Luận văn Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Bình Phước
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Bình Phước", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_nguyen_nhan_va_dieu_kien_cua_tinh_hinh_cac_toi_xam.pdf
Nội dung text: Luận văn Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Bình Phước
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ VĂN TÙNG NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƢỚC LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2017
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ VĂN TÙNG NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƢỚC Chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm Mã số: 60.38.01.05 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN THỊ PHƢƠNG HOA HÀ NỘI - 2017
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT 8 1.1. Khái niệm, ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt 8 1.2. Phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt 11 1.3. Cơ chế tác động của nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt 22 1.4. Mối quan hệ nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt với tình hình tội phạm, nhân thân người phạm tội và phòng ngừa tội phạm 24 Chƣơng 2 THỰC TRẠNG NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƢỚC 29 2.1. Thực trạng nhận thức về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Bình Phước giai đoạn 2011-2015 29 2.2. Thực trạng các nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Bình Phước giai đoạn 2011-2015 thông qua phân tích tình hình tội phạm. 34 2.3. Thực trạng làm sáng tỏ các nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Bình Phước thông qua các chủ thể phòng, chống tội phạm 49
- Chƣơng 3 NGUYÊN NHÂN, ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƢỚC VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG PHÒNG NGỪA 53 3.1. Tăng cường nhận thức về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt 53 3.2. Dự báo tình hình các tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên cơ sở nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt 56 3.3. Phòng ngừa các tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên cơ sở nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt 59 KẾT LUẬN 74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 76 PHỤ LỤC
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ANND An ninh nhân dân UBND Uỷ ban nhân dân XPSH CTCCĐ Xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
- DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1:Mức độ tổng quan của tình hình tội phạm và tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Bình Phước (2011-2015) Bảng 2.2: Cơ số tội phạm và cơ số các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Bình Phước (2011-2015) Bảng 2.3: Tình hình các tội xâm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Bình Phước (2011-2015) phân theo hành vi phạm tội Bảng 2.4: Diễn biến tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Bình Phước giai đoạn 2011-2015 (so sánh định gốc) Bảng 2.5: Cơ cấu về mức độ của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Bình Phước (2011-2015) phân theo số dân của 10 đơn vị hành chính cấp huyện Bảng 2.6: Cơ cấu về mức độ của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Bình Phước (2011-2015) phân theo diện tích 10 đơn vị hành chính cấp huyện Bảng 2.7: Cấp độ nguy hiểm của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Bình Phước (2011-2015) xét theo dân số và diện tích của các đơn vị hành chính cấp huyện Bảng 2.8: Cơ cấu xét theo các bước thực hiện hành vi phạm tội Bảng 2.9: Cơ cấu xét theo công cụ gây án Bảng 2.10: Cơ cấu xét theo thời gian gây án Bảng 2.11: Cơ cấu xét theo địa điểm thực hiện hành vi phạm tội Bảng 2.12: Cơ cấu xét theo phương tiện gây án Bảng 2.13: Cơ cấu xét theo thiệt hại do tội phạm gây ra Bảng 2.14: Cơ cấu xét theo chế tài đã áp dụng Bảng 2.15: Cơ cấu xét theo độ tuổi của bị cáo Bảng 2.16: Cơ cấu xét theo giới tính của bị cáo Bảng 2.17: Cơ cấu xét theo dân tộc của bị cáo Bảng 2.18: Cơ cấu xét theo nơi ở
