Luận văn Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Cà Mau
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Cà Mau", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_nguyen_nhan_va_dieu_kien_cua_tinh_hinh_cac_toi_xam.pdf
Nội dung text: Luận văn Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Cà Mau
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI QUÁCH CHÍ HẢI NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH CÀ MAU LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI QUÁCH CHÍ HẢI NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH CÀ MAU Chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm Mã số: 60.38.01.05 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HỒ SỸ SƠN HÀ NỘI - 2017
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH CÀ MAU 7 1.1. Khái niệm, ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Cà Mau 7 1.2. Phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Cà Mau 12 1.3. Cơ chế tác động của các nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Cà Mau 14 1.4. Mối liên hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt với tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt, với nhân thân người phạm tội các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt và với phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Cà Mau 17 Chương 2: THỰC TRẠNG NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH CÀ MAU 22 2.1. Thực trạng nhận thức về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Cà Mau 22 2.2. Thực trạng nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Cà Mau 23 2.3. Thực trạng làm sáng tỏ các nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Cà Mau của các chủ thể phòng, chống tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt ở nước ta hiện nay 51 Chương 3: NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH CÀ
- MAU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI NÀY 54 3.1. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Cà Mau và vấn đề tăng cường nhận thức về chúng . 54 3.2. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Cà Mau và vấn đề dự báo tình hình tội này 57 3.3. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Cà Mau và các biện pháp giải quyết 59 KẾT LUẬN 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 77 PHỤ LỤC
- DANH MỤC CÁC CHỬ VIẾT TẮT - ANTT : An ninh trật tự - BCA : Bộ Công an - BLHS : Bộ luật hình sự - CAND : Công an nhân dân - CQĐT : Cơ quan điều tra - CSĐT : Cảnh sát điều tra - CTCĐ : Có tính chiếm đoạt - GS : Giáo sư - HĐND : Hội đồng nhân dân - HSSV : Học sinh sinh viên - HVPT : Hành vi phạm tội - NXB : Nhà xuất bản - TAND : Tòa án nhân dân - TNXH : Tệ nạn xã hội - TS : Tiến sĩ - TTHS : Tố tụng hình sự - TTXH : Trật tự xã hội - UBND : Ủy ban nhân dân - VKSND : Viện kiểm sát nhân dân - XPSH : Xâm phạm sở hữu.
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cà Mau là tỉnh ven biển ở tận cùng cực nam của Việt Nam, nằm trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Cà Mau có 3 mặt giáp biển, phía Đông giáp với Biển Đông, phía Tây và phía Nam giáp với vịnh Thái Lan, phía Bắc giáp với 2 tỉnh Bạc Liêu và Kiên Giang. Tỉnh Cà Mau có diện tích tự nhiên 5.294,9 km2, dân số năm 2013 là 1.219.900 người, mật độ dân số trung bình 230 người/km2, cơ cấu lãnh thổ được chia thành 8 huyện 1 thành phố, trong đó thành phố Cà Mau là đô thị loại 2. Cà Mau là một vùng đất trẻ, trong những năm gần đây Cà Mau có những bước phát triển vươt bậc, kinh tế liên tục tăng trưởng có mức khá, năm 2015 tăng trưởng kinh tế đạt 7,46%, thu nhập bình quân đầu người năm 2015 đạt 1.600USD, tốc độ đô thị hóa nhanh, tình hình dân cư đến