Luận văn Người làm chứng trong luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lawsk)

pdf 110 trang vuhoa 25/08/2022 6920
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Người làm chứng trong luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lawsk)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_nguoi_lam_chung_trong_luat_to_tung_hinh_su_viet_nam.pdf

Nội dung text: Luận văn Người làm chứng trong luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lawsk)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ VIẾT KIÊN NG¦êI LµM CHøNG TRONG LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ VIẾT KIÊN NG¦êI LµM CHøNG TRONG LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k) Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. ĐỖ THỊ PHƯỢNG HÀ NỘI - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, khách quan, trung thực. Người cam đoan Lê Viết Kiên
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt Danh mục bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI LÀM CHỨNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 6 1.1. Khái niệm và đặc điểm về người làm chứng 6 1.1.1. Khái niệm người làm chứng 6 1.1.2. Đặc điểm về người làm chứng 11 1.2. Vai trò của người làm chứng trong tố tụng hình sự 14 1.3. Quy định về người làm chứng trong pháp luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới 20 1.3.1. Quy định về người làm chứng trong pháp luật tố tụng hình sự của Cộng hòa liên bang Đức 20 1.3.2. Quy định về người làm chứng trong pháp luật tố tụng hình sự của Cộng hòa Pháp 21 1.3.3. Quy định về người làm chứng trong pháp luật tố tụng hình sự của Liên bang Nga 23 1.3.4. Quy định về người làm chứng trong pháp luật tố tụng hình sự của Nhật Bản 24 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ NGƯỜI LÀM CHỨNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH ĐẮKLẮK 26
  5. 2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về người làm chứng 26 2.1.1. Quy định về quyền của người làm chứng 26 2.1.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về nghĩa vụ của người làm chứng 33 2.1.3. Một số quy định khác trong luật tố tụng hình sự Việt Nam có liên quan đến người làm chứng 38 2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về người làm chứng tại tỉnh Đắk Lắk 44 2.2.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân 44 2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân 53 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ VỀ NGƯỜI LÀM CHỨNG TẠI TỈNH ĐẮK LẮK 67 3.1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về người làm chứng 67 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với người làm chứng tại tỉnh Đắk Lắk 93 KẾT LUẬN 97 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 100
  6. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật dân sự BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT: Cơ quan điều tra CQTHTT: Cơ quan tiến hành tố tụng TA: Tòa án TTHS : Tố tụng hình sự VAHS: Vụ án hình sự VKS: Viện kiểm sát
  7. DANH MỤC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Số liệu các vụ án hình sự thụ lý của TAND tỉnh Đắk Lắk từ năm 1999 đến năm 2013 44
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đi đôi với quá trình hội nhập phát triển kinh tế là yêu cầu xây dựng một xã hội có những thiết chế pháp luật chặt chẽ và cụ thể, trong đó quyền con người phải được tôn trọng và bảo vệ. Người làm chứng được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 là cơ sở pháp lý quan trọng để nâng cao vai trò, vị trí và bảo vệ người làm chứng - là một chủ thể trong vụ án hình sự góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án, là một chế định lâu đời trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta và các nước khác trên thế giới, xuất phát từ lời khai của người làm chứng là một trong những chứng cứ có vai trò rất quan trọng giúp vụ án được sáng tỏ. Cùng với quá trình hội nhập kinh tế thế giới, sự hoàn thiện các quy