- Bảng 2.19: Cơ cấu theo trình độ văn hóa của bị cáo Bảng 2.20: Cơ cấu xét theo nghề nghiệp của bị cáo Bảng 2.21: Cơ cấu xét theo tôn giáo, tín ngưỡng Bảng 2.22: Cơ cấu xét theo hoàn cảnh gia đình Bảng 2.23: Cơ cấu xét theo tình trạng hôn nhân Bảng 2.24: Cơ cấu xét theo đặc điểm tiền sự Bảng 2.25: Cơ cấu xét theo đặc điểm tái phạm, tái phạm nguy hiểm
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bình Phước là một tỉnh thuộc miền Đông Nam bộ, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có 260,433km đường biên giới giáp với vương quốc Campuchia. Tỉnh là cửa ngõ, cầu nối của vùng Đông Nam bộ với Tây Nguyên và Campuchia. Cụ thể, phía Đông giáp tỉnh Lâm Đồng và Đồng Nai; phía Tây giáp tỉnh Tây Ninh và Campuchia; phía Nam giáp tỉnh Bình Dương; phía Bắc giáp tỉnh Đắk Lắk và Campuchia. Tỉnh có diện tích 6.871,5 km², dân số 944.529 người, mật độ dân số đạt 137 người/km², gồm 40 dân tộc khác nhau (đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 17,9%) sinh sống trên địa bàn 111 xã, phường, thị trấn (92 xã, 14 phường và 5 thị trấn) thuộc 8 huyện, 3 thị xã. Tỉnh hiện có 18 khu công nghiệp (diện tích hơn 5.211 ha), tập trung chủ yếu ở huyện Chơn Thành, Hớn Quản, Đồng Phú, thị xã Đồng Xoài và một khu kinh tế cửa khẩu quốc tế Hoa Lư (huyện Lộc Ninh) với tổng diện tích hơn 28.300ha. Nhờ vị trí thuận lợi nên Bình Phước đã trở thành một tỉnh có nền kinh tế phát triển trong khu vực Đông Nam Bộ. Những năm qua, kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển mạnh mẽ, đời sống của nhân dân được nâng lên mọi mặt. Tuy vậy, bên cạnh những thành tựu đã đạt được là chủ yếu, trong thời gian qua, tỉnh Bình Phước vẫn có mặt tiêu cực, đặc biệt là tình hình tội phạm, trong đó có các tội XPSH CTCCĐ. Và nhóm tội này, thời gian qua vẫn diễn biến ngày càng phức tạp, chiếm tỷ lệ 39,59% về số vụ và 32,76% số bị cáo trong tình hình tội phạm ở Bình Phước. Theo báo cáo thống kê xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước từ năm 2011 đến năm 2015, tình hình các tội XPSH CTCCĐ trên địa bàn tỉnh Bình Phước diễn ra theo xu hướng tăng và tăng liên tục, năm 2015 có số bị cáo nhiều hơn năm 2011 là 31,11%, mặc dù Đảng ủy và Chính quyền tỉnh Bình Phước luôn luôn quán triệt sâu sắc các chủ trương, đường lối của Trung Ương trong công tác phòng, chống tội phạm, đã đề ra Chương trình hành động cụ thể về phòng, chống tội phạm trên địa bàn tỉnh và đã được các ban ngành, đoàn thể và quần chúng nhân dân hưởng ứng thực hiện rất tích cực. 1
- Để đấu tranh có hiệu quả hơn với tình hình các tội XPSH CTCCĐ trên địa bàn tỉnh, cần nhận thức một cách sâu sắc các dấu hiệu pháp lý hình sự, đặc điểm tội phạm học của nó, tìm ra nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, những bất cập, những khiếm khuyết trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện và có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về nguyên nhân, điều kiện các tội XPSH CTCCĐ trên địa bản tỉnh Bình Phước trong thời gian qua, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp đấu tranh phòng, chống, dự báo các loại tội phạm này. Vì vậy, việc chọn đề tài “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Bình Phước” để nghiên cứu, mang tính cấp thiết và phù hợp với yêu cầu của tình hình hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2.1. Các công trình nghiên cứu về lý luận chung của tội phạm học Để có cơ sở lý luận cho việc thực hiện đề tài Luận văn, các công trình khoa học sau đây đã được nghiên cứu: - “Tội phạm học, Luật Hình sự, Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia, năm 1994; - “Tội phạm học Việt Nam-Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Viện Nhà nước và Pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, năm 2000; - “Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt Nam”của PGS.TS. Phạm Văn Tỉnh, Nxb. Công an nhân dân, năm 2007; - Giáo trình “Tội phạm học” của GS.TS. Võ Khánh Vinh, Nxb. Công an nhân dân, tái bản năm 2011, 2013; - “Đấu tranh với tình hình tội phạm chống người thi hành công vụ ở nước ta hiện nay, một mô hình nghiên cứu tội phạm học chuyên ngành” của Phạm Văn Tỉnh, Đào Bá Sơn, Nxb. Công an nhân dân, năm 2010; - Giáo trình “Tội phạm học” của trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, tái bản năm 2004, 2012; 2
- - “Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt Nam”của Nguyễn Văn Cảnh và Phạm Văn Tỉnh, do Học viện Cảnh sát nhân dân, Bộ Công an ấn hành năm 2013. - Các bài viết về nguyên nhân và điều kiện của tội phạm, về nhân thân người phạm tội, về phòng ngừa tội phạm được đăng tải trên các tạp chí như: Nhà nước và Pháp luật; Cảnh sát nhân dân; Kiểm sát; Tòa án nhân dân; Công an nhân dân; Nghiên cứu lập pháp trong những năm gần đây. Các công trình đã nêu không thể thiếu được cho việc thực hiện đề tài Luận văn. Bởi vì trong đó không chỉ chứa đựng lý luận cơ bản của tội phạm học về các vấn đề mà đề tài Luận văn phải giải quyết, mà còn đưa ra những chỉ dẫn cho việc xác định phương pháp luận nghiên cứu đề tài, đặc biệt là vấn đề nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCCĐ đoạt trên địa bàn tỉnh Bình Phước. 2.2. Tình hình nghiên cứu cụ thể Ở mức độ cụ thể và liên quan trực tiếp đến đề tài luận văn, các công trình khoa học sau đây cũng đã được tham khảo: - Huỳnh Văn Em (2007),“Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu trên các tuyến giao thông đường thủy nội địa ở địa bàn thành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn Thạc sỹ luật học, Đại học Cảnh sát nhân dân; - Trần Điện Ảnh (2014), “Các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn tỉnh Bình Định: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa”, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện khoa học xã hội; - Huỳnh Tấn Đạt (2014),“Các tội xâm phạm sở hữu do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa”, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện khoa học xã hội; - Nguyễn Thị Diệu Hiền (2014),“Các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh Tiền Giang: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa”, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện khoa học xã hội; 3
- - Trần Thị Hồng Lê (2014),“Các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh Bình Phước: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa”, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện khoa học xã hội; - Nguyễn Kiến Thức (2015),“Các tội xâm phạm sở hữu trên địa tỉnh Sóc Trăng: Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa”, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện khoa học xã hội. - Nguyễn Văn Phên (2015), “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh Tiền Giang”, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện khoa học xã hội. Ngoài ra còn có một số công trình, bài viết đăng trên các tạp chí đề cập đến vấn đề nghiên cứu. Các đề tài, công trình nghiên cứu nêu trên với góc độ tiếp cận và mục tiêu khác nhau đều đã có những đóng góp hoàn thiện lý luận và đề ra các giải pháp thực tiễn. Các công trình trên rất có giá trị để Luận văn có thể kế thừa thông tin, số liệu đối chứng, ý tưởng nghiên cứu mà vẫn không bị trùng lặp vì có sự khác nhau về các yếu tố như: cách tiếp cận về vấn đề nghiên cứu; thời gian nghiên cứu; địa bàn nghiên cứu; chất liệu nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Phòng ngừa tội phạm là mục đích nghiên cứu của tội phạm học. Đề tài Luận văn này cũng hướng tới mục đích như vậy, nhưng bằng cách nghiên cứu chuyên sâu về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCCĐ trên địa bàn tỉnh Bình Phước từ năm 2011 đến năm 2015 để tạo tiền đề đưa ra các giải pháp phòng, chống hữu hiệu, góp phần nâng cao nhận thức pháp luật của nhân dân trong công tác đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm này và phòng ngừa tội phạm có hiệu quả. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, đề tài thấy cần tập trung thực hiện những nhiệm vụ sau: Một là, nghiên cứu lý luận và pháp luật. Nhiệm vụ này bao gồm những hoạt động cụ thể như: Tìm, thu thập và nghiên cứu những tài liệu về tội phạm học, về 4