làm ăn sinh sống chiếm tỷ lệ cao. Đây không những có điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội mà còn có vị trí địa chính trị rất quan trọng trong quốc phòng và an ninh. Bên cạnh những thuận lợi về phát triển kinh tế cũng đã nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp về an ninh trật tự. Tội phạm và tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng, diễn biến ngày càng phức tạp và manh động, xu thế hình thành các băng nhóm tội phạm có tổ chức, hoạt động theo kiểu xã hội đen, có sự cấu kết chặt chẻ giữa các đối tượng trong và ngoài tỉnh, các băng nhóm hoạt động có yếu tố nước ngoài đang là vấn đề nổi lên và nhức nhối. Phương thức thủ đoạn hoạt động phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Mặc dù có sự vào cuộc sâu rộng và mạnh mẽ của các cấp chính quyền, sự tham gia của nhiều cơ quan, tổ chức và đông đảo quần chúng nhân dân, hệ thống các cơ quan chuyên trách về phòng, chống tội phạm trên địa bàn nhưng những năm qua tội phạm vẫn có xu hướng tăng và phức tạp, đặc biệt là các tội về xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt. Qua khảo sát từ năm 2011 đến năm 2015 trên địa bàn tỉnh Cà Mau xảy ra 3.994 vụ án - 5.623 đối tượng, trong đó các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt là 2.034 vụ (chiếm 51%) – 2.542 đối tượng (chiếm 45%). Tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt đã gây ra nhiều hệ lụy cho xã hội, hậu 1
- quả ngày càng nghiêm trọng về tính chất vụ việc cũng như hậu quả mang lại cho nạn nhân, làm mất an ninh trật tự, làm hoang mang bức xúc trong dân, gây ảnh hưởng đến cuộc sống an toàn của người dân, làm suy giảm lòng tin của người dân vào tính nghiêm minh của pháp luật. Trước yêu cầu đảm bảo an ninh, trật tự tạo nền tảng ổn định kinh tế, chính trị, xã hội; Sự gia tăng liên tục của tội phạm về số lượng và tính chất nghiêm trọng; Sự thiếu hiệu quả của các biện pháp phòng ngừa và sự tham gia của người dân còn mang tính hình thức, cần phải có một nghiên cứu cơ bản, đầy đủ, toàn diện và chuyên sâu theo chuyên ngành tội phạm học về nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt. Từ đó xây dựng một hệ thống các biện pháp phòng ngừa tình hình nói trên trên địa bàn tỉnh Cà Mau. Với cách nhìn nhận như vậy và đặc biệt là góp phần nhằm giảm thiểu, kiểm soát, tiến tới đẩy lùi các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Cà Mau, đề tài “ Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Cà Mau” đã được lựa chọn để nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Để có cơ sở lý luận cho việc thực hiện đề tài Luận văn, các công trình khoa học sau đây đã được tham khảo: -“Tội phạm học, Luật Hình sự, Luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, năm 1994; - “Tội phạm học Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Viện Nhà nước và Pháp luật, Nxb Công an nhân dân, năm 2000; - “Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt Nam” của PGS.TS Phạm Văn Tỉnh, Nxb Công an nhân dân, năm 2007; - Giáo trình “Tội phạm học” của GS.TS Võ Khánh Vinh, Nxb Công an nhân dân, tái bản năm 2011, 2013; - “Luật hình sự Việt Nam (phần chung và phần các tội phạm), giáo trình sau đại học” của GS.TS Võ Khánh Vinh, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội; 2
