Luận văn Nguyên nhân và điều kiện của các tội giết người trên địa bàn tỉnh Kiên Giang
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Nguyên nhân và điều kiện của các tội giết người trên địa bàn tỉnh Kiên Giang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_nguyen_nhan_va_dieu_kien_cua_cac_toi_giet_nguoi_tre.pdf
Nội dung text: Luận văn Nguyên nhân và điều kiện của các tội giết người trên địa bàn tỉnh Kiên Giang
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HUỲNH VĨNH KHANH NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA CÁC TỘI GIẾT NGƢỜI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH KIÊN GIANG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2017
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HUỲNH VĨNH KHANH NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA CÁC TỘI GIẾT NGƢỜI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH KIÊN GIANG Chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm Mã số: 60 38 01 05 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC TS. ĐẶNG QUANG PHƢƠNG Hà Nội – 2017
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào. NGƢỜI CAM ĐOAN Huỳnh Vĩnh Khanh
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI GIẾT NGƢỜI 7 1.1. Khái niệm, ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết người 7 1.2. Phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết người 11 1.3. Cơ chế tác động của các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết người 12 1.4. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết người với các khái niệm khác có liên quan 14 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI GIẾT NGƢỜI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH KIÊN GIANG 18 2.1. Thực trạng nhận thức về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết người trên địa bàn tỉnh Kiên Giang 18 2.2. Thực trạng nguyên nhân và điều kiện cụ thể của tình hình tội giết người trên địa bàn tỉnh Kiên Giang 25 Chƣơng 3: NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN TÌNH HÌNH TỘI GIẾT NGƢỜI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÒNG NGỪA TỘI GIẾT NGƢỜI 55 3.1. Tăng cường nhận thức về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết người trong phòng ngừa tội giết người 55 3.2 .Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết người với dự báo tình hình tội giết người 56 3.3. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết người và các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội giết người 59 KẾT LUẬN 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81 PHỤ LỤC
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự XHCN : Xã hội chủ nghĩa TAND : Tòa án nhân dân VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền sống là quyền cơ bản và quan trọng nhất của con người. Bảo đảm quyền con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Khi quyền sống của con người bị xâm hại thì mục tiêu phấn đấu của xã hội sẽ không còn, động lực phát triển xã hội sẽ bị triệt tiêu. Mặt khác, con người còn là nhân tố quan trọng nhất trong lịch sử phát triển nhân loại, trong toàn bộ các nhân tố hợp thành xã hội, con người luôn có vị trí trung tâm; mặt khác trong hệ thống thúc đẩy lịch sử xã hội phát triển, con người là động lực cơ bản, quan trọng nhất và đóng vai trò quyết định. Vì lẽ đó, pháp luật quốc tế và pháp luật các quốc gia đều ghi nhận và bảo vệ quyền sống của con người. Ở Việt Nam, từ khi Hiến pháp năm 1946 được ban hành đến nay, quyền sống luôn được ghi nhận là quyền thiêng liêng cao cả, cơ bản và quan trọng nhất của con người. Theo pháp luật Việt Nam, những hành vi xâm hại đến quyền sống của con người luôn bị coi là tội ác cần phải trừng trị nghiêm khắc nhất và phải bị loại bỏ. Kiên Giang là một tỉnh ven biển thuộc đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam Việt Nam, trung tâm là thành phố Rạch Giá, cách thành phố Hồ Chí Minh 250 km về phía Tây. Phía Bắc giáp Campuchia, phía Nam giáp tỉnh Bạc Liêu và tỉnh Cà Mau, phía