử dụng cụm từ nguyên nhân của tội phạm là chính xác nhất chứ không sử dụng nguyên nhân của tình hình tội phạm. Quan điểm của cá nhân người viết thì khái niệm “tình hình tội phạm” là khái niệm cơ bản của tội phạm học và cụm từ “nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm” có một cách hiểu và ý nghĩa riêng của nó. Và trong đề tài nghiên cứu này, có thể hiểu “nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPTD là hệ thống các hiện tượng xã hội tiêu cực và sự tương tác của chúng làm phát sinh tình hình các tội XPTD”. Giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPTD có những phạm vi ảnh hưởng khác nhau. Để phân định rõ đâu là nguyên nhân và đâu là điều kiện của tình hình các tội XPTD là việc hết sức khó khăn, phức tạp. Điều kiện đưa đến tình hình các tội XPTD cũng là các hiện tượng xã hội tiêu cực, nhưng khác với nguyên nhân ở chỗ nó không làm phát sinh ra tội phạm mà nó chỉ tạo ra các hoàn cảnh thuận lợi cho sự hình thành, tồn tại và phát triển của tình hình các tội XPTD. Trong thực tiễn cũng như trong lý luận giữa nguyên 10
  16. nhân và điều kiện của tình trạng tội phạm trong một số trường hợp đối với hiện tượng tội phạm này là nguyên nhân nhưng đối với hiện tượng tội phạm khác nó lại là điều kiện. Ví dụ, do kinh tế - xã hội khó khăn là nguyên nhân dẫn đến thiếu việc làm, nhiều người thất nghiệp, thiếu thốn nên đã phạm tội xâm phạm sở hữu; nhưng trong trường hợp khác kinh tế - xã hội khó khăn nhiều gia đình mải mê làm ăn, không có thời gian trông coi bảo vệ tài sản của mình là điều kiện thuận lợi cho các tội xâm phạm sở hữu xảy ra. Giữa nguyên nhân và điều kiện tình hình tội phạm luôn đi liền với nhau không tách rời nhau, chúng có điểm chung là những hiện tượng tiêu cực trong sự tác động qua lại với nhau làm thúc đẩy, phát sinh tội phạm. Cũng chính vì lý do đó mà chúng ta cần tìm ra được các hiện tượng tiêu cực để đưa ra giải pháp phòng ngừa tội phạm thiết thực với mục đích cuối cùng là đấu tranh loại bỏ tội phạm. 1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục - Việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPTD là cơ sở để xây dựng các biện pháp phòng ngừa các tội XPTD một cách khoa học và hiệu quả. Việc tìm ra quy luật phát sinh, tồn tại, phát triển của tình hình các tội XPTD để chủ động những điều kiện cần thiết là hoạt động tư duy có định hướng chiếm vị trí rất quan trọng trong đấu tranh nhằm kiềm chế, đẩy lùi các tội phạm XPTD trong xã hội. Thực tế đã chỉ ra rằng, không thể áp dụng các biện pháp phòng, chống các tội phạm XPTD khi chúng ta không hiểu được từ đâu mà tội phạm được sinh ra, dưới điều kiện nào mà tội phạm được tồn tại, phát triển trong những giai đoạn nhất định. Đấu tranh phòng, chống các tội XPTD có kết quả chỉ khi sử dụng các biện pháp thủ tiêu cho được những nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Như vậy, hạt nhân của việc nghiên cứu 11
  17. các biện pháp đấu tranh phòng, chống các tội XPTD phải tìm ra được nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPTD. Nếu không nêu được, hoặc nêu không đúng, không chính xác nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPTD thì định hướng cho cuộc đấu tranh này sẽ không đúng, không đạt được hiệu quả. - Nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện cuả tình hình các tội XPTD có ý nghĩa đối với việc hoạch định các chính sách kinh tế, xã hội, đặc biệt các chính sách pháp luật nói chung và các chính sách hình sự nói riêng. Thực tế đã chỉ ra nguồn gốc phát sinh tội