- Các công trình trên là không thể thiếu cho việc thực hiện đề tài Luận văn. Bởi vì trong đó không chỉ chứa đựng những lý luận cơ bản của các vấn đề về tội phạm học mà đề tài Luận văn phải giải quyết, mà còn giúp xác định phương pháp luận nghiên cứu đề tài, đặt biệt là vấn đề về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Cà Mau. Ở mức độ cụ thể và liên quan trực tiếp đến đề tài luận văn, vấn đề phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt của các công trình khoa học sau đây cũng đã được tham khảo: - Nguyễn Thị Diệu Hiền (2014), Các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh Tiền Giang, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện khoa học xã hội; - Phạm Thị Triều Mến (2016), Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Bình Dương, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện khoa học xã hội; - Nguyễn Văn Phên (2016), Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Tiền Giang, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện khoa học xã hội; - Nguyễn Kiến Thức (2015), Các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện khoa học xã hội; Các đề tài, công trình nghiên cứu trên đã góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận cũng như tình hình, nguyên nhân, điều kiện và những giải pháp để phòng ngừa ngăn chặn các tội xâm phạm sở hữu ở tỉnh Tiền Giang, Bình Dương và Sóc Trăng, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Cà Mau. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực trạng nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Cà Mau, luận văn đề xuất các biện pháp phòng ngừa tình hình các tội này. 3
- 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu, đề tài cần trung giải quyết những nhiệm vụ sau: Một là, phân tích những vấn đề lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm. Hai là, phân tích thực trạng nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Cà Mau từ năm 2011 đến năm 2015. Dự báo tình hình các tội xâm phậm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Cà Mau trong thời gian tới. Ba là, đề xuất hoàn thiện pháp luật và các biện pháp phòng ngừa tình hình các tội nói trên. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Cà Mau. Luận văn lấy các quan điểm khoa học được nêu trong tội phạm học, thực tiễn nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội nói trên trên địa bàn tỉnh Cà Mau để nghiên cứu các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về chuyên ngành, đề tài luận văn được nghiên cứu dưới góc độ chuyên ngành tội phạm học và phòng ngừa tội phạm. - Về tội danh, đề tài đề cập đến tình hình của các tội được quy định từ Điều 133 đến Điều 142 của Bộ luật hình sự hiện hành. - Về không gian, đề tài sử dụng số liệu thực tế trên địa bàn tỉnh Cà Mau, bao gồm các số liệu thống kê của các cơ quan tiến hành tố tụng cấp tỉnh, đặc biệt là của Tòa án nhân dân và 100 bản án hình sự sơ thẩm xét xử các tội phạm có liên quan đến xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Cà Mau. - Về thời gian, đề tài nghiên cứu giới hạn trong khoảng thời gian 5 năm, từ năm 2011 đến năm 2015. 4
- 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống các quan điểm của Đảng và nhà nước về phòng ngừa tội phạm. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành việc nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: - Phương pháp thống kê; - Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh; - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm; - Phương pháp phỏng vấn chuyên gia; - Phương pháp điều tra xã hội học; - Phương pháp lựa chọn điển hình. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn nghiên cứu hệ thống lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, áp dụng lý luận đó để khảo sát về thực tiễn nguyên nhân và điều kiện của tình hình nhóm tội phạm cụ thể trên một địa bàn thực tế. Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, về sự áp dụng lý luận vào thực tế, là tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy và nghiên cứu sau này. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng trong công tác phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt nói riêng và phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung trên địa bàn tỉnh Cà Mau, cũng như có giá trị tham khảo cho các địa bàn tương tự khác. 5