định của pháp luật đối với người làm chứng và sự bảo đảm của nhà nước về địa vị pháp lý của người làm chứng sẽ có ý nghĩa thiết thực trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, của các tổ chức chính trị và của toàn xã hội nói chung cũng như quyền lợi của người làm chứng nói riêng; góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào sự công minh của pháp luật, của Nhà nước và đồng thời góp phần quan trọng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh. Hiện nay Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn về quyền và nghĩa vụ của người làm chứng, mở rộng quyền của họ và những biện pháp bảo đảm tố tụng cho các quyền đó. Tuy nhiên, việc quy định các quyền và nghĩa vụ của người làm chứng và quy định về địa vị pháp lý của người làm chứng trong BLTTHS năm 2003 vẫn chưa tạo cơ sở pháp lý phù hợp để khuyến khích người làm chứng tích cực thực hiện nghĩa vụ công dân của mình, hợp tác với Nhà nước trong đấu tranh phòng chống tội phạm, xác minh sự thật khách quan của vụ án chưa thực sự bảo đảm các quyền, lợi ích chính đáng của người làm chứng. Trong khi đó, hoạt động của tội phạm ngày càng nguy hiểm và táo tợn hơn trong việc trả thù, đe dọa, 1
  9. hành hung người làm chứng. Hiện nay những quy định về người làm chứng trong pháp luật hiện hành còn nhiều bất cập về nội dung và những cơ chế chưa được giải quyết. Từ những vấn đề nêu trên, người làm chứng trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, nhất là đối với các vụ án lớn, người làm chứng thường ít ra làm chứng, từ chối làm chứng, khai báo chịu sự tác động của nhiều yếu tố khách quan, chủ quan chi phối gây thiệt hại cho nhà nước, xã hội. Cùng với việc đẩy mạnh hội nhập phát triển kinh tế, xã hội. Đảng và nhà nước ta cũng đang tiến hành cải cách tư pháp theo nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước, phù hợp với hội nhập quốc tế trong đó các quy định về quyền, nghĩa vụ của người làm chứng là một dẫn chứng cụ thể. Việc nghiên cứu người làm chứng trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam để có cái nhìn sâu hơn, đầy đủ hơn và có những giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về người làm chứng là hoàn toàn cần thiết. Xuất phát từ thực tế cấp thiết đó tôi đã chọn đề tài: “Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)” làm cơ sở nghiên cứu khoa học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Có nhiều tác giả nghiên cứu trong các công trình khoa học có cấp độ khác nhau quy định của pháp luật về người làm chứng trong luật Hình sự. Trong đó có một số bài viết như: “Bảo vệ người làm chứng và quyền miễn trừ người làm chứng trong tố tụng hình sự” của PGS.TS Nguyễn Thái Phúc, trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh (Tạp chí khoa học pháp lý số 3 năm 2007); “Lời khai của người làm chứng trong vụ án hình sự” của TS. Trần Quang Tiệp, Tổng cục An ninh, Bộ công an (Tạp chí khoa học pháp lý số 4 năm 2005); “Hoàn thiện quy định của BLTTHS nhằm bảo vệ người làm chứng khi tham gia tố tụng” của Ths. Nguyễn Hải Ninh (Trường Đại học Luật Hà 2
  10. Nội); “Hoàn thiện cơ sở pháp lý về bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại trong vụ án hình sự” của PGS.TS Trần Đình Nhã (Phó chủ nhiệm Ủy ban quốc phòng và an ninh của Quốc hội); “Một số vấn đề trong việc bảo vệ người làm chứng” của tác giả Đinh Tuấn Anh (Học viện cảnh sát) trên tạp chí kiểm sát số 7/2008; “Quyền con người, quyền công dân trong hiến pháp Việt Nam” của PGS.TS Nguyễn Văn Động, Nxb khoa học xã hội 2005; đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở “Các quyền cơ bản hiến định của công dân trong lĩnh vực tố tụng hình sự” của TS. Tô Văn Hòa trường Đại học Luật Hà Nội; “Những vấn đề lý luận về bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự” của PGS.TSKH Lê Cảm, tạp chí Tòa án nhân dân số 01/2006; “Một số vấn đề cần chú ý về tâm lý xã hội của người làm chứng” của Đinh Thế Anh, Tạp chí kiểm sát số 7/2008; “Cần quy