Luận văn Người làm chứng theo bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015

pdf 102 trang vuhoa 25/08/2022 6400
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Người làm chứng theo bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_nguoi_lam_chung_theo_bo_luat_to_tung_hinh_su_viet_n.pdf

Nội dung text: Luận văn Người làm chứng theo bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ NY NGƯỜI LÀM CHỨNG THEO BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2015 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2020
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ NY NGƯỜI LÀM CHỨNG THEO BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2015 Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8380101.03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS ĐỖ THỊ PHƯỢNG Hà Nội – 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Ny i
  4. MỤC LỤC Trang phụ bìa LỜI CAM ĐOAN i DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT iv DANH MỤC CÁC BẢNG v MỞ ĐẦU 1 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI LÀM CHỨNG TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 7 1.1. Khái niệm và đặc điểm về người làm chứng trong tố tụng hình sự 7 1.1.1. Khái niệm về người làm chứng 7 1.1.2. Đặc điểm về người làm chứng 10 1.2. Vai trò của người làm chứng trong tố tụng hình sự 19 1.2.1. Vai trò của người làm chứng trong hoạt động chứng minh của các Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng 19 1.2.2. Vai trò của người làm chứng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm . 21 1.2.3. Vai trò của người làm chứng trong bảo đảm quyền con người 22 Kết luận Chương 1 24 Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2015 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI LÀM CHỨNG 25 2.1. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về người làm chứng 25 2.1.1. Quyền và nghĩa vụ của người làm chứng 25 2.1.2. Một số quy định khác về người làm chứng trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 39 2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về người làm chứng 51 2.2.1. Những kết quả đạt được 51 2.2.2. Những hạn chế 57 2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế: 64 ii
  5. Kết luận Chương 2 67 Chương 3 CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ NGƯỜI LÀM CHỨNG 68 3.1. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về người làm chứng 68 3.1.1. Quy định bổ sung quyền miễn trừ làm chứng 68 3.1.2. Hoàn thiện một số quy định về bảo vệ người làm chứng 71 3.1.3. Bổ sung các quyền khác của người làm chứng khi tham gia một số hoạt động tố tụng 74 3.1.4. Bổ sung quy định về xác định điều kiện trở thành người làm chứng 77 3.1.5. Bổ sung quy định về đãi ngộ người làm chứng 78 3.2. Các giải pháp khác 81 3.2.1. Tổ chức triển khai có hiệu quả Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 nói chung và các quy định về người làm chứng nói riêng; tiến hành sơ kết, tổng kết thực tiễn để tiếp tục hoàn thiện các quy định về người làm chứng 81 3.2.2. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đến toàn thể nhân dân các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về người làm chứng 83 3.2.3. Nâng cao ý thức tôn trọng người làm chứng của Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và nâng cao nhận thức pháp luật của người làm chứng khi tham gia các hoạt động tiến hành tố tụng 85 3.2.4. Phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm quy định Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về người làm chứng, các trường hợp xâm hại hoặc đe dọa xâm hại người làm chứng 88 Kết luận Chương 3 91 KẾT LUẬN 92 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 94 iii
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Cụm từ viết tắt Cụm từ đầy đủ BLHS Bộ luật Hình sự BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự CQCTQTHTT Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng THTT Tiến hành tố tụng TTHS Tố tụng hình sự VAHS Vụ án hình sự iv