- pháp luật hình sự và những tài liệu khác liên quan đến đề tài luận văn làm cơ sở cho việc nhận thức thống nhất, rõ ràng phương pháp luận nghiên cứu và sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể cho phù hợp; Hai là, nghiên cứu thực tế, bao gồm ba hoạt động sau: Tìm, thu thập, phân tích, xử lý, so sánh những số liệu thống kê thường xuyên của một số cơ quan tư pháp, đặc biệt là số liệu thống kê xét xử sơ thẩm hình sự từ năm 2011 đến năm 2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước về các tội XPSH CTCCĐ; Tìm, thu thập các bản án xét xử sơ thẩm hình sự về các tội XPSH CTCCĐ trên địa bàn tỉnh Bình Phước trong khoảng thời gian từ năm 2011 đến năm 2015 và xử lý, phân tích, so sánh theo các tiêu thức Tội phạm học cần thiết; Tìm, thu thập và nghiên cứu các báo cáo tổng kết năm của cơ quan Công an, Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân tỉnh Bình Phước; Ba là, nghiên cứu sáng tạo, bao gồm các việc cụ thể sau: Khái quát hóa những vấn đề lý luận chung về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCCĐ; Áp dụng lý luận chung đó vào việc làm rõ thực trạng nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCCĐ trên địa bàn tỉnh Bình Phước giai đoạn 2011-2015; Kiến nghị hoàn thiện giải pháp phòng ngừa các tội XPSH CTCCĐ trên địa bàn tỉnh Bình Phước trên cơ sở thực trạng đã được xác định về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCCĐ trên địa bàn tỉnh. 4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Quy luật của sự phạm tội là đối tượng nghiên cứu của tội phạm học, thì bản thân tên đề tài này, tức là “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Bình Phước” đã nói về vấn đề đó và đó là sự tương tác giữa những hiện tượng, những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường sống ở tỉnh Bình Phước và những đặc điểm tiêu cực của các chủ thể (Nhân thân người phạm tội) mà trong những hoàn cảnh, tình huống nhất định đã thực hiện những hành vi phạm các tội XPSH CTCCĐ trên địa bàn tỉnh Bình Phước. 5
- 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung, đề tài được nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học thuộc chuyên ngành Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm; Về tội danh, đề tài phải đề cập đến đời sống thực tế của các tội được quy định từ Điều 133 đến Điều 140 của Bộ luật hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009) và cập nhật từ Điều 168 đến Điều 175 Bộ luật hình sự 2015; Về không gian, đề tài sử dụng số liệu thực tế trên địa bàn tỉnh Bình Phước, bao gồm số liệu thống kê của các cơ quan tư pháp hình sự cấp tỉnh, đặc biệt là của Tòa án nhân dân và 200 bản án hình sự sơ thẩm; Về thời gian, đề tài nghiên cứu được giới hạn trong thời gian từ 2011 đến năm 2015. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về pháp luật, về tội phạm học, về đấu tranh phòng, chống các tội XPSH CTCCĐ. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể là: phương pháp điều tra xã hội học; phương pháp tổng kết thực tiễn; phương pháp biện chứng; phương pháp lô-gic; phương pháp nghiên cứu hồ sơ; phương pháp phân tích; tổng hợp; thống kê; so sánh; kế thừa; hệ thống; diễn giải; quy nạp và phương pháp nghiên cứu các bản án của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước về các tội XPSH CTCCĐ từ năm 2011 đến năm 2015. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ hơn lý luận tội phạm học về nguyên nhân và điều kiện của tội phạm nói chung và của các tội XPSH CTCCĐ trên địa bàn tình Bình Phước nói riêng. 6