- 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được cơ cấu thành ba chương gồm: Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Cà Mau. Chương 2: Thực trạng nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Cà Mau. Chương 3: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Cà Mau và những vấn đề đặt ra đối với phòng ngừa tình hình các tội này. 6
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH CÀ MAU 1.1. Khái niệm, ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Cà Mau 1.1.1. Khái niệm nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Cà Mau Thông thường, nguyên nhân được hiểu là hiện tượng A mà tác động của nó gây nên, làm biến đổi hay kéo theo sau nó hiện tượng khác – hiện tượng B. Trong trường hợp này A được gọi là nguyên nhân, còn B được gọi là kết quả. Có thể coi đây là mức độ hiểu biết ban đầu về mối liên hệ nhân quả. Nếu tìm hiểu sâu hơn về nguyên nhân thực sự của B ta thấy không phải bản thân hiện tượng A, mà chính là sự tác động của nó, hay chính xác hơn, sự tác động qua lại của nó với các hiện tượng C, D, E nào đó mới chính là cái dẫn đến sự xuất hiện hiện tượng B. Chẳng hạn không phải dòng điện là nguyên nhân làm bóng đèn phát sáng, mà chính là sự tương tác của dòng điện với dây dẫn (trong trường hợp này, với dây tóc bóng đèn) mới thực sự là nguyên nhân làm cho bóng đèn phát sáng. Vậy chính tương tác mới thật sự là nguyên nhân của các sự biến. Nếu tương tác là nguyên nhân cuối cùng thật sự của sự vật, thì rõ ràng là trong bất cứ trường hợp nào, suy đến cùng, nguyên nhân bao giờ cũng là tương tác giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây nên những biến đổi nhất định; còn kết quả là sự biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau. [41, tr.247] Tư tưởng hệ thống đã nêu cần được giải mã để áp dụng vào trường hợp cụ thể của đề tài, tức là tìm ra nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCĐ ở địa bàn tỉnh Cà Mau. Triết học Mác-xít quan niệm cho rằng, nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động qua lại giữa các mặt trong một sự vật, một hiện tượng 7
- hoặc giữa các sự vật, các hiện tượng với nhau gây ra sự biến đổi nhất định gọi là kết quả. Không có sự tác động qua lại thì không có nguyên nhân. Và để nguyên nhân sinh ra kết quả nhất định nào đó như tình hình tội phạm chẳng hạn, thì quá trình tương tác phải diễn ra thông qua ý thức của con người và trong điều kiện nhất định. Như vậy kết quả do nguyên nhân gây ra phụ thuộc vào những điều kiện nhất định. Điều kiện tuy không sinh ra kết quả, song tạo thuận lợi, hỗ trợ thúc đẩy sự tương tác sinh ra kết quả. Về bản chất điều kiện là những sự kiện, hiện tượng, tình huống, hoàn cảnh nhất định. Đối với nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, những điều vừa trình bày trên đây cũng không phải là ngoại lệ. Bởi vậy không thể không đồng ý đối với quan điểm cho rằng: “Nguyên nhân của tình hình tội phạm là những hiện tượng xã hội tiêu cực ở trong mối liên hệ tương tác hai mức độ sinh ra và tái sản xuất ra tình hình tội phạm như là hậu quả tất yếu của mình. Điều kiện của tình hình tội phạm là những hiện tượng xã hội tiêu cực, tự mình không sinh ra tình hình tội phạm và các tội phạm, mà là hỗ trợ, làm dễ dàng và tăng cường cho sự hình thành và hoạt động của các nguyên nhân” [41, tr.88]. Với tính cách là những hiện tượng xã hội tiêu cực, nguyên nhân và điều kiện xuất hiện trong xã hội, tồn tại trong xã