phạm không chỉ ở những hiện tượng tiêu cực mà ngay trong quá trình phát triển xã hội của các nước xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình xây dựng, nhà nước xã hội chủ nghĩa chưa thể hoàn thiện, khép kín toàn bộ vấn đề đường lối, chính sách, chủ trương, tổ chức thực hiện mà còn tạo nên sơ hở xảy ra tội phạm. Có những chính sách kinh tế, xã hội nếu đứng từ một góc độ kinh tế hoặc xây dựng thì đem lại một hiệu quả nhất định, nhưng đứng ở góc độ khác thì nó lại tạo ra sơ hở và được coi là nguồn gốc làm phát sinh hoặc tạo điều kiện cho tội phạm tồn tại. Việc chuyển đổi cơ chế quản lý mới của nền kinh tế tác động nhiều đến lĩnh vực khác mà ở các lĩnh vực này làm phát sinh tội phạm. Trong lĩnh vực kinh tế, việc thay đổi cơ chế quản lý, điều hành, sản xuất dẫn đến sự thay đổi nghề nghiệp, mất việc làm. Mức sống thấp lại không có nghề nghiệp, không có việc làm nên những người này có thời gian “nhàn rỗi” lớn, không phải ngẫu nhiên mà cha ông ta có câu “nhàn cư vi bất thiện”, mà để chỉ ra rằng khi không có việc làm tạo điều kiện cho con người tham gia vào hoạt động phạm tội. Số người nghiện ma túy, rượu chè, cờ bạc, mua dâm, bán dâm Điều này đã tác động không nhỏ đến lớp trẻ, làm thay đổi cách suy nghĩ và lối sống, hình thành những nhu cầu lệch chuẩn, dễ dẫn tới việc thực hiện tội phạm, trong đó có các tội phạm XPTD. Vì vậy việc hoạch định các chính sách phát 12
  18. triển kinh tế, xã hội làm sao để tạo công ăn việc làm, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống nhân dân. Hơn nữa, một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tội XPTD là do nạn nhân bị đe dọa trả thù của người phạm tội hoặc không muốn khai báo với cơ quan chức năng do sợ mất danh dự và nhân phẩm nên dẫn đến việc bị XPTD nhiều lần. Là những người bị hành vi phạm tội tác động, gây thiệt hại hơn ai hết nạn nhân của các vụ XPTD có vai trò quan trọng trong việc xác định chủ thể tội phạm cũng như những tình tiết, diễn biến vụ phạm tội, chính vì vậy sự tích cực hợp tác của nạn nhân sẽ giúp cho quá trình điều tra, truy tố và xét xử người phạm tội nhanh chóng, thuận lợi và chính xác. Đa phần các trường hợp bị XPTD chịu nhiều thiệt hại, trước hết là sức khỏe như tổn thương về thể chất, những tổn thương nặng nề tại bộ phận sinh dục bị nhiễm trùng đường tiết niệu, chảy máu kéo dài ở bộ phận sinh dục ), các tổn thương khác như đau bụng, đau đầu, mất ngủ, bị nhiễm các bệnh xã hội, bệnh lây truyền qua đường tình dục; đối với nạn nhân bị xâm hại tình dục là trẻ em thì việc bị xâm hại tình dục có thể khiến các em mang thai ngoài ý muốn gây nguy hiểm cho bản thân và thai nhi vì cơ thể các em chưa phát triển hoàn chỉnh), gây ra nhiều nguyên nhân dẫn đến vô sinh, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ sinh sản và hạnh phúc gia đình của các em về sau. Đối với hậu quả mà nhóm tội phạm XPTD đến nạn nhân trên phương diện về mặt tâm lý thì nhiều người sau khi bị xâm hại tình dục có sự hoảng loạn, xuất hiện các ảo giác bệnh lý luôn có cảm giác bất an, giật mình, tưởng tượng ra hình ảnh kẻ xâm hại hay tiếng nói của kẻ xâm hại, ). Nghiêm trọng hơn, sau khi bị xâm hại tình dục không ít nạn nhân có suy nghĩ tìm đến cái chết do bị sốc về mặt tinh thần. Họ rơi vào trạng thái hoảng sợ và cảm thấy không có lối thoát. Một phần do xấu hổ, một phần khác do bị kẻ lạm dụng đe dọa nên không dám thổ lộ cùng ai. XPTD còn có khả năng gây ra những lệch 13