- 6.2.Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể giúp cá nhân, cơ quan, tổ chức tham khảo để vận dụng vào việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho quần chúng nhân dân về nguyên nhân và điều kiện của tội phạm và vận dụng trong công tác điều tra, truy tố, xét xử, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa các tội XPSH CTCCĐ trên địa bàn tỉnh Bình Phước. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, Luận văn có kết cấu 03 chương, cụ thể như sau: Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. Chƣơng 2: Thực trạng nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Bình Phước. Chƣơng 3: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Bình Phước và những vấn đề đặt ra đối với hoạt động phòng ngừa. 7
- Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT 1.1. Khái niệm, ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt 1.1.1. Khái niệm nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt Khi tìm hiểu nguyên nhân và điều kiện của tội phạm nói chung, của từng nhóm tội phạm và tội phạm cụ thể nói riêng, Tội phạm học đã nghiên cứu nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm. Muốn ngăn chặn, loại trừ tội phạm xảy ra thì trước hết phải làm sáng tỏ được lý do vì đâu mà tội phạm phát sinh, tồn tại, vận động trong đời sống xã hội. Do đó, các nhà tội phạm học đã nghiên cứu nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm để tìm ra những nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tình hình tội phạm nói chung và các tội XPSH CTCCĐ nói riêng, trước hết cần làm sáng tỏ về mặt lý luận các khái niệm “nguyên nhân” và “điều kiện”. Theo từ điển tiếng Việt, thuật ngữ “nguyên nhân” được định nghĩa là: “ Điều gây ra một kết quả hoặc làm xảy ra một việc, một hiện tượng” [42,tr. 1217] Theo triết học Mác – xít, nguyên nhân là một phạm trù chỉ sự tác động qua lại giữa các mặt trong các sự vật hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau gây ra sự đột biến nhất định gọi là kết quả. Điều kiện, tuy không sản sinh ra kết quả, song tạo thuận lợi, hổ trợ, thúc đẩy sự tương tác sinh ra kết quả. Như vậy về bản chất, nguyên nhân chỉ có thể là sự tác động qua lại, sinh ra kết quả nhất định nào đó, thì quá trình tương tác diễn ra trong một điều kiện nhất định. Còn điều kiện là những sự kiện, hiện tượng, tình huống, hoàn cảnh nhất định. Sự giống nhau giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm là những hiện tượng tiêu cực trong một xã hội cụ thể, chứa đựng nội dung phản ánh sự vận động của xã hội. Đó là quan điểm, hệ thống chính sách pháp luật của Nhà nước, của xã hội; những truyền thống đạo đức, phong tục, tập quán, thói quen của đại đa 8
- số nhân dân lao động trong xã hội, nguyện vọng chung của giai cấp thống trị xã hội, Những đặc điểm xã hội này chứa đựng tính tiêu cực vốn có tiềm tàng trong những con người đang sống trong một hoàn cảnh xã hội cụ thể từ đó trở thành nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm là hai vấn đề khác nhau còn thể hiện ở chỗ: Chỉ có nguyên nhân mới trực tiếp làm phát sinh hiện tượng tội phạm, do đó nguyên nhân của tình hình tội phạm là hệ thống những tiêu cực xã hội trực tiếp làm phát sinh hiện tượng tội phạm trong một xã hội cụ thể. Điều kiện sẽ tạo ra những hoàn cảnh thuận lợi cho sự phát sinh và tồn tại của tình hình tội phạm, do đó, điều kiện của tình hình tội phạm là những tình huống xã hội tạo ra hoàn cảnh thuận lợi hoặc thúc đẩy cho sự phát sinh và tồn tại của tình hình tội phạm. Theo GS.TS. Võ Khánh Vinh khẳng định rằng, “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm được hiểu là hệ thống các hiện tượng xã hội tiêu cực trong hình thái kinh tế - xã hội tương ứng quyết định sự ra đời của tình hình tội phạm như là hậu quả của mình” và “Các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm tạo thành một hệ thống gồm nhiều bộ phận cấu thành nó”.