định rõ, đầy đủ tư cách pháp lý quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng” của Đinh Văn Lý, Tạp chí kiểm sát số 17/2009; “Vấn đề bảo vệ nhân chứng, người tố giác và những người tham gia tố tụng khác” của T.S Phạm Mạnh Hùng, Trường đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát (Tạp chí kiểm sát số 7 tháng 4 năm 2012); “Hoàn thiện chế định người làm chứng trong tố tụng hình sự đảm bảo tính khách quan, minh bạch tại phiên tòa” của Th.S Nguyễn Thị Tuyết, Tòa án quân sự Trung ương (Tạp chí Tòa án nhân dân số 10 tháng 5 năm 2011) vv Các bài viết này đã đề cập đến nhiều khía cạnh phân tích, bình luận các quyền và nghĩa vụ cũng như địa vị pháp lý của người làm chứng trong bộ luật tố tụng hình sự, giúp người đọc nhận thức cụ thể, chi tiết hơn về người làm chứng về địa vị pháp lý của người làm chứng trong TTHS Việt Nam như về vai trò của người làm chứng; đặc điểm về tâm lý xã hội khi tham gia làm chứng; cơ sở pháp lý bảo vệ người làm chứng. Có những bài viết đã chỉ ra được những tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật hình sự về người làm chứng từ đó đề xuất một số kiến nghị giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về người làm chứng trong TTHS. 3
  11. Mặc dù đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu trục tiếp hoặc gián tiếp về người làm chứng trong TTHS Việt Nam dưới nhiều góc độ khác nhau như đã nêu và đã góp phần làm phong phú, hoàn thiện hơn khoa học pháp luật nói chung, khoa học pháp luật TTHS nói riêng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tuy nhiên qua nghiên cứu và tìm hiểu nhiều nguồn thông tin khác nhau tác giả nhận thấy chưa có Luận văn thạc sỹ, Luận án tiến sỹ nào nghiên cứu về đề tài “Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu tại tỉnh Đắk Lắk” 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn Mục đích: Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn của việc quy định quyền và nghĩa vụ người làm chứng, đánh giá những ưu điểm và hạn chế trong các quy định pháp luật về vấn đề này, từ đó tìm ra những nguyên nhân và giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về người làm chứng trong TTHS. Nhiệm vụ nghiên cứu: Nghiên cứu cơ sở lý luận về vai trò, ý nghĩa cũng như quyền và nghĩa vụ của người làm chứng theo quy định của BLTTHS năm 2003. Phân tích đánh giá tính khả thi của pháp luật về người làm chứng trong từ đó nêu lên những bất cập tồn tại trong quy định của Luật cũng như trong quá trình áp dụng pháp luật. Phân tích quy định về địa vị pháp lý của người làm chứng trên cơ sở làm rõ yếu tố tâm lý người làm chứng, vai trò của họ trong giải quyết vụ án hình sự. Tìm ra những giải pháp, phương thức hoàn thiện các quy định pháp luật và việc áp dụng thống nhất pháp luật, đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của người làm chứng. Nghiên cứu số liệu trên cơ sở tổng kết công tác năm 2013 của ngành Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk về người làm chứng trong tố tụng hình sự và đề ra những giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện các quy định về người làm chứng. Về phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung phân tích quy định của BLTTHS năm 2003 về quyền và nghĩa vụ người làm chứng trên cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện những quy định về quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc đảm bảo quyền của người làm chứng. 4