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1. Số lượng vụ án hình sự đã thụ lý giải quyết và số lượng 52 người làm chứng tham gia tố tụng tại tỉnh Hải Dương năm 2018 52 Bảng 2.2. Số lượng người làm chứng tham gia tố tụng hính sự trong quá trình giải quyết một số loại tội phạm tại tỉnh Hải Dương năm 2018 53 Bảng 2.3. Số lượng người làm chứng có mặt, vắng mặt tại phiên tòa xét xử sở thẩm hình sự tại tỉnh Hải Dương năm 2018 57 Bảng 2.4. Số liệu các vụ án hình sự đã giải quyết trên toàn quốc và 60 Bảng 2.5. Số liệu các vụ án điều tra, truy tố, xét xử các tội danh theo Điều 382, 383, 384 Bộ luật Hình sự năm 2015 trong 06 tháng đầu năm 2019 trên toàn quốc 60 v
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Người làm chứng là người tham gia tố tụng theo quy định pháp luật TTHS Việt Nam và hầu hết các nước trên thế giới. Sự tham gia vào một số hoạt động tố tụng của người làm chứng góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của nguồn tin về tội phạm, của VAHS, xuất phát từ việc lời khai của họ là nguồn chứng cứ, chứa đựng chứng cứ để xác định có hay không có tội phạm. Theo quy định pháp luật TTHS, người làm chứng tham gia hoạt động TTHS là trách nhiệm, nghĩa vụ bắt buộc khi biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền triệu tập. Nếu không thực hiện đúng theo yêu cầu của các cơ quan có thẩm quyền mà không có lý do chính đáng thì người làm chứng sẽ có thể phải chịu một số biện pháp cưỡng chế, thậm chí phải chịu trách nhiệm hình sự. Việc người làm chứng không có quyền lợi cá nhân khi tham gia TTHS, bị bắt buộc phải chấp hành yêu cầu của CQCTQTHTT nhưng lại phải đối mặt với những nguy cơ có thể bị thiệt hại (bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị người phạm tội, bị hại đe dọa, cưỡng ép, tấn công ) đặt ra vấn đề quy định pháp luật về người làm chứng cần đầy đủ về quyền và đảm bảo họ thực hiện nghĩa vụ của mình một cách tự nguyện, thoải mái về tâm lý và an toàn nhất. Với tinh thần đó, qua các lần ban hành, sửa đổi BLTTHS, các nội dung liên quan đến người làm chứng đều được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung ngày càng hoàn thiện (BLTTHS năm 1988, năm 2003 và gần đây nhất là BLTTHS năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01/01/2018). Tuy nhiên, so với vai trò quan trọng của người làm chứng trong hoạt động TTHS, BLTTHS năm 2015 vẫn chưa ghi nhận đầy đủ và thoả đáng các quyền của người làm chứng, chưa thực sự tạo lập được sự an toàn cho người làm chứng khi tham gia tố tụng. Chính vì vậy, việc nghiên cứu lý luận 1
  9. và thực tiễn các quy định về người làm chứng trong BLTTHS năm 2015 để từ đó kiến nghị một số giải pháp là một yêu cầu cấp thiết nâng cao chất lượng giải quyết nguồn tin về tội phạm và vụ án, góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay, đồng thời bảo vệ tối đa quyền con người, quyền công dân của người làm chứng, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước. Từ những phân tích về ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề cần nghiên cứu, tôi chọn đề tài “Người làm chứng theo Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015” nhằm mục đích có cái nhìn đầy đủ, cụ thể hơn về địa vị pháp lý của người làm chứng và có những giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật để giải quyết một số vướng mắc trong lý luận và thực tế áp dụng. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Cho đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu về đề tài liên quan đến người làm chứng được xây dựng thành đề tài luận văn thạc sỹ gắn với thực tiễn một số các tỉnh thành trong nước như các Luận văn Thạc sỹ luật học đề tài “Bảo vệ quyền con người của người làm chứng trong pháp luật TTHS Việt Nam” của tác giả Trần Thị Thùy Lương (2011); đề tài “Người làm chứng trong luật tố tụng Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu tại tỉnh Đăk Lăk” của tác giả Lê Viết Kiên (2015); đề tài “Địa vị pháp lý của người làm chứng theo pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” (2018). Có một số bài viết khoa học về các vấn đề liên quan người làm chứng như: “Bảo vệ người làm chứng và quyền miễn trừ người làm chứng trong TTHS” của PGS.TS Nguyễn Thái Phúc (Tạp chí Khoa học pháp lý số 3 năm 2007); “Lời khai của người làm chứng trong VAHS” của T.S Trần Quang Tiệp (Tạp chí Khoa học pháp lý số 4 năm 2005); “Một số vấn đề cần chú ý về tâm lý xã hội của người làm chứng” của tác giả Đinh Tuấn Anh (Tạp chí Kiểm sát số 7 năm 2008); “Cần quy định rõ, đầy đủ tư cách pháp lý quyền và nghĩa vụ của 2
  10. người tham gia tố tụng” của tác giả Đinh Văn Lý (Tạp chí Kiểm sát số 17 năm 2009); “Hoàn thiện chế định người làm chứng trong TTHS đảm bảo tính khách quan, minh bạch tại phiên tòa” của Th.S Nguyễn Thị Tuyết (Tạp chí Tòa án nhân dân số 10 năm 2011); “Vấn đề bảo vệ nhân chứng, người tố giác và những người tham gia tố tụng khác” của T.S Phạm Mạnh Hùng (Tạp chí Kiểm sát số 07 năm 2012). Khi BLTTHS năm 2015 được ban hành, các tác giả trên cơ sở nghiên cứu các quy định mới của bộ luật này về người làm chứng cũng có các bài viết trình bày điểm mới về người làm chứng và các vấn đề cần chú ý khi người làm chứng tham gia tố tụng như: “Một số vấn đề về người làm chứng và bảo vệ người làm chứng trong TTHS” của Thạc sĩ Nguyễn Văn Hùng (Tạp chí Khoa học kiểm sát số 06 năm 2016); “Những vấn đề cần lưu ý khi lấy lời khai và kiểm sát lấy lời khai người làm chứng” của tác giả Nguyễn Cao Cường (Tạp chí Kiểm sát số 16 năm 2017). Ngoài ra, còn nhiều các bài viết được đăng tải trên các trang thông tin điện tử của Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và địa phương về nội dung liên quan đến người làm chứng. Các công trình nghiên cứu, bài viết này đã đề cập, phân tích và bình luận về địa vị pháp lý của người làm chứng trong TTHS, bảo vệ người làm chứng trong TTHS và đưa ra những quan điểm cá nhân về các quy định pháp luật về người làm chứng cần hoàn thiện, bổ sung. Qua đó, người đọc nhận thức được vai trò của người làm chứng và những vấn đề mà họ phải đối mặt khi tham gia tố tụng. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về những vấn đề lý luận và thực tiễn về người làm chứng được quy định tại BLTTHS năm 2015. Vì thế, cần tiếp tục nghiên cứu những quy định mới về người làm chứng để tiếp tục chỉ ra những hạn chế, thiếu sót để từ đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện. 3
  11. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Qua nghiên cứu đề tài luận văn, tôi đi sâu phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định về người làm chứng tại BLTTHS năm 2015, đánh giá những ưu điểm và hạn chế trong các quy định pháp luật về vấn đề này, từ đó tìm ra những nguyên nhân và đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về người làm chứng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để giải quyết mục đích nghiên cứu những vấn đề nêu trên, đề tài cần làm rõ vấn đề sau: - Nghiên cứu cơ sở lý luận về khái niệm, địa vị pháp lý, các quy định về bảo vệ người làm chứng và sự tham gia của người làm chứng trong các hoạt động tố tụng theo quy định BLTTHS năm 2015; làm rõ vai trò của người làm chứng. - Phân tích, đánh giá việc thực hiện pháp luật liên quan đến người làm chứng. - Đưa ra những giải pháp hoàn thiện các quy định của BLTTHS năm 2015 và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về người làm chứng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: - Một số vấn đề lý luận về người làm chứng theo quy định BLTTHS năm 2015. Cụ thể là nghiên cứu các quy định của BLTTHS về khái niệm, quyền và nghĩa vụ của người làm chứng, bảo vệ người làm chứng và các thủ tục tố tụng liên quan đến người làm chứng. - Thực trạng áp dụng pháp luật về người làm chứng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài Phạm vi luận văn tập trung nghiên cứu quy định của BLTTHS năm 4