  19. lạc giới tính cho nạn nhân, nhất là trẻ em. Những ám ảnh về việc bị lạm dụng, đặc biệt là hành vi tình dục đồng giới sẽ khiến các em trở thành những người đồng tính luyến ái. Ngoài ra, hậu quả có thể dẫn đến việc nạn nhân quan hệ tình dục bừa bãi với nhiều người. Đối với một số nạn nhân thì việc lạm dụng làm cho họ trở nên chai sạn và xem chuyện bị lạm dụng là chuyện bình thường. Nhiều nạn nhân vì mặc cảm hoặc có tâm lý không muốn mọi người biết mình bị XPTD vì xấu hổ, tự ti, sợ ảnh hưởng đến uy tín, danh dự ) nên không trình báo cơ quan công an. Ngoài ra, pháp luật cũng chưa đủ mạnh, chưa đủ răn đe những người có hành vi XPTD. Vì vậy việc hoàn thiện các văn bản pháp luật cũng như các chính sách hình sự, chính sách xã hội để tăng cường để bảo vệ và trợ giúp các nạn nhân và gia đình nhằm bảo đảm sự hợp tác tích cực của họ đối với các cơ quan tư pháp hình sự cũng như trợ giúp cho họ có cuộc sống ổn định hơn. 1.2. Phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục Các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm XPTD đa dạng và có những mức tồn tại, thể hiện khác nhau. Việc phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPTD có thể căn cứ vào: - Căn cứ vào nguồn gốc xuất hiện, có thể chia nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPTD thành: + Nguyên nhân và điều kiện bắt nguồn từ môi trường sống là tổng hợp các nhân tố tiêu cực được hình thành từ môi trường sống của cá nhân có thể tác động, ảnh hưởng đến cá nhân ở mức độ nhất định, từ đó làm phát sinh các tội XPTD. Ví dụ như các nhân tố: môi trường gia đình không hoàn thiện, môi trường sống xung quanh có nhiều tệ nạn xã hội, trường học 14
  20. + Nguyên nhân và điều kiện xuất phát từ phía người phạm tội là tổng hợp những nhân tố tiêu cực thuộc về nhân thân người phạm tội có thể tác động, ảnh hưởng đến việc phát sinh các tội XPTD của người phạm tội. Những nhân tố tiêu cực này có thể là dấu hiệu thuộc về sinh học, tâm lý, xã hội – nghề nghiệp của người phạm tội. - Căn cứ vào mức độ tác động của nguyên nhân và điều kiện trong việc làm phát sinh tình hình các tội XPTD, có thể phân chia thành: + Nguyên nhân và điều kiện chủ yếu làm phát sinh tình hình các tội XPTD là những nhân tố đóng vai trò chủ chốt trong việc làm phát sinh các tội XPTD và những nhân tố này chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng số các nhân tố làm phát sinh các tội XPTD. + Nguyên nhân và điều kiện thứ yếu làm phát sinh tình hình các tội XPTD là những nhân tố đóng vai trò hạn chế và chiếm tỷ lệ không đáng kể trong tổng số các nhân tố làm phát sinh các tội XPTD. - Theo bản chất của nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tình hình các tội XPTD có thể chia thành: + Nguyên nhân và điều kiện khách quan: là những hoàn cảnh không phụ thuộc vào ý chí và ý thức của con người phạm tội nhưng lại là cơ sở cho người phạm tội XPTD thực hiện hành vi của mình. + Nguyên nhân và điều kiện chủ quan: là nguyên nhân và điều điện xuất hiện và tác động phụ thuộc vào ý thức của con người phạm tội làm phát sinh hoặc thúc đẩy tình hình tội XPTD. - Căn cứ vào nội dung, các nguyên nhân và điều kiện tình hình tội phạm XPTD được chia thành: + Nguyên nhân và điều kiện kinh tế - xã hội. Đây là những nhân tố thuộc về lĩnh vực kinh tế - xã hội có thể tác động làm phát sinh các tội XPTD như là thất nghiệp, đói nghèo, quá trình đô thị và công nghiệp hóa 15