Tây giáp vịnh Thái Lan với đường bờ biển dài 200 km, phía Đông lần lượt tiếp giáp với các tỉnh là An Giang, Cần Thơ và Hậu Giang. Ngoài ra Kiên Giang có hơn 100 đảo lớn nhỏ ngoài biển. Sau 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cùng với sự đổi mới và đi lên chung của đất nước, hiện nay tỉnh Kiên Giang đã có nhiều nỗ lực phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững quốc phòng – an ninh, tạo nên những chuyển biến quan trọng đánh dấu bước phát triển rõ nét trong tiến trình lịch sử lâu dài của địa phương, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, tình hình an ninh xã hội được đảm bảo. Tuy nhiên, đi đôi với phát triển thì nền kinh tế này cũng nảy sinh và tồn tại những mặt trái của nó, có ảnh hưởng tiêu cực làm nảy sinh nhiều vấn đề trong đó có các 1
- vấn đề về dân số, việc làm, các tệ nạn xã hội, tình hình tội phạm nói chung trong đó có tội giết người. Có thể nói rằng trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, trong những năm gần đây tình trạng sử dụng bạo lực ngày một gia tăng, trong đó có nhiều vụ án giết người xảy ra một cách tàn ác, dã man, hành vi giết người chủ yếu do mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Tội phạm giết người diễn ra với tính chất côn đồ, hung hãn, trắng trợn, xem thường tính mạng con người không những gây nên đau thương tang tóc trong gia đình nạn nhân mà còn gây mất trật tự trị an ở địa phương, gây tâm lý hoang hoang, lo lắng, phẫn nộ trong quần chúng nhân dân, thiệt hại về tính mạng, tài sản, tổn hại về giá trị đạo đức truyền thống, ảnh hưởng đến các quan hệ xã hội và các quan hệ kinh tế có liên quan. Nhiều vụ án, hung thủ đã sử dụng dụng cụ, phương tiện, cách thức cực kỳ dã man, tàn độc, nguy hiểm gây ra cái chết cho nhiều người một cách đau thương. Trong công cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm nói chung và tội giết người nói riêng, chính quyền địa phương tỉnh Kiên Giang đã có nhiều giải pháp hữu ích và đạt được những kết quả nhất định. Nhiều vụ án được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh. Thậm chí có những vụ án được tội phạm che giấu xảo quyệt nhưng cũng bị phát hiện và đưa ra ánh sáng để xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Theo thống kê của VKSND tỉnh Kiên Giang từ năm 2011 đến 2015 trên địa bàn tỉnh Kiên Giang đã xét xử 202 vụ/285 bị cáo về tội giết người. Trong những năm qua các cấp, các ngành mà nòng cốt là lực lượng Công an Kiên Giang đã có nhiều nỗ lực cố gắng trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm; tỉ lệ điều tra khám phá các vụ án giết người hằng năm luôn đạt 100%; các bị cáo phạm tội giết người đều phải chịu sự trừng phạt thích đáng của pháp luật. Tuy nhiên số vụ án về tội giết người hằng năm vẫn còn ở mức cao. Do vậy, việc tăng cường các biện pháp phòng ngừa làm giảm các vụ án giết người là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội giết người nói riêng. 2
- Để góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và các tội giết người nói riêng, trong đó có việc đưa ra một số biện pháp nâng cao hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, Học viên lựa chọn đề tài: “Nguyên nhân và điều kiện của các tội giết người trên địa bàn tỉnh Kiên Giang” làm luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong thời gian vừa qua, vấn đề đấu tranh phòng, chống tội giết người đã được đề cập đến trong nhiều công trình khoa học, các bài viết, tạp chí, bài nghiên cứu như: - Luận án Tiến sĩ Luật học với đề tài: “Tội giết người trong luật hình sự Việt Nam và đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này” của tác giả Đỗ Đức Hồng Hà, Trường Đại học luật Hà Nội, năm 2006. - Luận văn Thạc sĩ Luật học với đề tài: “Đấu tranh phòng, chống tội phạm giết người theo điều 93 Bộ luật hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Hoàng Tuấn, Trường Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh, năm 2008. - Luận văn Thạc sĩ Luật học với đề tài: “Đấu tranh phòng, chống tội