  12. 4. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng và Nhà nước và quy định trong Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, luận văn được nghiên cứu chủ yếu bằng phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử; kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống khác như: thu thập, phân tích các văn bản quy phạm pháp luật, tổng hợp, so sánh, thống kê, nghiên cứu thực tiễn và phân tích các bất cập trong các vụ án có người làm chứng và một số phương pháp luận khác. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ và bổ sung vào khoa học pháp lý của luật tố tụng hình sự Việt Nam về người làm chứng. Là tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy pháp luật và các cơ sở đào tạo luật của Việt Nam. Thực tiễn: Luận văn nghiên cứu làm cơ sở cho việc hoạch định và thực thi nhiệm vụ trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và là tài liệu tham khảo cho cơ quan tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. 6. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về người làm chứng trong luật tố tụng hình sự. Chương 2: Qui định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về người làm chứng và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Đắk Lắk. Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả về người làm chứng tại tỉnh Đắk Lắk. 5
  13. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI LÀM CHỨNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm và đặc điểm về người làm chứng 1.1.1. Khái niệm người làm chứng Trong lịch sử lập pháp Việt Nam, Bộ luật Hồng Đức là bộ luật đầu tiên quy định về người làm chứng, Điều 714 quy định: Những người làm chứng trong việc kiện tụng nếu xét ra ngày thường đôi bên kiện tụng là người thân tình hay có thù oán, thì không cho phép ra làm chứng. Nếu những người ấy giấu giếm ra làm chứng, thì khép vào tội không nói đúng sự thật. Hình quan, ngục biết mà dung túng việc đó đều bị tội [40]. Trong Bộ luật tố tụng áp dụng tại Bắc kỳ thời Pháp thuộc người làm chứng được quy định cụ thể tại Điều 20 như sau: "Phàm người chứng đã liệt danh trong đơn khống chế và các người mà quan thẩm phán liệu nghĩ đến chất vấn trong khi thẩm cứu, thì đều phải bị đòi gọi đến TA để chất vấn". Ngoài việc quy định chủ thể nào là người làm chứng, bộ luật còn quy định về nghĩa vụ của người làm chứng tại Điều 22 như sau: Phàm người chứng đã bị chiếu lệ đòi gọi, không có gì hợp lẽ mà tự ý không đến hầu trước Tòa sơ cấp nghĩ xử việc vi cảnh, hoặc trước TA tỉnh, hoặc Tòa đệ tam cấp hoặc trước quan thẩm cứu thì có thể bị ép bắt phải đến hầu và vì cớ không đến hầu phải bị xử phạt từ 1 đồng đến 5 đồng và phạt giam từ 1 ngày đến 5 ngày, hoặc hai thứ phải chịu một [12]. Trước khi BLTTHS năm 1988 ra đời, trong pháp luật TTHS Việt Nam đã có những văn bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao, công văn số 98- 6
  14. NCPL ngày 2/3/1974 gửi Tòa án nhân dân địa phương đề cập việc thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ từ lời khai của người làm chứng. Công văn nêu lên sự cần thiết phải xác minh, kiểm tra, đánh giá chứng cứ từ lời khai của người làm chứng. Lời khai của người làm chứng trực tiếp hay gián tiếp đều phải được xác minh có đúng sự thật không vì những lý do sau: - Người làm chứng tuy khách quan nhưng vì trí nhớ hoặc mắt có thể không tốt, nên thuật lại có thể không hoàn toàn đúng diễn biến của sự việc - Việc xảy ra đã lâu nên không nhớ chi tiết, thuật lại có thiếu sót - Ngại phiền phức hoặc thù oán mà không khai hết sự việc mà mình đã biết - Vì cảm tình hoặc có mâu thuẫn với một bên trong vụ án mà khai thêm hoặc bớt, thiếu chính xác - Có nhân chứng, vì nhớ không kỹ mà khai thêm, bớt, suy diễn theo chủ quan của mình - Vì bị đe dọa hoặc bị mua chuộc mà khai sai sự thật - Đã khai không đúng, nhưng sau vẫn khai như trước, vì sợ khai khác thì bị đánh giá là người không trung thực Thông thường lời khai của những người đúng đắn, ngay thẳng, không có thân thuộc, bạn bè, không có mâu thuẫn gì với bị cáo, với người bị hại hoặc không có quyền lợi gì liên quan đến vụ án thì có nhiều khả năng chính xác. Tuy nhiên, không thể khẳng định trước là lời khai của nhân chứng nào là đáng tin hơn nhân chứng nào, dù là nhân chứng trực tiếp, nếu lời khai ấy chưa được xác minh, thẩm tra lại. Trong công văn này, Tòa án nhân dân tối cao còn rút ra một vấn đề cần chú ý khi kiểm tra, đánh giá chứng cứ từ lời khai của người làm chứng: - Xem nhân chứng thuộc loại trực tiếp hay gián tiếp - Sự việc họ khai có rõ ràng hay chỉ là phỏng đoán, suy diễn - Trạng thái về tinh thần, tuổi của người làm chứng 7