hội, có nguồn gốc và bản chất mang tính xã hội; chúng bao giờ cũng nằm trong hệ thống các mâu thuẫn xã hội trong tất cả mọi mặt, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Các hiện tượng tiêu cực này luôn tương tác qua lại với nhau sinh ra tình hình tội phạm. Đến lượt mình tình hình tội phạm cũng là một hiện tượng xã hội tiêu cực tham gia vào quá trình tương tác qua lại đó nên tái sản xuất ra tình hình tội phạm như là một kết quả tất yếu. “Bởi một hiện tượng nào đó trong mối liên hệ này là nguyên nhân thì trong mối liên hệ khác là kết quả, và ngược lại” [41, tr.256]. Điều kiện của tình hình tội phạm cũng giống như nguyên nhân đó là hiện tượng xã hội tiêu cực, tuy nhiên điều kiện của tình hình tội phạm không sinh ra tình hình mà nó chỉ là chất xúc tác có tác dụng hỗ trợ, thúc đẩy tình hình tội phạm. Ví dụ, đó là những khiếm khuyết, thiếu sót trong hoạt động kinh tế, cơ chế quản lý cụ thể 8
- Từ những điều khái quát trên, có thể hiểu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCĐ là sự tương tác giữa hiện tượng, quá trình xã hội tiêu cực mà ở hai cấp độ làm phát sinh tình hình các tội XPSH CTCĐ. Giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCĐ có những phạm vi ảnh hưởng khác nhau. Trong thực tế việc phân định rõ đâu là nguyên nhân đâu là điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCĐ là việc khó khăn và phức tạp. Điều kiện đưa đến tình hình các tội XPSH CTCĐ cũng là các hiện tượng xã hội tiêu cực, nhưng khác với nguyên nhân ở chổ nó không làm phát sinh ra tội phạm mà nó chỉ tạo ra các hoàn cảnh thuận lợi cho sự hình thành, tồn tại và phát triển của tình hình các tội XPSH CTCĐ. Trong thực tiễn cũng như trong lý luận giữa nguyên nhân và điều kiện của tình trạng tội phạm trong một số trường hợp đối với hiện tượng tội phạm này là nguyên nhân nhưng đối với hiện tượng tội phạm khác nó lại là điều kiện. Ví dụ: do kinh tế - xã hội khó khăn là nguyên nhân dẫn đến thiếu việc làm, nhiều người có nghề nghiệp không ổn định dẫn đến những hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác một cách trái pháp luật để thỏa mản nhu cầu của cá nhân; Nhưng trong trường hợp khác, kinh tế - xã hội khó khăn, nhiều gia đình phải chăm lo làm ăn, tất bật trong công việc, mong muốn có thêm tài sản nên đã tạo điều kiện thuận lợi cho các tội XPSH CTCĐ xảy ra. Tội phạm, như mọi hành vi khác của con người, suy cho cùng là kết quả của sự tác động lẫn nhau của cá nhân và hoàn cảnh khách quan bên ngoài. Trong sự tác động đó, quyết định thực hiện tội phạm được thông qua và được thể hiện trong thực tế. Do vậy, một mặt các nguyên nhân trực tiếp của việc thực hiện tội phạm cụ thể thể hiện các đặc điểm về nhu cầu, lợi ích, quan điểm, quan hệ, hệ thống các định hướng và tính động cơ của cá nhân đó, mặt khác thể hiện ở tổng thể các hoàn cảnh bên ngoài quyết định sự hình thành động cơ và sự quyết tâm thực hiện tội phạm. Ở đó, các nguyên nhân tác động lẫn nhau với các điều kiện và sự tác động đó hỗ trợ cho việc xuất hiện và thực hiện quyết định đó. Tóm lại từ những điều phân tích khái quát trên đây có thể kết luận rằng, nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCĐ là hai phạm trù khác 9