giết người trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa” của tác giả Lê Thúy Phượng, Trường Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh, năm 2009. - Luận văn Thạc sĩ Luật học với đề tài: “Đấu tranh phòng, chống tội giết người trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Tô Mạnh Hà, Học viện khoa học xã hội, năm 2013. - Luận văn Thạc sĩ Luật học với đề tài: “Tội giết người trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa” của tác giả Đoàn Lê Hải Lý, Học viện khoa học xã hội, năm 2014. - Luận văn Thạc sĩ Luật học với đề tài: “Tội giết người trên địa bàn tỉnh Bình Dương: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa” của tác giả Nguyễn Nghĩa Đại, Học viện khoa học xã hội, năm 2014. Các công trính nghiên cứu trên đã góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về tội giết người, lịch sử lập pháp hình sự về tội giết người, dấu hiệu 3
- pháp lý cấu thành và đường lối xử lý đối với tội giết người theo quy định của pháp luật hiện hành đồng thời làm rõ nhiều nội dung liên quan đến công tác đấu tranh phòng, chống tội giết người như: tình hình tội giết người; nguyên nhân, điều kiện của tội giết người; giải pháp phòng, chống tội giết người; Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu đề tài “Nguyên nhân và điều kiện của tội giết người trên địa bàn tỉnh Kiên Giang” trong thời gian gần đây. Vì vậy, để làm Luận văn tốt nghiệp Cao học Luật, tôi chọn đề tài “Nguyên nhân và điều kiện của các tội giết người trên địa bàn tỉnh Kiên Giang” nhằm nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống những vấn đề lý luận, thực tiễn về nguyên nhân và điều kiện của tội giết người trên địa bàn tỉnh Kiên Giang thời gian vừa qua; đồng thời đưa ra các giải pháp phòng, chống tội giết người nói riêng và trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn làm rõ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết người trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, từ đó đưa ra những giải pháp cơ bản góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội giết người trên địa bàn tỉnh Kiên Giang trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: - Khái quát hóa những vấn đề lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết người; - Áp dụng lý luận chung đó vào việc làm rõ thực trạng nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết người trên địa bàn tỉnh Kiên Giang giai đoạn 2011 – 2015; - Kiến nghị đề xuất hoàn thiện các giải pháp phòng ngừa tội giết người trên địa bàn tỉnh Kiên Giang trên cơ sở làm rõ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết người trên địa bàn tỉnh. 4
- 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu Nghiên cứu lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết người, nghiên cứu kết quả xét xử của tội giết người; nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết người trên địa bàn tỉnh Kiên Giang từ năm 2011 đến năm 2015. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu dưới góc độ Tội phạm học. Tên đề tài của luận văn “Nguyên nhân và điều kiện của các tội giết người trên địa bàn tỉnh Kiên Giang”. Liên quan đến “giết người” có các tội phạm: Giết người (Điều 93), Giết con mới đẻ (Điều 94), Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 95), Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 96). Dưới góc độ Luật hình sự các tội phạm này khác nhau về cấu thành. Dưới góc độ Tội phạm học thì nguyên nhân và điều kiện của tình hình mỗi tội vẫn có nhiều điểm khác nhau; Do đó với cấp độ Luận văn thạc sĩ luật học, yêu cầu của Luận văn thạc sĩ luật học; Học viên chỉ nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình “tội giết người” (Điều 93 BLHS năm 1999). Đây là tội phạm nguy hiểm nhất và chiếm tỉ lệ cao nhất trong cả nước nói chung, tại tỉnh Kiên Giang nói riêng trong các tội giết người. Với phạm vi nghiên cứu như vậy, do đó về phạm vi không gian và thờigian nghiên cứu của luận văn là 202 bản án các vụ án giết người trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống các quan điểm của Đảng và Nhà nước về phòng ngừa tội phạm. Để hoàn thành việc nghiên cứu luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp thống kê; phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh; phương pháp tổng kết kinh nghiệm; phương pháp khảo sát; để thực hiện các nhiệm vụ của luận văn. 5