  12. 2015 về khái niệm người làm chứng, quyền và nghĩa vụ của người làm chứng và các quy định về người làm chứng khác trên cơ sở lý luận và thực tiễn; trách nhiệm của các CQCTQTHTT trong việc đảm bảo quyền của người làm chứng. Luận văn nghiên cứu trong phạm vi tỉnh Hải Dương. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng số liệu tổng hợp, báo cáo trong phạm vi toàn quốc và một số vụ việc xảy ra trên địa bàn tỉnh Hải Dương và Thành phố Hồ Chí Minh. Mốc thời gian nghiên cứu của đề tài là từ 01/01/2018 đến 30/6/2019 để làm rõ việc áp dụng pháp luật về người làm chứng theo quy định BLTTHS năm 2015. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu đề tài này là lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về cải cách tư pháp và bảo vệ quyền con người. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: So sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê. Đồng thời, tác giả sử dụng những số liệu thống kê, báo cáo tổng kết năm 2018 của Công an tỉnh Hải Dương, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương; báo cáo tổng kết năm 2018, số liệu thống kê 06 tháng đầu năm 2019 của Viện kiểm sát nhân tối cao; nghiên cứu hồ sơ, bản án của Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương; Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và tổng hợp các tri thức khoa học pháp luật TTHS, các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong đề tài. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 6.1. Về mặt lý luận Đề tài nghiên cứu một cách có hệ thống một số vấn đề lý luận và quy 5
  13. định của BLTTHS năm 2015 về người làm chứng; phân tích khái niệm, vai trò, địa vị pháp lý của người làm chứng trong hoạt động TTHS. Trên cơ sở đó đề ra các giải pháp nâng cao chất lượng bảo vệ quyền của người làm chứng khi họ tham gia các hoạt động tố tụng góp phần quan trọng trong việc giải quyết các VAHS của các CQCTQTHTT. 6.2. Về mặt thực tiễn Đề tài là công trình nghiên cứu về vấn đề người làm chứng quy định tại BLTTHS năm 2015 và thực tiễn áp dụng các quy định đó. Những kết quả nghiên cứu phục vụ yêu cầu thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả tham gia tố tụng người làm chứng, đồng thời bảo vệ họ trong đấu tranh phòng chống tội phạm, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay. 7. Cơ cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài gồm 3 chương. Chương 1: Một số vấn đề lý luận về người làm chứng trong pháp luật TTHS Chương 2: Quy định của BLTTHS năm 2015 và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về người làm chứng Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật TTHS về người làm chứng 6
  14. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI LÀM CHỨNG TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm và đặc điểm về người làm chứng trong tố tụng hình sự 1.1.1. Khái niệm về người làm chứng Người làm chứng là thuật ngữ thông dụng không chỉ trong lĩnh vực pháp lý mà “người làm chứng” hay “nhân chứng” còn là thuật ngữ thường dùng quen thuộc trong đời sống xã hội. Theo Từ điển Tiếng Việt, “làm chứng” được hiểu là kể lại và xác nhận những điều mình biết [15]. Trong Tiếng Anh, người làm chứng được viết là “eye-witness” dùng để chỉ một người đã tận mắt nhìn thấy điều gì đó xảy ra và do đó có thể đưa ra mô tả trực tiếp về nó [16]. Theo Từ điển Pháp luật Anh – Việt, “eye-witness” là người chứng mục kích, chứng nhân mắt thấy [6, tr161]. Như vậy, dưới góc độ ngôn ngữ, người làm chứng được hiểu là một con người cụ thể trong xã hội biết được nội dung sự việc xảy ra và có thể mô tả lại sự việc đó. Trong lịch sử pháp luật TTHS Việt Nam và trên thế giới, chế định