- nhau, giữ vai trò khác nhau trong việc sinh ra kết quả là tình hình các tội XPSH CTCĐ. Thế nhưng trong lĩnh vực xã hội nói chung và tội phạm học nói riêng, sự phân biệt đâu là nguyên nhân, đâu là điều kiện chỉ mang tính chất tương đối. Hơn nữa, thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm lại luôn đòi hỏi phải loại trừ cả hai, tức là phải loại trừ cả những gì thuộc về nguyên nhân và loại trừ cả những gì thuộc về điều kiện phát sinh tình hình các tội XPSH CTCĐ. 1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Cà Mau Việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCĐ là cơ sở để xây dựng các biện pháp phòng ngừa các tội XPSH CTCĐ một cách khoa học và hiệu quả. Việc tìm ra quy luật phát sinh, tồn tại, phát triển của tình hình các tội XPSH CTCĐ để chủ động những điều kiện cần thiết là hoạt động tư duy có định hướng chiếm vị trí rất quan trọng trong đấu tranh nhằm kiềm chế, đẩy lùi các tội XPSH CTCĐ trong xã hội. Thực tế chỉ ra rằng, không thể áp dụng biện pháp phòng, chống các tội XPSH CTCĐ khi chúng ta chưa hiểu được từ đâu mà tội phạm sinh ra, dưới điều kiện nào mà tồn tại, phát triển trong những giai đoạn nhất định. Đấu tranh phòng chống các tội XPSH CTCĐ chỉ có thể đạt hiệu quả thật sự khi đảm bảo thủ tiêu được những nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCĐ. Nếu không xác định được hoặc xác định chưa sát hợp về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCĐ thì định hướng cho cuộc đấu tranh này cũng sẽ không đúng, việc giải quyết những hiện tượng tiêu cực nói chung và tình hình các tội XPSH CTCĐ nói riêng sẽ không đạt được hiệu quả. Nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCĐ có ý nghĩa quan trọng đối với việc hoạch định các chính sách kinh tế, xã hội trước mắt và lâu dài. Trong đó cần phải khẳng định ý nghĩa quan trọng của vấn đề này đối với việc hoạch định các chính sách pháp luật nói chung và chính sách hình sự nói riêng. 10
- Thực tế đã chỉ ra nguồn gốc phát sinh tội phạm không chỉ ở những hiện tượng tiêu cực mà ngay trong quá trình phát triển xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình xây dựng, nhà nước xã hội chủ nghĩa chưa thể hoàn thiện toàn bộ các vấn đề về đường lối, chính sách, chủ trương, tổ chức thực hiện, mà trong đó còn nhiều hạn chế, bất cập tạo sơ hở để xảy ra tội phạm. Có những chính sách kinh tế xã hội nếu đứng ở góc độ này thì mang tính tích cực và đem lại hiệu quả nhất định, nhưng xét ở một góc độ khác thì nó lại tạo ra sơ hở và được coi là nguồn làm phát sinh hoặc tạo điều kiện cho tội phạm tồn tại. Việc chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là chủ trương đúng đắng tích cực đã thúc đẩy nền kinh tế đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế. Tuy nhiên, chuyển đổi cơ chế quản lý mới của nền kinh tế tác động đến nhiều lĩnh vực khác và từ đó làm phát sinh tội phạm. Cụ thể, việc thay đổi cơ chế quản lý kinh tế, điều hành, sản xuất, quy mô chuyên sâu dẫn đến sự thay đổi nghề nghiệp, mất việc làm, nhiều người không có nghề nghiệp ổn định, thu nhập thấp nhưng nhu cầu đáp ứng cho cuộc sống ngày càng cao và đó cũng chính là nguồn căn làm phát sinh tình hình các tội XPSH CTCĐ. Tệ nạn cờ bạc, ma túy, mại dâm, rượu bia ngày càng gia tăng phức tạp theo chiều hướng đi song cùng quá trình hội nhập và phát triển kinh tế. Tệ nạn xã hội là sân sau tạo nguồn làm phát sinh tình hình các tội XPSH CTCĐ. Điều này đã tác động không nhỏ đến nhận thức của người dân, làm thay đổi cách nghĩ và lối sống, hình thành những nhu cầu lệch chuẩn, thiếu kiềm chế, xem thường các giá trị đạo đức và nhân cách, từ đó dễ dẫn đến việc thực hiện tội phạm, trong đó có các tội phạm XPSH CTCĐ. Vì vậy, việc hoạch định các chính sách phát triển kinh tế, xã hội phải nhằm mục tiêu tạo công ăn việc làm, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Hơn nữa một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tội XPSH CTCĐ là do nhận thức pháp luật của người dân về vấn đề này, một phần là không tin tưởng vào pháp luật, khả năng của cơ quan chuyên trách, sợ bị ảnh hưởng, trả thù từ đó 11