- 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn làm sáng tỏ các vấn đề lý luận của tội phạm học đối với nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết người, áp dụng lý luận đó để khảo sát về thực tiễn tình hình tội giết người trên địa bàn thực tế. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên trong các trường Đại học, Học viện chuyên ngành về Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng trong công tác phòng ngừa tội giết người trên địa bàn tỉnh Kiên Giang cũng như có giá trị tham khảo cho các địa bàn khác. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết người. Chương 2: Thực trạng nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết người trên địa bàn tỉnh Kiên Giang. Chương 3: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết người và những vấn đề đặt ra đối với phòng ngừa tội giết người. 6
- Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI GIẾT NGƢỜI 1.1. Khái niệm, ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết ngƣời 1.1.1. Khái niệm nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết người Khi nghiên cứu tội phạm chúng ta phải nghiên cứu và lý giải vì sao tội phạm xảy ra. Đó chính là nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Nguyên nhân theo phép biện chứng duy vật là sự tác động lẫn nhau giữa một hoặc một số đối tượng khác. Xét về mặt thời gian nguyên nhân có trước kết quả có sau. Nếu coi tình hình tội phạm là hậu quả thì những hiện tượng quá trình xã hội tác động làm phát sinh tình hình tội phạm được coi là nguyên nhân và điều kiện. Theo quan điểm của các nhà tội phạm học Việt Nam hiện nay cho rằng Nguyên nhân của tình hình tội phạm là những hiện tượng xã hội tiêu cực ở trong mối liên hệ tương tác hai mức độ sinh ra và tái sản xuất ra tình hình tội phạm như là hậu quả tất yếu của mình. Điều kiện của tình hình tội phạm là những hiện tượng xã hội tiêu cực, tự mình không sinh ra tình hình tội phạm và các tội phạm, mà là hỗ trợ, làm dễ dàng và tăng cường cho sự hình thành và hoạt động của các nguyên nhân. Nếu thiếu nguyên nhân hoặc điều kiện thì không có khả năng làm phát sinh tình hình tội phạm. Về mặt lý thuyết, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm là hai phạm trù khác nhau, giữ vai trò khác nhau trong việc sản sinh ra kết quả – tình hình tội phạm. Thế nhưng, trong lĩnh vực xã hội nói chung và tội phạm học nói riêng, sự phân biệt đâu là nguyên nhân, đâu là điều kiện chỉ mang tính tương đối. Hơn nữa, thực tế đấu tranh và phòng ngừa tội phạm lại luôn luôn đòi hỏi phải loại trừ cả hai, tức là phải loại trừ những gì thuộc về nguyên nhân và loại trừ cả những gì thuộc về điều kiện phát sinh tình hình tội phạm. Chính vì tính phức tạp của sự tác động qua lại, tính muôn hình muôn vẻ của sự tác động, cũng như sự đòi hỏi của thực tế đấu tranh và phòng ngừa tội phạm ở nước ta mà việc nghiên cứu nguyên nhân và điều 7
- kiện của tình hình tội phạm chỉ có thể mang lại kết quả hữu ích và khả thi khi làm rõ được các hiện tượng, các yếu tố tham gia vào sự tác động qua lại này. Và chúng được gọi chung là các yếu tố làm phát sinh tình hình tội phạm. Theo Triết học Mác – xít, nguyên nhân là một phạm trù chỉ sự tác động qua lại giữa các mặt trong một sự vật, một hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau gây ra sự biến đổi nhất định gọi là kết quả. Như vậy, về bản chất, nguyên nhân chỉ có thể là sự tác động qua lại, để nguyên nhân sinh ra kết quả nhất định nào đó như tình hình tội phạm chẳng hạn, thì quá trình tương tác phải diễn ra trong điều kiện nhất định. Điều kiện, tuy không sản sinh ra kết quả, song tạo thuận lợi, hỗ trợ, thúc đẩy