[38,tr. 87-88] GS.TS. Võ Khánh Vinh gọi là ba khâu cơ bản: “Quá trình hình thành tính động cơ của tội phạm; Việc kế hoạch hóa các hoạt động phạm tội và việc trực tiếp thực hiện tội phạm”.[38, tr. 114] Với cách nhìn nhận như vậy, kết luận được rút ra là: Nguyên nhân của tình hình tội phạm phải là sự tác động qua lại giữa các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường sống và các yếu tố tâm - sinh lý - xã hội tiêu cực thuộc cá nhân con người trong những hoàn cảnh, tình huống nhất định đã dẫn tới việc thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội mà pháp luật hình sự đã quy định là tội phạm. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm là hai phạm trù khác nhau, giữ vai trò khác nhau trong việc sinh ra kết quả - tình hình tội phạm. Như vậy, có thể hiểu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCCĐ là sự tác động qua lại giữa các yếu tố tiêu cực của môi trường sống bên ngoài với các yếu tố tâm – sinh lý tiêu cực bên trong cá nhân con người mà trong 9
- những tình huống, hoàn cảnh nhất định đã dẫn đến việc thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Luật hình sự quy định là các tội XPSH CTCCĐ. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCCĐ là hai phạm trù khác nhau, giữ vai trò khác nhau trong việc sinh ra kết quả là tình hình các tội XPSH CTCCĐ, sự phân biệt đâu là nguyên nhân, đâu là điều kiện chỉ mang tính chất tương đối. Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm lại luôn đòi hỏi loại trừ cả hai, tức là loại trừ cả những yếu tố thuộc về nguyên nhân, điều kiện phát sinh tình hình các tội XPSH CTCCĐ. 1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt Nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCCĐ để đề ra biện pháp phòng ngừa, vì vậy, cần nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện sẽ mang lại nhiều ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. - Ý nghĩa lý luận của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt Nghiên cứu làm rõ nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCCĐ đoạt góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận của chính nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm. Thông qua việc nghiên cứu tổng quát về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCCĐ nói chung và nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCCĐ trên địa bàn Bình Phước nói riêng góp phần làm rõ thực trạng, cơ cấu, diễn biến của tình hình các tội XPSH CTCCĐ và dự đoán xu hướng của nó trong thời gian tới. Nghiên cứu làm rõ nguyên nhân, điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCCĐ còn nhằm làm rõ, phát hiện các sơ hở thiếu sót trên các lĩnh vực với Nhà nước là chủ thể quản lý để kịp thời khắc phục bổ sung, chỉnh lý nhằm ngăn chặn các tội XPSH CTCCĐ và đưa ra các giải pháp phòng ngừa tội phạm. Nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCCĐ còn góp phần cung cấp những thông tin hữu ích cho các ngành khoa học pháp lý khác sử dụng làm tài liệu để tiếp tục đi sâu nghiên cứu, xem xét đối tượng của 10
- mình, đồng thời là cơ sở áp dụng các phương pháp, biện pháp trong thực tế phòng, chống tội phạm. - Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt Nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCCĐ còn góp phần cung cấp những thông tin hữu ích cho khoa học quản lý, giáo dục người phạm tội và những phương pháp phân loại người phạm tội để nghiên cứu những hình thức, phương pháp quản lý, giáo dục người phạm tội, lập dự án phát triển trại giam, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng Trong hoạt động phòng ngừa tội phạm XPSH CTCCĐ, những kết quả nghiên cứu về nguyên nhân, điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCCĐ sẽ cho chúng ta cơ sở áp dụng các biện pháp phòng ngừa thích hợp đối với từng lĩnh vực, địa bàn, đối với từng loại người nhất định được tiến hành trên cơ sở nghiên cứu nguyên nhân, điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCCĐ nói chung. Nghiên cứu làm rõ nguyên nhân, điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCCĐ để các chủ thể trong hoạt động phòng ngừa tội phạm tiến hành soạn thảo, đề xuất các phương pháp, giải pháp nhằm tác động làm mất đi nguyên nhân, điều kiện của các tội XPSH CTCCĐ. 