- làm cho người phạm tội xem thường các biện pháp phòng ngừa và răn đe, xem thường các chuẩn mực xã hội rồi dẫn đến việc thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật. Vì vậy việc hoàn thiện các văn bản pháp luật cũng như các chính sách hình sự, chính sách xã hội để tăng cường bảo vệ, trợ giúp nạn nhân của tội phạm và gia đình của họ nhằm đảm bảo sự hợp tác tích cực của họ với các cơ quan tư pháp hình sự cũng như trợ giúp cho họ an tâm ổn định cuộc sống. Tội phạm học với tư cách là một khoa học chuyên nghiên cứu về tội phạm và người phạm tội cùng với những nguyên nhân và điều kiện của nó để đề ra biện pháp phòng ngừa, cho nên vấn đề nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCĐ để đề ra các biện pháp phòng ngừa, vì thế vấn đề này được nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện sẽ mang lại nhiều ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tế. 1.2. Phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Cà Mau Các tội XPSH CTCĐ phát sinh không phải do một nguyên nhân và điều kiện gây ra mà là kết quả tác động của nhiều nguyên nhân và điều kiện khác nhau. Do đó để nhận thức chúng về mặt khoa học và về mặt thực tiễn cần phải phân loại chúng. Trong tội phạm học, có các cách phân loại sau: - Căn cứ vào mức độ tác động của nguyên nhân và điều kiện trong việc làm phát sinh tình hình các tội XPSH CTCĐ, có thể phân thành: + Nguyên nhân và điều kiện chủ yếu làm phát sinh tình hình các tội XPSH CTCĐ là những nhân tố đóng vai trò chủ chốt trong việc làm phát sinh các tội XPSH CTCĐ và những nhân tố này chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng số các nhân tố làm phát sinh các tội XPSH CTCĐ. + Nguyên nhân và điều kiện thứ yếu làm phát sinh tình hình các tội XPSH CTCĐ là những nhân tố chỉ đóng vai trò hạn chế và chiếm tỷ lệ không đáng kể trong tổng số các nhân tố làm phát sinh các tội XPSH CTCĐ. - Căn cứ vào nguồn gốc xuất hiện, có thể chia làm nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCĐ thành nguyên nhân và điều kiện bắt nguồn từ 12
- môi trường sống với nguyên nhân và điều kiện xuất phát từ phía người phạm tội. Cụ thể: + Nguyên nhân và điều kiện bắt nguồn từ môi trường sống là tổng hợp các hiện tượng và quá trình xã hội tiêu cực hình thành tồn tại trong môi trường sống của cá nhân có thể tác động, ảnh hưởng đến cá nhân ở mức độ nhất định từ đó làm phát sinh các tội XPSH CTCĐ. Ví dụ như các hành vi lệch chuẩn trong: môi trường gia đình có cấu trúc không hoàn hảo, nhiều tệ nạn xã hội trong các tiểu môi trường xã hội v.v + Nguyên nhân và điều kiện xuất phát từ phía người phạm tội là tổng hợp những đặc điểm, dấu hiệu tiêu cực thuộc về nhân thân người phạm tội có thể tác động, ảnh hưởng đến việc phát sinh các tội XPSH CTCĐ của người phạm tội. Đó có thể là dấu hiệu thuộc về sinh học, tâm lý, xã hội – nghề nghiệp của người phạm tội. - Căn cứ vào lĩnh vực hình thành nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCĐ, có thể phân thành: + Nguyên nhân và điều kiện về kinh tế - xã hội. Đây là những hiện tượng, quá trình tiêu cực thuộc về lĩnh vực kinh tế - xã hội có thể tác động làm phát sinh các tội XPSH CTCĐ như trình độ phát triển kinh tế kém, chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, không có nghề nghiệp ổn định, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, nhu cầu cuộc sống ngày càng cao + Nguyên nhân và điều kiện về văn hóa, giáo dục. Đây là hiện tượng, quá trình xã hội tiêu cực trong quá trình quản lý, triển khai thực hiện các chính sách, chương trình về văn hóa, giáo dục có thể tác động ảnh hưởng làm phát sinh các tội XPSH CTCĐ. Ví dụ như nhân tố trình độ học vấn hạn chế tác động đến nhận thức pháp luật và ý thức tôn trọng tài sản từ đó làm tác động phát sinh những nhận thức lệch chuẩn, hành vi lệch chuẩn và làm phát sinh tình hình tội phạm. + Nguyên nhân và điều kiện về tổ chức, quản lý. Đây là những hiện tượng, quá trình tiêu cực như thiếu sót, bất cập trong hoạt động của các cơ quan chức năng có thẩm quyền quản lý trong lĩnh vực nhất định. Thuộc về các nguyên nhân này có 13