  15. - Cương vị, điều kiện công tác, nơi ở của họ có thể cho phép họ biết rõ sự việc như họ đã khai không? [33]. - Họ có quan hệ thân thuộc, bạn bè hoặc có mâu thuẫn gì với bị cáo, với người bị hại không? Quyền lợi của họ có liên quan đến vụ án không? Như vậy, vấn đề người làm chứng, cũng như việc quy định về quyền, nghĩa vụ của họ được đề cập từ rất sớm trong lịch sử lập pháp Việt Nam. Pháp luật hầu hết các quốc gia đều có những quy định về người làm chứng vì lời khai của người làm chứng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giải quyết vụ án một cách chính xác, khách quan, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm, tăng niềm tin của nhân dân vào pháp luật. Với những ý nghĩa trên, BLTTHS năm 2003 đã ghi nhận người làm chứng là người tham gia tố tụng hình sự tại Điều 55, có sự bổ sung, kế thừa các quy định của BLTTHS năm 1988. BLTTHS năm 2003 quy định: Người nào biết được các tình tiết liên quan đến vụ án đều có thể được triệu tập đến làm chứng. Những người sau đây không được làm chứng: a) Người bào chữa của bị can, bị cáo; b) Người do có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức được những tình tiết của vụ án hoặc không có khả năng khai báo đúng đắn [18, Điều 55]. Như vậy theo quy định của pháp luật có thể hiểu như sau về người làm chứng: + Người làm chứng là người biết được các tình tiết liên quan đến vụ án. Nhận thức của người làm chứng về các tình tiết của vụ án có thể trực tiếp hoặc gián tiếp (trực tiếp nhìn thấy, nghe thấy hay được người khác kể lại). Những tình tiết mà người làm chứng biết được có thể liên quan đến đối 8
  16. tượng chứng minh được quy định tại Điều 63 BLTTHS năm 2003 hoặc các tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án (có ý nghĩa chứng minh). Việc họ biết được các tình tiết của vụ án là một thực tế khách quan, và vì vậy họ có thể được triệu tập đến để khai báo về thực tế khách quan đó với tư cách người làm chứng cung cấp chứng cứ cho người có trách nhiệm chứng minh. Việc một người biết về các tình tiết liên quan đến vụ án hình sự là một thực tế khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của cơ quan hay người tiến hành tố tụng. + Người tham gia tố tụng với tư cách người làm chứng khi họ không phải người bào chữa của bị can, bị cáo. Theo quy định tại Điều 56 BLTTHS năm 2003 thì người bào chữa có thể là luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân. Người bào chữa của bị can, bị cáo có thể biết được các tình tiết của vụ án từ nhiều nguồn và trong những khoảng thời gian khác nhau: có thể biết trước khi tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa từ những thông tin không phải do bị can, bị cáo cung cấp, có thể biết được các tình tiết đó do có mặt ở nơi xảy ra tội phạm, do quen biết bị can, bị cáo hoặc do được người khác kể lại Cũng có thể người đó biết được các tình tiết vụ án trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bào chữa do được đọc hồ sơ vụ án, do tiếp xúc với bị can, bị cáo. Người bào chữa tham gia tố tụng để thực hiện chức năng gỡ tội nên chỉ đưa ra các chứng cứ có lợi cho bị can, bị cáo. Vì vậy, điểm b khoản 2 Điều 56 BLTTHS năm 2003 cũng đã quy định nếu một người nào đó đã tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa thì không được làm chứng trong vụ án đó. + Người đó phải có khả năng nhận thức được các tình tiết của vụ án và có khả năng khai báo đúng đắn. Điểm b khoản 2 Điều 55 BLTTHS năm 2003 quy định những người do có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức được những tình tiết liên quan đến vụ án hoặc không 9