người làm chứng là một trong những chế định lâu đời bởi bất kể trong giai đoạn lịch sử nào có tội phạm đều có thể xuất hiện tư cách tố tụng người làm chứng. Ở nước ta, BLTTHS năm 2003 đã đề cập đến những đặc điểm của người làm chứng nhưng chưa cụ thể hóa khái niệm người làm chứng. Cho đến khi BLTTHS năm 2015 được ban hành, khái niệm người làm chứng mới được ghi nhận một cách khái quát, cũng có điểm tương đồng với các quan điểm về khái niệm người làm chứng được các nhà nghiên cứu trước đó đưa ra nhưng rõ ràng hơn, đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật lập pháp. Trong BLTTHS năm 2015, khái niệm người làm chứng và địa vị pháp lý người làm chứng được quy định tại Chương IV: Người tham gia tố tụng. Điều 55 BLTTHS năm 7
  15. 2015 quy định về diện những người tham gia tố tụng, trong đó có người làm chứng. Điểm c khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015 đã giải thích cụ thể: “Người tham gia tố tụng là cá nhân, cơ quan, tổ chức tham gia hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này”. Theo đó, người làm chứng là trước hết người tham gia tố tụng theo quy định của BLTTHS năm 2015. Họ tham gia tố tụng vì pháp luật TTHS quy định cho họ có nghĩa vụ phải tham gia vào quá trình giải quyết VAHS, thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình với tư cách cá nhân không mang quyền lực nhà nước. Khi tham gia tố tụng, người làm chứng không có quyền lợi cá nhân mà chỉ là người có nghĩa vụ do CQCTQTHTT triệu tập để góp phần giải quyết VAHS. Về khái niệm người làm chứng quy định trong BLTTHS năm 2015 đã kế thừa, đồng thời bổ sung và khái quát tư cách tham gia tố tụng được quy định trong BLTTHS năm 2003. Khoản 1 Điều 66 BLTTHS năm 2015 quy định về khái niệm người làm chứng như sau: “Người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền THTT triệu tập đến làm chứng”. Quy định về khái niệm người làm chứng trên thể hiện sự tiến bộ về kỹ thuật lập pháp. So với quy định về khái niệm người làm chứng tại Khoản 1 Điều 55 BLTTHS năm 2003: “Người nào biết được những tình tiết liên quan đến vụ án đều có thể được triệu tập đến làm chứng”, khái niệm người làm chứng trong BLTTHS năm 2015 có ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu về mặt pháp lý, thể hiện sự chặt chẽ về mặt kỹ thuật lập pháp, đã bao hàm được cơ bản các đặc điểm của người làm chứng, khái quát lý do tham gia TTHS của người làm chứng cũng như thủ tục và giai đoạn tố tụng mà người làm chứng tham gia. Theo đó, dưới góc độ pháp luật thực định, người làm chứng là người tham gia tố tụng bởi họ biết được người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền THTT triệu tập đến làm chứng. Giáo 8
  16. trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội cũng đưa ra khái niệm người làm chứng với nội dung theo quy định tại Khoản 1 Điều 66 BLTTHS năm 2015. Như vậy, người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền THTT triệu tập đến làm chứng [19, tr158]. Từ khái niệm người làm chứng nêu ở trên, có thể hiểu người làm chứng dưới các khía cạnh sau: Về chủ thể: Người làm chứng là một con người cụ thể tham gia tố tụng hình sự. Tổ chức hay pháp nhân không thể là người làm chứng vì một tổ chức hay pháp nhân không thể có nhận thức để biết được những tình tiết liên quan bởi quá trình nhận thức cũng như phản ánh hiện thực khách quan chỉ có ở con người cụ thể. Về cơ sở tham gia tố tụng của người làm chứng: Một người được xác định là người tham gia tố tụng với tư cách pháp lý người làm chứng bởi người đó biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về VAHS. Việc biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về VAHS này không có mối quan hệ nhân quả với sự kiện pháp lý đã xảy ra. Những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án mà người làm chứng biết được là do khách quan mang lại, hoàn toàn không có tác động chủ quan của người làm chứng. Mỗi người biết được một hay nhiều các tình tiết liên quan đó đều có thể tham gia với tư cách tố tụng là người làm chứng. Về căn cứ phát sinh tư cách tố tụng của người làm chứng: Một người chính thức có tư cách pháp lý là người làm chứng khi họ được CQCTQTHTT triệu tập đến làm chứng theo quy định pháp luật. Về cơ bản thì ngay cả khi một người biết được hành vi có dấu hiệu tội phạm đã xảy ra nhưng chưa tham gia tố tụng ngay với tư cách người làm chứng mà phải cho đến khi cơ quan có thẩm quyền xác định họ là người làm chứng thông qua hành vi triệu tập đến 9