1.2. Phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt Hiện nay có nhiều cách tiếp cận khác nhau để xây dựng hệ thống nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm, vì đây là vấn đề rất đa dạng và luôn biến động theo sự vận động của thực tiễn. Do đó, khi nghiên cứu vấn đề này phải luôn luôn bám sát các sự kiện của đời sống xã hội. Dựa vào các căn cứ khác nhau có thể chia nguyên nhân, điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCCĐ khác nhau như sau: 1.2.1. Nguyên nhân và điều kiện khách quan Nguyên nhân và điều kiện khách quan tồn tại trước khi đối tượng có động cơ tư tưởng phạm tội. Những nguyên nhân, điều kiện này tác động lên đối tượng trong một khoảng thời gian dài khi người đó tham gia vào một môi trường hoạt 11
- động và giao tiếp không thuận lợi dẫn đến việc hình thành những nhu cầu lợi ích không phù hợp với các chuẩn mực xã hội, để thỏa mãn nhu cầu, lợi ích thì đối tượng thường phạm pháp mà người đó dự định sẽ làm khi có điều kiện thích hợp. Tuy nhiên, các yếu tố tác động từ bên ngoài không được xem là nguyên nhân của các tội XPSH CTCCĐ mà chỉ là điều kiện bởi vì không phải ai rơi vào môi trường không thuận lợi cũng đều phạm tội. Vì vậy, nguyên nhân, điều kiện khách quan được thể hiện các yếu tố sau đây: a. Những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường gia đình Gia đình có vai trò quyết định nhân cách gốc của con người cho nên con người trở thành người tốt hay trở thành tội phạm có nguyên nhân từ gia đình. Một đứa trẻ khi sống trong một gia đình chuẩn mực, cha mẹ và người lớn tuổi quan tâm, giáo dục tốt, hướng trẻ có lối sống và tư duy lành mạnh thì sẽ hạn chế việc hình thành các đặc điểm nhân cách lệnh lạc cá nhân. Ngược lại, đứa trẻ đó sống trong gia đình không chuẩn mực thì có tác động xấu đến sự hình thành nhân cách lệch lạc cá nhân. Do đó, để phòng ngừa cũng như đấu tranh chống tội phạm XPSH CTCCĐ, gia đình có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành và hoàn thiện nhân cách ở trẻ em. Môi trường gia đình của người phạm tội XPSH CTCCĐ nổi lên một số vấn đề sau đây: Do thiếu sự quan tâm, giáo dục của gia đình, nhiều bậc cha mẹ và những người thân trong gia đình thiếu sự quan tâm lo biết kiếm tiền mà quên mất việc dành thời gian để giáo dục, quan tâm con cái không tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của con em mình, cứ nghĩ có tiền là lo được vật chất cho con mà quên đi sự nuôi dưỡng tình cảm và quan tâm trẻ, nuông chiều con cái. Cha, mẹ không thống nhất trong việc nuôi dạy con, còn bao che cho những vi phạm dù là nhỏ. Từ đó đã không kịp thời uốn nắn, nhắc nhở, cha mẹ dung túng cổ vũ cho hành vi sai trái của con em, cảm thấy buồn chán, chây lười học tập, chỉ thích tụ tập bạn bè chơi bời, quậy phá, mất định hướng trong cuộc sống, sớm nhiễm những thói hư tật xấu, tệ nạn xã hội và bước vào con đường phạm tội. 12