  17. có khả năng khai báo đúng đắn thì không được làm chứng. Theo quy định của pháp luật thì người làm chứng là người biết được các tình tiết liên quan tới vụ án, những người có nhược điểm về thể chất biết được các tình tiết theo cách riêng của họ. Người điếc không nghe thấy được nhưng có thể nhìn thấy, người mù không thể nhìn thấy được nhưng có thể nghe thấy. Vì vậy, nếu vào thời điểm nhận thức hoặc khai báo sự việc mà do có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần mà không có khả năng nhận thức hoặc khai báo đúng đắn thì không được làm chứng. Nếu các nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần không làm ảnh hưởng đến khả năng nhận thức và khai báo thì có thể tham gia tố tụng với tư cách người làm chứng. + Người biết được các tình tiết liên quan đến vụ án chỉ có thể trở thành người làm chứng khi được các cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập. Trong thực tiễn điều tra có nhiều người biết tình tiết của vụ án đang điều tra nhưng không trở thành người làm chứng bởi luật quy định những trường hợp này không được làm chứng (người bào chữa của bị can, bị cáo; người có nhược điểm tâm thần, thể chất mà không có khả năng nhận thức và khai báo đúng đắn - khoản 2 Điều 55 BLTTHS năm 2003) hoặc do cơ quan có thẩm quyền xét thấy không cần thiết phải triệu tập họ để lấy lời khai với tư cách người làm chứng trong vụ án. Trường hợp có nhiều người biết các thông tin liên quan đến vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng phải có sự lựa chọn. Những người biết được nhiều tin tức quan trọng, biết được các tình tiết một cách sâu sắc, chính xác, đầy đủ; những người có khả năng mô tả lại một cách tốt nhất những hiểu biết của họ mà cơ quan điều tra đang cần; những người có thiện chí, có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ người làm chứng thường được các cơ quan tiến hành tố tụng lựa chọn. Việc lựa chọn triệu tập ai là người làm chứng sẽ làm giảm được khối lượng công việc, tránh tình trạng lan man trong thu thập chứng cứ. 10
  18. Từ những phân tích trên có thể hiểu khái niệm về người làm chứng như sau: Người làm chứng là người biết được tình tiết liên quan đến vụ án, được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập để khai báo về những sự việc cần xác minh trong vụ án. 1.1.2. Đặc điểm về người làm chứng Trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự có thể nhận thấy đại đa số quần chúng nhân dân luôn sẵn sàng cộng tác với các cơ quan tiến hành tố tụng, cung cấp những thông tin có ích cho việc giải quyết vụ án. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều người lẩn tránh việc ra làm chứng hoặc làm chứng với thái độ miễn cưỡng, khai báo không đầy đủ thậm chí khai báo gian dối gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, nguyên nhân của tình trạng này chủ yếu đều xuất phát từ tâm lý xã hội của người làm chứng. Những đặc điểm về nhận thức và tâm lý khác biệt của người làm chứng trong tố tụng hình sự có thể lý giải phần nào tình trạng người làm chứng không tích cực hợp tác với các cơ quan tiến hành tố tụng: - Nhiều người làm chứng chưa nhận thức đầy đủ về nghĩa vụ pháp lý của mình. Theo quy định của pháp luật việc một người ra làm chứng không chỉ giúp các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án được nhanh chóng, chính xác mà còn là việc thực hiện nghĩa vụ công dân đã được pháp luật quy định ((Điều 79 Hiến pháp năm 1992; Điều 4 BLHS năm 1999; Điều 25, Điều 55 BLTTHS năm 2003). Thậm chí việc từ chối khai báo hoặc khai báo gian dối còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự (Điều 308, Điều 307 BLHS). Do trình độ hiểu biết pháp luật của đại đa số người dân còn hạn chế nên không phải ai cũng nhận thức được nghĩa vụ của mình trước pháp luật. Nhiều người cho rằng trách nhiệm điều tra làm rõ tội phạm là trách nhiệm của các cơ quan bảo vệ pháp luật, không phải trách nhiệm của họ. Không vi phạm pháp 11