  17. trình bày những tình tiết mà họ biết. Về thời điểm tham gia tố tụng của người làm chứng: Theo quy định BLTTHS năm 2015, cần lưu ý người làm chứng tham gia tố tụng từ giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm. Trước khi BLTTHS có hiệu lực, người tuy biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm không có tư cách tố tụng là người làm chứng vì BLTTHS năm 2003 và trước nữa là BLTTHS năm 1988 không quy định điều này. BLTTHS năm 2015 đã bổ sung quy định định thời điểm người làm chứng tham gia tố tụng sớm hơn, kể từ khi cơ quan có thẩm quyền xác minh các nguồn tin về tội phạm. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng, vững chắc để người làm chứng thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong giai đoạn cơ quan có thẩm quyền giải quyết tin báo, tố giác và kiến nghị khởi tố. Đồng thời, làm căn cứ xác định rõ cơ chế, biện pháp bảo vệ người làm chứng từ khi giải quyết nguồn tin về tội phạm, tạo tâm lý an tâm cho người làm chứng khi tham gia tố tụng, nhất là những vụ án phức tạp, có tổ chức. Về mục đích tham gia tố tụng của người làm chứng: Hành vi của người làm chứng không có mối quan hệ nhân quả với sự kiện pháp lý đã xảy ra nên việc tham gia tố tụng của họ không liên quan đến lợi ích cá nhân của chính họ mà vì mục đích chung là làm sáng tỏ sự thật khách quan. Khi tham gia tố tụng, người làm chứng thực hiện nghĩa vụ trình bày trung thực về những sự việc cần xác minh trong vụ án theo yêu cầu của CQCTQTHTT. Lời trình bày của của người làm chứng là nguồn chứng cứ quan trọng trong việc chứng minh có hay không có tội phạm xảy ra. 1.1.2. Đặc điểm về người làm chứng Thứ nhất, người làm chứng là người tham gia tố tụng vì biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án. Việc biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về 10
  18. vụ án là điều kiện cần để xác định một người nào đó tham gia tố tụng với tư cách pháp lý là người làm chứng. Những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án mà người làm chứng biết được có ý nghĩa quan trọng, góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan nguồn tin về tội phạm, về vụ án. Những tình tiết đó rất có thể là câu trả lời cho những vấn đề cần chứng minh trong VAHS quy định tại Điều 85 BLTTHS năm 2015. Về lý luận và thực tiễn, không phải trong quá trình giải quyết nguồn tin về tội phạm hay VAHS nào cũng có người làm chứng. Có người làm chứng tham gia tố tụng hay không cần phụ thuộc vào, hoàn cảnh khách quan, không gian, thời gian xảy ra sự kiện pháp lý có đủ điều kiện để người nào đó chứng kiến được các tình tiết liên quan hay không. Do đó, quá trình giải quyết một nguồn tin về tội phạm, giải quyết một VAHS có thể không có người làm chứng, có thể chỉ có một người làm chứng nhưng cũng có thể có nhiều người làm chứng. Trong số những người làm chứng, có người biết toàn bộ những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án, có người chỉ biết được một hoặc một số tình tiết đó tùy theo thời điểm mà do ngẫu nhiên, tình cờ hay do ý thức cảnh giác đấu tranh phòng chống tội phạm mà họ biết được. Người làm chứng có mặt tại hiện trường trước, trong và sau khi xảy ra vụ việc, vụ án, những người xung quanh hiện trường sẽ biết được các tình tiết về hành vi người phạm tội khi chuẩn bị phạm tội, khi gây án, những thủ đoạn che giấu tội phạm, thời gian, địa điểm, người thực hiện hành vi, thiệt hại, hậu quả Người làm chứng cùng sống và làm việc với bị hại hoặc người thực hiện hành vi phạm tội biết được đặc điểm nhân thân điều kiện, hoàn cảnh sống của họ, Trong vụ việc, VAHS, những gì mà người làm chứng biết được là những nét phác họa cơ bản, bên cạnh những dấu vết vật chất tội phạm để lại tạo nên bức tranh toàn cảnh nguồn tin về tội phạm, về vụ án. Trong nguồn tin về tội phạm hoặc vụ án hình sự, người tham gia tố 11