  21. + Nguyên nhân và điều kiện văn hóa, giáo dục: Đây là những nhân tố hạn chế trong quá trình quản lý, triển khai thực hiện chính sách, chương trình về văn hóa, giáo dục có thể tác động ảnh hưởng làm phát sinh các tội XPTD. Ví dụ như nhà trường chưa quản lý nghiêm giờ giấc của học sinh, nhiều em trốn học đi lêu lổng; hay chưa chú trọng đưa giáo dục giới tính vào trong chương trình, hoặc đề cao giáo dục văn hoác mà chưa chú trọng dạy đạo đức cho các em nó sẽ ảnh hưởng rất nhiều đối với nhân cách và suy nghĩ của một con người. + Nguyên nhân và điều kiện về tổ chức, quản lý. Đây là một thiếu sót, bất cập trong hoạt động của các cơ quan chức năng có thẩm quyền quản lý trong lĩnh vực nhất định. Thuộc về nguyên nhân này có thể là các nhân tố như: buông lỏng quản lý, đùn đẩy trách nhiệm cho nhau, không hợp tác trong giải quyết vụ việc + Nguyên nhân và điều kiện về chính sách, pháp luật: Đây là một số thiếu sót, bất cập của chính sách, pháp luật có thể tác động, ảnh hưởng làm phát sinh các tội XPTD. 1.3. Cơ chế tác động của các nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPTD là sự tương tác giữa các hiện tượng, quá trình hay còn gọi là yếu tố) xã hội tiêu cực làm phát sinh tình hình các tội XPTD. Các yếu tố xã hội tiêu cực này có trong môi trường sống, nhân thân người phạm tội. Chính sự tác động qua lại giữa các yếu tố này là cơ sở cho việc xác định hệ thống các yếu tố làm phát sinh tình hình các tội XPTD. Khi tìm hiểu nguyên nhân, điều kiện của tình hình các tội XPTD phải nghiên cứu cả nguyên nhân, điều kiện bắt nguồn từ xã hội và nguyên nhân, điều kiện xuất phát từ phía người phạm tội, sự tác động từ nguyên nhân, điều 16
  22. kiện từ môi trường sống dẫn đến sự hình thành nhân cách lệch lạc của cá nhân người phạm tội, từ đó phát sinh tội phạm; bên cạnh đó còn có thêm một số tình huống cụ thể bởi một số trường hợp, tình huống đóng vai trò như là nguyên nhân làm phát sinh tội phạm Môi trường sống bao giờ cũng giữ vai trò quy định đối với việc hình thành nhân cách, lối ứng xử của con người và là “bà đỡ” cho các loại hành vi người nảy sinh và tồn tại. Môi trường sống luôn luôn là bộ phận khách quan trong cơ chế tác động nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPTD. Môi trường sống thường được chia thành môi trường gia đình, môi trường nhà trường, môi trường xã hội . Khi sống trong một môi trường không lành mạnh, con người dễ bị tác động dẫn tới việc hình thành nhân cách lệch lạc của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, tùy thuộc vào khả năng lĩnh hội, khả năng nhận thức của từng cá nhân con người mà sự tác động của môi trường sinh sống chung đối với mỗi con người rất khác nhau. Bởi trên thực tế, có nhiều người sống trong một môi trường có nét tương đồng nhau nhưng có người thực hiện hành vi phạm tội và có người không thực hiện hành vi phạm tội. Hoặc là ngay cả giữa những người phạm tội thì mức độ chịu sự tác động của môi trường dẫn đến việc thực hiện các hành vi phạm tội cũng khác nhau. Bởi mỗi cá nhân vẫn có tính độc lập dưới sự ảnh hưởng của môi trường sống, có nghĩa là việc tiếp thu, chịu sự tác động từ môi trường sống đến cá nhân nào lại là do từng cá nhân đó. Bởi vì, mỗi con người là một thực thể của xã hội, mỗi cá nhân sống trong môi trường đó, không phải chỉ thụ động chịu sự tác động một phía từ môi trường mà cá nhân đó đang sống đến bản thân mình, mà cá nhân đó còn có thể chủ động tiếp nhận và tác động trở lại đến môi trường. Do vậy, tuy cùng sống trong môi trường xấu, nhưng có cá nhân dễ dàng chịu sự tác động của môi trường xấu, tiêm nhiễm nhanh chóng những thói hư, tật xấu ngoài xã hội nhưng ngược lại, cũng có cá nhân bản lĩnh vững vàng 17