  19. luật, và thực hiện các nghĩa vụ với Nhà nước (như nộp thuế, các khoản phí, lệ phí) đối với một số người đã là thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của công dân của mình. Còn trách nhiệm điều tra tội phạm là công việc của các cơ quan tiến hành tố tụng bởi Nhà nước đã giao cho các cơ quan đó làm nhiệm vụ này. Họ còn nghĩ mình không phải là người duy nhất biết được các tình tiết liên quan tới vụ án, ngoài họ ra còn nhiều người khác biết. Vì vậy, nếu họ không ra làm chứng thì sẽ có người khác làm chứng thay. Từ đó dẫn đến thái độ thờ ơ, thiếu trách nhiệm trong việc cung cấp thông tin mà họ biết với các cơ quan tiến hành tố tụng. - Người làm chứng có tâm lý sợ phiền hà, không muốn mất thời gian ảnh hưởng tới công việc và sinh hoạt của mình, tốn kém tiền của hoặc bị phía đối tượng trong vụ án mua chuộc. Ra làm chứng cũng có nghĩa là tham gia vào hoạt động tố tụng cho nên người làm chứng có nghĩa vụ pháp lý trong suốt thời gian điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Người làm chứng có thể được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập để lấy lời khai, nhận diện, đối chất vào bất kỳ thời điểm nào trong quá trình giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật Điều đó ảnh hưởng đến thời gian làm việc, học tập, sinh hoạt, ảnh hưởng đến thu nhập kinh tế thậm chí phải mất chi phí cho việc làm chứng (chi phí đi lại, ăn ở). Theo quy định của pháp luật người làm chứng được thanh toán các khoản chi phí trên nhưng thực tế các khoản tiền được thanh toán đó thường không theo kịp giá cả thị trường. Hơn nữa nhiều người làm chứng có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế nên thường viện lý do thoái thác để không đến làm chứng hoặc làm chứng không đúng hẹn hay chỉ khai báo qua loa cho xong việc, tâm lý không muốn “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng” vẫn còn tồn tại. Nhiều trường hợp người làm chứng bị mua chuộc từ phía đối tượng hoặc người nhà của họ nên đã khai báo theo hướng có lợi cho bị can, bị cáo. - Người làm chứng sợ bị xử lý trước pháp luật do bản thân họ có liên quan tới sự việc tội phạm ở mức độ nhất định hoặc sợ bị phát hiện những hành 12
  20. vi xấu xa của mình, họ sợ bị liên đới chịu trách nhiệm với kẻ phạm tội. Trường hợp người làm chứng không có hành vi liên quan tới sự việc phạm tội nhưng tình cờ được chứng kiến hành vi phạm tội trong khi bản thân họ đang làm những chuyện xấu xa, vô đạo đức do đó họ chỉ muốn tránh xa các cơ quan bảo vệ pháp luật để không bị lâm vào tình cảnh rắc rối. Đó còn chưa kể tới những người đã và đang có hành vi vi phạm pháp luật, phạm tội nhưng chưa bị phát hiện, họ rất sợ phải tiếp xúc với cơ quan bảo vệ pháp luật vì theo tâm lý “có tật giật mình”. Trong thâm tâm họ luôn sợ rằng “cái sảy nảy cái ung” nên tốt nhất không nên ra làm chứng để bảo vệ an toàn cho bản thân mình. - Người làm chứng sợ ảnh hưởng không tốt đến uy tín, danh dự của bản thân hoặc đến mối quan hệ với các đối tượng trong vụ án. Quan niệm “dĩ hòa vi quý”, coi trọng tình cảm của người phương Đông khiến cho nhiều người không muốn làm mất lòng ai, không muốn người khác xì xào, bàn tán không có lợi cho mình nhất là những người có địa vị nhất định trong xã hội. Khi ra làm chứng trước pháp luật họ sợ bị mọi người xung quanh hiểu lầm mình có dính líu gì đó đến vụ án nên mới bị cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập. Mặt khác trong xã hội vẫn còn nhiều người thành kiến với việc kiện tụng, coi việc tố cáo nhau là xấu dù họ biết việc bị tố cáo là việc xấu, thậm chí là tội phạm. Họ muốn tội phạm bị trừng trị nghiêm minh nhưng nhiều người vẫn cảm thấy “áy náy” vì cho rằng vì mình đứng ra làm chứng mà người khác vào tù. Việc làm chứng với họ rất khó khăn nên thường thiếu nhiệt tình. Tìm thêm đồng minh là những người làm chứng khác để chứng tỏ rằng không chỉ có mình họ khai báo, tố giác tội phạm mà còn có thêm những người khác nữa, giải tỏa được tâm lý họ không phải là người duy nhất bị mọi người soi mói, không thấy áy náy nhiều bởi họ không là người duy nhất “đưa” người khác vào tù, cảm giác xấu hổ, áy náy đó sẽ được san sẻ. Nếu giữa người làm chứng và bị can, bị cáo có mối quan hệ thân quen thì họ còn có thêm tâm lý sợ bị đưa lên 13