  19. tụng như người bị buộc tội, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án cũng biết được một hoặc nhiều tình tiết nguồn tin về tội phạm, vụ án hình sự do trực tiếp liên quan đến sự kiện pháp lý. Tuy nhiên, những tình tiết mà những người tham gia tố tụng nói trên biết được bao gồm cả những tình tiết liên quan đến lợi ích của họ khi tham gia các hoạt động tố tụng nên có thể một phần hoặc toàn bộ lời khai của họ về những gì họ biết được không đảm bảo khách quan, chính xác. Bên cạnh đó, đối với những người tham gia tố tụng khác như người chứng kiến; người giám định; người định giá tài sản; người phiên dịch, người dịch thuật; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố chỉ biết được các tình tiết liên quan khi tham gia tiến hành hoạt động tố tụng theo chức năng, nhiệm vụ của mình, khác hẳn với việc “biết được” của người làm chứng là biết được đồng thời khi sự kiện pháp lý xảy ra. Người làm chứng có thể trực tiếp biết các tình tiết có liên quan đến vụ án, họ cũng có thể gián tiếp biết các tình tiết đó qua người khác [19, tr158]. Trực tiếp biết được là việc người làm chứng có mặt và chứng kiến những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án. Gián tiếp biết được là việc người làm chứng không có mặt, không được chứng kiến sự việc xảy ra nhưng được nghe người khác thuật lại, kể lại. Do biết được qua trung gian nên lời khai của người làm chứng biết được gián tiếp các tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án (chứng cứ thuật lại) có độ tin cậy ít hơn so với lời khai của người làm chứng biết được trực tiếp (chứng cứ gốc). Tuy nhiên, việc người làm chứng trực tiếp hay gián tiếp biết được chỉ có giá trị trong việc đánh giá chứng cứ được cung cấp mà không ảnh hưởng đến tư cách tố tụng là người làm chứng của họ. Khi làm việc với người làm chứng để xác minh những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án, người THTT cần xem xét, đánh giá 12
  20. lời khai của họ về sự kiện pháp lý có chính xác hay không bằng việc làm rõ lý do mà người làm chứng biết được các tình tiết liên quan, xem xét ở cương vị, điều kiện công tác; không gian, thời gian làm việc; hoạt động và mối quan hệ của họ có thể cho phép họ biết rõ các tình tiết như họ đã trình bày trước cơ quan có thẩm quyền hay không; việc nhận thức được các tình tiết đó là rõ ràng hay chỉ là phỏng đoán, thông qua hình thức trực tiếp hay gián tiếp Thứ hai, người làm chứng có khả năng nhận thức đúng đắn về một sự việc và có khả năng khai báo đúng đắn về sự việc đó. Theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 66 BLTTHS năm 2015, người do nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức được những tình tiết liên quan nguồn tin về tội phạm, về vụ án hoặc không có khả năng khai báo đúng đắn thì không được làm chứng. Điều đó có nghĩa là người làm chứng phải là người có khả năng nhận thức đúng đắn về một sự việc và có khả năng khai báo đúng đắn về sự việc đó [19, tr159]. Theo Từ điển Tiếng Việt, “nhận thức” là kết quả của quá trình phản ánh và tái hiện hiện thực vào trong tư duy; kết quả con người nhận biết, hiểu biết thế giới khách quan [17]. Có khả năng nhận thức được những tình tiết liên quan nguồn tin về tội phạm, về vụ án là việc người làm chứng có khả năng phản ánh vào trong tư duy những tình tiết tiết liên quan nguồn tin về tội phạm, về vụ án mình đã quan sát được bằng tất cả các giác quan. Khả năng khai báo đúng đắn là khả năng tái hiện lại những tình tiết tiết liên quan nguồn tin về tội phạm, về vụ án đã được phản ánh vào trong tư duy bằng cách thức khác nhau như nói, viết, vẽ Một người không có nhược điểm về thể chất và tâm thần hoàn toàn có khả năng nhận thức được những tình tiết liên quan nguồn tin về tội phạm, về vụ án và có khả năng khai báo đúng đắn. BLTTHS năm 2015 cũng như các văn bản pháp luật trong lĩnh vực TTHS, hình sự chưa có quy định giải thích cụ thể về tình trạng người có 13