- thể là các hiện tượng như: hiệu quả công tác quản lý, đùng đẩy trách nhiệm cho nhau, ý thức tinh thần trách nhiệm trong việc hợp tác giải quyết vụ việc + Nguyên nhân và điều kiện thuộc về chính sách, pháp luật. Đây là một số thiếu sót, bất cập của chính sách, pháp luật có thể tác động, ảnh hưởng làm phát sinh tình hình các tội XPSH CTCĐ. 1.3. Cơ chế tác động của các nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Cà Mau Như trên đã phân tích, nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCĐ là sự tương tác giữa hiện tượng, quá trình xã hội tiêu cực làm phát sinh tình hình các tội XPSH CTCĐ. Những hiện tượng, quá trình này có trong môi trường sống, nhân thân người phạm tội và trong cả nạn nhân của tội phạm (tình huống phạm tội). Chính sự tác động qua lại giữa những hiện tượng và quá trình xã hội tiêu cực đó là cơ sở cho việc xác định hệ thống các nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCĐ. Và sự tác động đó được mô tả theo cơ chế như sau: Những hiện tượng, quá trình xã hội tiêu cực thuộc môi trường sống tác động hình nảy Cá nhân Nhân cách lệch lạc thành c ủ a cá nhân sinh Ý đ ị nh ph ạ m t ộ i tác động đưa đến qua lại Tình hu ố ng đưa đến Thực hiện tội c ụ th ể phạm 14
- Từ sơ đồ trên đây có thể thấy cơ chế tác động của nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCĐ bao gồm 2 cơ chế (giai đoạn): Thứ nhất, cơ chế hình thành đặc điểm nhân cách tiêu cực ở cá nhân bị tác động, ảnh hưởng bởi những hiện tượng, quá trình xã hội tiêu cực tác động lẫn nhau và tác động với cá nhân đó. Trong tội phạm học, cá nhân này được gọi là con người có “tiềm năng” phạm pháp hoặc phạm tội; cá nhân xấu về nhân cách, “cá nhân có đặc điểm nhân cách lệch chuẩn”. Thứ hai, cơ chế của hành vi phạm tội bao gồm ba khâu cơ bản: - Quá trình hình thành tính động cơ của tội phạm: bao gồm các nhu cầu cá nhân, các ý định, dự định, kế hoạch và lợi ích đó trong sự tác động lẫn nhau với hệ thống các định hướng giá trị của cá nhân sinh ra các động cơ của hành vi phạm tội. - Việc kế hoạch hóa các hoạt động phạm tội: là sự cụ thể hóa tính động cơ vào kế hoạch thực hiện hành vi phạm tội. Ở đây chủ thể xác định mục đích của mình, cũng như các biện pháp, địa điểm thời gian thực hiện tội phạm và có các quyết định thích ứng. - Việc trực tiếp thực hiện tội phạm: Trong cơ chế của hành vi phạm tội, sự biến dạng trong quan điểm của cá nhân được hình thành do những ảnh hưởng của những nhân tố tiêu cực trong môi trường của hoạt động sống [41, tr. 111-117]. Tình hình các tội XPSH CTCĐ là hiện tượng có tính chất cá nhân và xã hội. Do đó khi tìm hiểu về nguyên nhân, điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCĐ phải nghiên cứu cả nguyên nhân, điều kiện bắt nguồn từ phía xã hội và nguyên nhân, điều kiện xuất phát từ phía người phạm tội, sự tác động từ nguyên nhân, điều kiện từ môi trường sống dẫn đến sự hình thành nhân cách lệch lạc của cá nhân người phạm tội, từ đó phát sinh tội phạm; bên cạnh đó cần tìm hiểu cả tình huống cụ thể bởi vì trong một số trường hợp, tình huống đóng vai trò như là nguyên nhân làm phát sinh tội phạm. Ví dụ chủ tài sản bỏ quên chìa khóa trên khóa xe, tài sản để hớ hên mà không ai trông coi Môi trường sống của mỗi cá nhân có ảnh hưởng rất lớn đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người. Đặc biệt, khi sống trong một môi trường 15