sự tương tác sinh ra kết quả. Về bản chất, điều kiện là những sự kiện, hiện tượng, tình huống, hoàn cảnh nhất định. Theo Giáo sư Võ Khánh Vinh: “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm được hiểu là hệ thống các hiện tượng xã hội tiêu cực trong hình thái kinh tế – xã hội tương ứng quyết định sự ra đời của tình hình tội phạm như là hậu quả của mình” [40, tr. 87]. Từ đó, có thể đưa ra nhận định rằng: Nguyên nhân là những gì làm phát sinh ra tội phạm. Điều kiện là những gì tuy không làm phát sinh ra tội phạm nhưng nó làm hỗ trợ để nguyên nhân dễ làm phát sinh ra tội phạm. Do đó, nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tội giết người trên địa bàn tỉnh Kiên Giang là nghiên cứu các yếu tố tâm sinh lý tiêu cực bên trong của người phạm tội, nghiên cứu các yếu tố tiêu cực thuộc bên ngoài của môi trường sống và nghiên cứu sự tác động qua lại giữa các yếu tố này để rút ra những đặc điểm chung có tính quy luật phản ánh rõ mối quan hệ giữa môi trường và cá nhân người phạm tội cũng như giữa môi trường và tội phạm xảy ra. Việc nghiên cứu và làm sáng tỏ những nguyên nhân và điều kiện phát sinh, tồn tại của tội giết người có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó đáp ứng được yêu cầu về mặt lý luận cũng như đấu tranh phòng chống tội phạm này. Ngoài ra tình hình tội giết người còn có những nguyên nhân và điều kiện đặc thù. Nghiên cứu những nguyên nhân và điều kiện đặc thù của tình hình tội phạm 8
- này là cần thiết bởi nó giúp chúng ta nhận thức và hiểu rõ những nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh và các điều kiện thúc đẩy của tội phạm; từ đó, có cơ sở khoa học và thực tế để đưa ra những biện pháp phòng ngừa có hiệu quả. Khi tìm hiểu, lý giải nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết người không thể bóc tách từng yếu tố độc lập hoàn toàn mà phải đặt chúng trong một chỉnh thể, có hệ thống và nghiên cứu một cách toàn diện bởi vì những nguyên nhân và điều kiện này bao giờ cũng ảnh hưởng, tác động qua lại với nhau. Với kết quả nghiên cứu trên đây, cho phép học viên nêu ra khái niệm sau: “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết người là hệ thống các hiện tượng xã hội tiêu cực trong hình thái kinh tế xã hội tương ứng quyết định sự phát sinh tội phạm giết người như là hậu quả của hình thái kinh tế – xã hội đó”. 1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết người Thứ nhất, nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết người có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc hoạt định các chính sách kinh tế, xã hội trước mắt và lâu dài. Trong đó cần phải khẳng định ý nghĩa quan trọng của vấn đề này đối với việc hoạt định các chính sách pháp luật chung và chính sách hình sự nói riêng như trong khoa học quản lý, giáo dục người phạm tội và những phương pháp phân loại người phạm tội để nghiên cứu những hình thức, phương pháp quản lý, giáo dục người phạm tội, lập dự án phát triển trại giam, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng Tình hình tội phạm gắn bó chặt chẽ với tình hình xã hội và xu hướng phát triển của xã hội về các mặt chính trị – kinh tế, xã hội. Vì vậy, sự ngộ nhận về tình hình tội phạm cũng sẽ dẫn đến những sai sót đáng tiếc trong quá trình thực hiện các chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước. Thực tế đã chỉ ra nguồn gốc phát sinh tội phạm không chỉ ở những hiện tượng tiêu cực mà ngay trong quá trình phát triển xã hội của nhà nước XHCN. Trong quá trình xây dựng, nhà nước XHCN chưa thể toàn diện, khép kín toàn bộ vấn đề đường lối, chính sách, chủ trương, tổ chức thực hiện, mà còn tạo nên sơ hở để xảy ra tội phạm. Có những chính sách kinh tế xã hội nếu đứng từ một góc độ kinh tế hoặc xây dựng thì đem lại hiệu quả nhất định, nhưng 9