- Do không định hướng đúng đắn về việc làm hoặc không tạo điều kiện tốt để con em có việc làm ổn định. Nếu như con em trong gia đình bỏ học hoặc gia đình không có điều kiện cho học tiếp thì gia đình nên cho đi học nghề hoặc tạo việc làm ổn định thì sẽ ít có cơ hội để tụ tập bạn bè và tham gia vào các cuộc nhậu nhẹt, ăn chơi từ đó phạm các tội XPSH CTCCĐ. Do sự ảnh hưởng bởi các thói hư tật xấu của những người trong gia đình. Người phạm các tội XPSH CTCCĐ chịu ảnh hưởng nhiều của những hành vi xấu, đặc biệt là những hành vi sử dụng bạo lực, xem trọng giá trị vật chất, không gương mẫu về đạo đức, vi phạm pháp luật. Các hành vi tiêu cực này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành nhân cách của con người. Gia đình chưa có phương pháp giáo dục hợp lý, không bắt buộc con cái làm những nghĩa vụ nhất định phù hợp với khả năng của chúng, dẫn đến ỷ lại, lười lao động, đua đòi, ham chơi, không biết quý trọng đồng tiền, coi thường bố mẹ và những người thân khác. Khi gia đình không đáp ứng, quay lại chống đối, hỗn láo, tìm mọi cách lấy tiền trong gia đình để tiêu xài. Từ đó dẫn đến thích ham chơi, đùa đòi, bỏ học, đi lang thang, bạn bè xấu rủ rê, bị tội phạm lôi kéo vào con đường phạm tội dẫn đến phạm các tội XPSH CTCCĐ. Gia đình thiếu hoàn thiện như cha mẹ ly hôn, mất cha hoặc mất mẹ, mất cả cha lẫn mẹ cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hình thành nhân cách con người. Thiếu sự quan tâm, chăm sóc, vật chất, tinh thần, giáo dục từ cha mẹ. Từ đó gặp điều kiện bất lợi trong cuộc sống dễ phạm tội, hoặc dễ bị người khác lợi dụng, kéo vào con đường phạm tội. b. Những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường nhà trường Nhà trường không chỉ là nơi đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, nâng cao kiến thức tự nhiên và xã hội mà còn trau dồi hệ thống các quan điểm, nhân sinh quan, phương pháp nhìn nhận đánh giá sự vật, hiện tượng. Nếu trong môi trường trường học tồn tại nhiều nhân tố không lành mạnh thì những nhân tố này cũng có thể ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách lệch lạc của cá nhân. Những nhân tố không lành mạnh đó có thể kể đến như: 13
- Một số ít giáo viên, cán bộ trong nhà trường thiếu sự quan tâm đến học sinh, vì lý do kinh tế phải chạy theo thành tích giảng dạy, không quan tâm đến chất lượng giảng dạy, không gương mẫu trong lối sống, thiếu đạo đức trong hành xử với học sinh, sinh viên, thậm chí còn dùng bạo lực đánh đập. Từ đó, các em chán nản, lười biếng học tập, bỏ học, trốn học đi chơi. Kỷ luật nhà trường không nghiêm, lỏng lẻo, việc xử lý những biểu hiện sai trái trong học sinh, sinh viên còn chưa triệt để dẫn đến những hiện tượng tiêu cực trong nhà trường có nguy cơ lan rộng. Điều này có thể ảnh hưởng, dẫn đến việc suy giảm, thậm chí mất niềm tin vào sự công bằng trong nhà trường, nhiều hiện tượng tiêu cực trong nhà trường tồn tại như: mua điểm, chạy điểm Từ đó làm cho một số em chán nản, sa sút học hành, dễ bị lôi kéo tham gia vào các hoạt động tiêu cực, không lành mạnh. Nhà trường chưa quan tâm đến những học sinh là cá biệt, nhà trường thường hay buông lỏng, không có sự quan tâm sâu sắc đến các học sinh này. Giáo dục của nhà trường mới dừng lại mức độ chung cho tất cả học sinh mà chưa đi sâu đi sát đặc điểm từng học sinh cá biệt để hiểu rõ nguyên nhân và tìm biện pháp tác động phù hợp. Vì vậy nhiều học sinh yếu kém về học tập, đạo đức ngày càng sa sút hơn, chán nản hơn, bỏ học chơi bời lêu lỏng, bị bạn bè xấu rủ rê lôi kéo đi vào con đường phạm các tội XPSH CTCCĐ. Một số nhà trường mới chỉ làm được chức năng là nơi cung cấp tri thức cho học sinh. Nhà trường ít quan tâm trong việc hướng nghiệp, đào tạo nghề còn thiếu cơ sở vật chất, kỹ thuật. Chính sự quá tải trong học tập đó đã khiến cho nhiều học sinh học yếu hay trung bình dễ bi quan, chán nản, chây lười học tập, kết quả học tập sút kém dẫn đến bỏ bê học tập hoặc bỏ học Việc bỏ học dẫn đến tình trạng học sinh có trình độ văn hóa thấp lại tạo xuất phát điểm cho những hành vi phạm pháp trong đó có việc phạm các tội XPSH CTCCĐ. c. Những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường nhóm (bạn bè, nơi làm việc) Môi trường bạn bè, nơi làm việc, ít nhiều cũng chứa đựng một số yếu tố tiêu cực trong công tác, lối sống, giao tiếp, ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách con 14