  21. bàn cân của dư luận, bị mất lòng tin với gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, họ sợ bị tẩy chay. Do vậy, trừ trường hợp kẻ phạm tội là kẻ dã man, đối xử tàn ác với gia đình người thân khiến ai cũng căm ghét còn hầu hết những người làm chứng có quan hệ gia đình, bạn bè với các đối tượng của vụ án đều tỏ ra thiếu trung thực, khai báo có lợi cho đối tượng. - Người làm chứng có tâm lý sợ bị trả thù, thiếu niềm tin với các cơ quan tiến hành tố tụng. Thực tế trong những vụ án ma túy, buôn bán phụ nữ trẻ em, liên quan tới các băng nhóm tội phạm nhiều người làm chứng và người thân của họ đã bị đối tượng, đồng bọn hay gia đình đối tượng mua chuộc, dọa dẫm buộc họ phải im lặng hay khai báo có lợi cho đối tượng, nhiều người làm chứng đã bị trả thù. Vì vậy, nhiều người biết rõ sự việc phạm tội nhưng không dám tố giác tội phạm, khi được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập họ tìm cách thoái thác, thất hẹn hoặc khai báo theo những gì đã bàn bạc, thỏa thuận với đối tượng. Những nguyên nhân trên đều xuất phát từ tính toán về lợi ích cá nhân của người làm chứng [34 trang 147]. 1.2. Vai trò của người làm chứng trong tố tụng hình sự Vai trò của người làm chứng trong TTHS là chủ thể tham gia tố tụng với tư cách là người phối hợp với CQTHTT trong quá trình giải quyết và làm sáng tỏ vụ án, với mong muốn duy nhất tìm ra sự thật khách quan của vụ án hình sự. Nhìn chung khi tham gia vào TTHS người làm chứng là chủ thể không có sự quan tâm pháp lý về kết cục của vụ án. Lý do tham gia của người làm chứng trong TTHS không phải vì lợi ích của họ mà là lợi ích của bị can, bị cáo, người bị hại, của CQTHTT và lợi ích chung của xã hội: đó là làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, người làm chứng không được bất cứ quyền lợi về mặt vật chất nào từ việc làm chứng. Sự tham gia của họ góp phần vào việc chứng minh làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Khi so sánh vai trò, chức năng tố tụng của người làm chứng với người bị hại và bị can, bị cáo 14
  22. sẽ nhận thấy rõ sự khác biệt về tư cách tố tụng của người làm chứng với các chủ thể khác trong TTHS. Theo đó người bị hại tham gia tố tụng với tư cách là chủ thể buộc tội, thực hiện quyền công dân và quyền tố tụng, cùng với CQTHTT xác định có tội phạm xảy ra, bảo vệ quyền lợi của mình, cũng giống như người bị hại, bị can, bị cáo tham gia tố tụng với tư cách chủ thể rõ ràng là vì lợi ích của cá nhân của mình. Trong khi đó người làm chứng tham gia tố tụng với tư cách là người phối hợp với CQTHTT trong quá trình giải quyết vụ án, tham gia tố tụng không vì lợi ích cá nhân. Bằng việc cung cấp lời khai mà mình biết có liên quan đến vụ án hình sự, người làm chứng làm sáng tỏ những tình tiết cần thiết trong quá trình điều tra, chứng minh tội phạm. Đối với người làm chứng thì tham gia vào vụ án và trình bày lời khai trung thực tất cả những gì mình biết về vụ án không những là quyền, nghĩa vụ công dân của mình mà còn là nghĩa vụ tố tụng của họ. Đối với nhà nước thì người làm chứng là người phối hợp với nhà nước, với CQTHTT trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Vai trò của người làm chứng là hỗ trợ tư pháp, sẽ dễ dàng nhận thấy sự khác biệt giữa người làm chứng và người bị hại trong TTHS. Theo đó người bị hại là nạn nhân trực tiếp của hành vi tội phạm nên lời khai của họ có thể phản ánh đậm nét hơn những đánh giá, cảm xúc chủ quan về các tình tiết của vụ án so với lời khai của người làm chứng. Lời khai người bị hại không chỉ là nguồn chứng cứ làm sáng tỏ sự thật của vụ án mà là còn lời buộc tội, là công cụ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người đó. Trình bày lời khai không chỉ là nghĩa vụ tố tụng mà đồng thời còn là quyền tố tụng của người bị hại [13 trang 9]. Ở góc độ này người bị hại được nhìn nhận là chủ thể thực hiện chức năng buộc tội, còn người làm chứng là người giúp cho CQTHTT trong quá trình điều tra, chứng minh có hay không hành vi phạm tội. 15