- đứng từ góc độ khác thì nó lại tạo ra sơ hở và được coi là nguồn gốc làm phát sinh hoặc tạo điều kiện cho tội phạm tồn tại. Cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm luôn đòi hỏi sự hỗ trợ đắc lực của pháp luật. Hơn thế nữa chỉ có trên cơ sở quy định của pháp luật người ta mới có thể xác định đúng đắn được hành vi ứng xử của mình. Nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết người sẽ giúp cho việc hoàn thiện các văn bản pháp luật cũng như các chính sách hình sự, chính sách xã hội để tăng cường bảo vệ và loại trừ dần nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tội phạm. Thứ hai, nghiên cứu làm rõ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết người sẽ giúp các chủ thể trong hoạt động phòng ngừa tội phạm tiến hành soạn thảo, đề xuất các phương pháp, giải pháp nhằm tác động để ngăn chặn và loại trừ các nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội giết người, giúp cho hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả. Quyền sống (hay quyền được sống) là quyền cơ bản và quan trọng nhất của con người, đây cũng là một trong những nội dung quan trọng của Nhân quyền. Điều 19 Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái pháp luật.” Quyền được sống, được bảo hộ tính mạng, sức khỏe là thiêng liêng, bất khả xâm phạm và được ghi nhận với tư cách là những quyền hiến định chi phối toàn bộ hệ thống pháp luật, chính sách Nhà nước ta. Thời gian vừa qua, có những lúc tình hình tội phạm trở nên nhức nhói, đe dọa trầm trọng cuộc sống của nhân dân trong các mặt kinh tế, xã hội và an toàn cá nhân. Do đó, làm sáng tỏ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết người sẽ giúp các cơ quan chức năng có biện pháp tiến hành hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả. Cơ bản và có phần quan trọng nhất là có thể trên các biện pháp phòng ngừa để loại trừ trước các điều kiện có thể làm phát sinh tội phạm trước khi tội phạm xảy ra. Và từ đó, loại trừ dần các nguyên nhân, điều kiện củatình hình tội giết người, giúp cho hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả. 10
- 1.2. Phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết ngƣời Thứ nhất, Căn cứ vào cơ chế tác động của nguyên nhân và điều kiện trong việc làm phát sinh tình hình tội giết người, có thể phân thành: - Nguyên nhân và điều kiện chủ yếu làm phát sinh tình hình tội giết người là những nhân tố đóng vai trò chủ chốt trong việc làm phát sinh tội giết người và những nhân tố này chiếm tỉ lệ đáng kể trong tổng số các nhân tố làm phát sinh tội giết người. - Nguyên nhân và điều kiện thứ yếu làm phát sinh tình hình tội giết người là những nhân tố chỉ đóng vai trò hạn chế và chiếm tỉ lệ không đáng kể trong tổng số các nhân tố làm phát sinh tội giết người. Thứ hai, Căn cứ vào nguôn gốc xuất hiện, có thể chia nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết người thành nguyên nhân và điều kiện bắt nguồn từ môi trường sống với nguyên nhân và điều kiện xuất phát từ phía người phạm tội. Cụ thể: - Nguyên nhân và điều kiện bắt nguồn từ môi trường sống là tổng hợp các nhân tố tiêu cực được hình thành từ môi trường sống của cá nhân có thể tác động, ảnh hưởng đến cá nhân ở mức độ nhất định. Từ đó làm phát sinh tội giết người. Như là các nhân tố: môi trường gia đình không hoạn thiện như gia đình có ba mẹ ly hôn, ba mẹ không hòa thuận, ba mẹ không gương mẫu; môi trường giáo dục không tốt; môi trường sống, môi trường làm việc, môi trường giải trí không lành mạnh, tiêu cực, có nhiều tệ nạn xã hội - Nguyên nhân và điều kiện xuất phát từ phía người phạm tội là tổng hợp những nhân tố tiêu cực thuộc về nhân thân người phạm tội có thể tác động, ảnh hưởng đến việc phát sinh tình hình tội giết người của người phạm tội. Những nhân tố tiêu cực này có thể là dấu hiệu thuộc về sinh học, tâm lý, xã hội, nghề nghiệp của người phạm tội. Thứ ba, Căn cứ vào lĩnh vực hình thành nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết người, có thể phân thành: - Nguyên nhân và điều kiện về kinh tế – xã hội. Đây là những nhân tố thuộc về lĩnh vực kinh tế – xã hội có thể tác động làm phát sinh tình hình tội giết người như thất nghiệp, nghèo đói, quá trình đô thị và công nghiệp hóa 11
- - Nguyên nhân và điều kiện về văn hóa, giáo dục. Đây là những nhân tố hạn chế trong quá trình quản lý, triển khai thực hiện các chính sách, chương trình về văn hóa, giáo dục có thể tác động, ảnh hưởng làm phát sinh nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết người. - Nguyên nhân và điều kiện về tổ chức, quản lý. Đây là những thiếu sót, bất cập trong hoạt động của các cơ quan chức năng có thẩm quyền quản lý trong những lĩnh vực nhất định. Chủ yếu như: quản lý yếu kém, buông lỏng quản lý, kém trách nhiệm, kém ý thức - Nguyên nhân và điều kiện về yếu kém trong phát hiện và xử lý tội phạm. Việc chậm trễ giải quyết những bức xúc xã hội hoặc xử lý chưa nghiêm, chưa thỏa đáng, chưa kiên quyết triệt để trong đấu tranh đối với tội phạm giết người thông qua một số vụ án xảy ra, chưa làm tròn trách nhiệm trong việc bảo vệ sự bình yên của người dân đã dẫn đến tình trạng một số đối tượng coi thường pháp luật, coi thường tính mạng người khác, xem thường trật tự xã hội cũng là một trong những điều kiện dẫn đến nguyên nhân tình hình tội giết người. 1.3. Cơ chế tác động của các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết ngƣời Thực tiễn cho thấy, tội phạm nói chung, tội giết người nói riêng phát sinh trong đời sống xã hội là do nhiều yếu tố và các yếu tố này tác động lẫn nhau. Bởi vì, tội phạm là một hiện tượng vừa có tính xã hội, vừa có tính cá nhân. Với tính chất là một hiện tượng xã hội, tội phạm chịu sự tác động của nhiều hiện tượng và quá trình xã hội khác nhau. Mặt khác, tội phạm lại là hành vi của con người cụ thể nên nó phải chịu sự tác động, chi phối bởi các yếu tố thuộc chính con người thực hiện tội phạm đó. Hành vi phạm tội giết người trên thực tế luôn là kết quả của sự tác động qua lại giữa các yếu tố thuộc môi trường xã hội bên ngoài và các yêu tố tâm, sinh lý tiêu cực xuất phát từ cá nhân người phạm tội. Sự tác động này diễn ra theo một cơ chế nhất định được gọi là cơ chế hình thành hành vi phạm tội. Cơ chế này vận hành theo công thức S-X-R, trong đó S là các yếu tố thuộc môi trường (kích thích khách thể), 12
- X là yếu tố tâm, sinh lý con người (kích thích phương tiện), R là hành động trả lời các kích thích đó (hành vi phạm tội). Cơ chế hành vi phạm tội được PGS.TS Phạm Văn Tỉnh mô hình hóa như sau: Chủ thể hành vi (với những đặc điểm nhân thân – ký hiệu là X) Động cơ hóa hành Kế hoạch hóa hành vi Hiện tượng hóa vi R hành vi Môi trường sống (gồm cả yếu tố tình huống S) Mô hình trên cần phải nói cho rõ ràng rằng, là mô hình cơ chế hành vi người, hành vi xã hội của con người, được mô hình hóa trên cơ sở nguyên lý quyết định luận biện chứng: “Mọi sự tác động của một hiện tượng lên một hiện tượng khác đều bị khúc xạ bởi các thuộc tính bên trong của hiện tượng bị tác động. Mọi tác động đều là tác động qua lại, các nguyên nhân bên ngoài tác động thông qua các điều kiện bên trong”. Như vậy, có thể kết luận rằng, mọi hành vi xã hội của con người đều diễn ra theo một cơ chế chung, quy luật chung. Sự khác nhau giữa hành vi này với hành vi khác chỉ có thể thấy được ở những đặc điểm riêng biệt trong từng bộ phận của cơ chế chung đó. Điều này cắt nghĩa rằng, để thấy được nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, thì con đường tối ưu nhất, bảo đảm được tính khách quan, toàn diện và tính hệ thống, là phải làm rõ được hệ thống các yếu tố trong từng bộ phận, tạo thành cơ chế hành vi phạm tội, tức là các yếu tố thuộc bộ phận kích thích khách thể (S), kích thích phương tiện (X) và hành động trả lời các kích thích đó (R) [3,tr. 312]. 13
- GS.TS Võ Khánh Vinh cho rằng: “Những yếu tố của môi trường bên ngoài hay những quá trình tâm sinh lý bên trong con người, dù ở mức độ bất lợi và xấu như thế nào đi chăng nữa tự nó đều không phải là nguyên nhân của hành vi phạm tội cụ thể, mà phải là sự tương tác, kết hợp cả hai yếu tố đó mới trở thành nguyên nhân của tội phạm cụ thể” [39, tr. 113]. Như vậy, mọi tội phạm chỉ phát sinh khi có sự tác động qua lại giữa các yếu tố thuộc môi trường xã hội và các yếu tố tâm, sinh lý xã hội thuộc cá nhân người thực hiện tội phạm. Vì thế, cho dù yếu tố thuộc môi trường xã hội bên ngoài có thuận lợi đến mấy cho việc thực hiện tội phạm nhưng ở con người không có những yếu tố tâm, sinh lý tiêu cực, lệch lạc thì tội phạm khó có thể xảy ra. Ngược lại, một người dù có phẩm chất cá nhân tiêu cực, có ý thức chống đối xã hội nhưng không có những yếu tố bên ngoài môi trường xã hội tác động thì chưa chắc họ đã thực hiện tội phạm. Tóm lại, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm nói chung, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết người nói riêng là sự tác động qua lại giữa các yếu tố khách quan của môi trường sống với các yếu tố chủ quan thuộc về cá nhân người phạm tội. Cơ chế tác động của các yếu tố chủ quan và các yếu tố khách quan vô cùng phức tạp diễn ra theo hai giai đoạn: Thứ nhất, giai đoạn tác động qua lại giữa các yếu tố tiêu cực của môi trường sống với các đặc điểm bên trong của cá nhân để hình thành các đặc điểm nhân thân xấu của con người. Thứ hai, giai đoạn tác động qua lại giữa các đặc điểm nhân thân xấu của con người với tình huống tiêu cực cụ thể của môi trường sống làm phát sinh tội phạm. 1.4. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết ngƣời với các khái niệm khác có liên quan 1.4.1. Mối quan hệ với tình hình tội giết người Mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết người với tình hình tội giết người là mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả. Tình hình tội phạm nêu lên bức tranh tổng thể về tội giết người trong đơn vị thời gian, không gian xác định, được biểu hiện qua thực trạng, cơ cấu, diễn biến, tính 14
- chất của nó. Còn nguyên nhân và điều kiện của tội giết người là cái sinh ra kết quả (tình hình tội phạm), nên nguyên nhân và điều kiện luôn luôn có trước kết quả, còn kết quả chỉ xuất hiện sau khi có nguyên nhân xuất hiện và bắt đầu tác động. Việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện giải thích tại sao lại có tình hình tội phạm như vậy. Ngược lại, để nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện cần phải dựa trên tình hình tội phạm, đó là cơ sở thực tế để xác định những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội giết người nói riêng. 1.4.2. Mối quan hệ với nhân thân người phạm tội giết người Nhân thân người phạm tội giết người tức là người có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị Luật hình sự quy định là tội phạm giết người được hiểu là tổng thể tất cả các dấu hiệu, đặc điểm có ý nghĩa về mặt xã hội, trong sự kết hợp với các điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài ảnh hưởng đến hành vi phạm tội của người đó. Như dấu hiệu, đặc điểm về sinh học, tâm lý, văn hóa, nghề nghiệp Việc phân tích các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết người chỉ ra rằng không thể nhận thức, hiểu biết được các nguyên nhân và điều kiện đó nếu thiếu việc cân nhắc nhân thân người phạm tội, bản chất, các đặc điểm và quá trình hình thành nó. Nhân thân người phạm tội là một bộ phận cấu thành tất yếu và rất quan trọng của cơ chế hành vi phạm tội, còn các hoàn cảnh của sự hình thành các đặc điểm tâm lý – xã hội tiêu cực của cá nhân xuất hiện trước các đặc điểm của cá nhân nằm trong mối quan hệ nhân quả với tình hình tội giết người, đó là các yếu tố thuộc môi trường sống. Do vậy, việc nghiên cứu nhân thân những người phạm tội trên cơ sở của sự khái quát các nguyên nhân và điều kiện của tình hìnhtội giết người người cụ thể cho phép rút ra những nhân tố phạm tội chung, giải thích được những thay đổi trong thực trạng, cơ cấu, động thái của tình hình tội phạm có liên quan với những thay đổi trong các đặc điểm của những người phạm tội. Như vậy, việc nghiên cứu đặc điểm nhân thân người phạm tội giết người tạo cơ sở cho việc xác định nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết người, đặc biệt là nhóm nguyên nhân và điều kiện từ phía người phạm tội. Điều đó có ý nghĩa 15