  21. “nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất ”, tuy nhiên theo ý kiến tác giả, nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có thể được hiểu là người khuyết tật. Theo Khoản 1 Điều 2 Luật Người khuyết tật, người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn. Có nhiều dạng tật khác nhau như khuyết tật vận động; khuyết tật nghe, nói; khuyết tật nhìn; khuyết tật thần kinh, tâm thần; khuyết tật trí tuệ với các mức độ nhẹ, nặng và đặc biệt nặng [10, Điều 3]. Người khuyết tật mặc dù là người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất nhưng hoàn toàn có thể vẫn có khả năng nhận thức được những tình tiết liên quan nguồn tin về tội phạm, về vụ án; có khả năng khai báo đúng đắn và tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng. Việc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có nhận thức và khai báo đúng đắn được hay không phụ thuộc vào loại, mức độ nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất (dạng tật, mức độ khuyết tật) của họ và cách thức mà họ nhận thức được những tình tiết liên quan nguồn tin về tội phạm, về vụ án. Một người bị giảm hoặc mất chức năng cử động đầu, cổ, chân, tay, thân mình dẫn đến hạn chế trong vận động, di chuyển (khuyết tật vận động) nhưng tinh thần minh mẫn, việc nhìn, nghe, nói bình thường thì họ vẫn có tư cách là người làm chứng bởi có khả năng nhận thức được những tình tiết liên quan nguồn tin về tội phạm, về vụ án và có khả năng khai báo đúng đắn. Thậm chí, có người mất chức năng nghe, nói dẫn đến hạn chế trong giao tiếp, trao đổi thông tin bằng lời nói (khuyết tật nghe, nói) vẫn có thể làm chứng nếu như họ còn chức năng nhìn và trình bày bằng chữ viết những tình tiết đã chứng kiến Người bị mù hai mắt (khuyết tật nhìn) không thể nhìn thấy nhưng vẫn có khả năng nghe thấy và khai báo các tình tiết đã nghe được Do đó, nếu các nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hay các khiếm khuyết trên cơ thể không ảnh hưởng đến khả năng nhận thức được những tình 14
  22. tiết liên quan nguồn tin về tội phạm, về vụ án, họ vẫn có khả năng khai báo đúng đắn thì vẫn có thể tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng. Vì chưa có quy định cụ thể nên căn cứ để xác định người nào có nhược điểm về thể chất cũng chưa rõ ràng, chủ yếu thông qua phương pháp quan sát trực tiếp và các phương pháp đơn giản khác để kết luận. Sau khi có cơ sở người làm chứng là người có nhược điểm về thể chất, cơ quan có thẩm quyền cần xem xét đến khả năng nhận thức được những tình tiết liên quan nguồn tin về tội phạm, về vụ án, khả năng khai báo đúng đắn của người đó để quyết định có triệu tập đến làm việc với tư cách là người làm chứng hay không. Riêng với trường hợp có nhược điểm về tâm thần, Điều 206 BLTTHS năm 2015 có quy định về giám định tình trạng tâm thần của người làm chứng. Theo đó, trong trường hợp có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức, khả năng khai báo đúng đắn về những tình tiết của vụ án của người làm chứng, CQCTQTHTT bắt buộc phải trưng cầu giám định tình trạng tâm thần của họ [11, Điều 206]. Việc trưng cầu giám định tình trạng tâm thần khi có nghi ngờ là chính đáng vì trong trường hợp người làm chứng có nhược điểm về tâm thần chỉ qua tiếp xúc hoặc quan sát thông thường không thể chính xác. Thời hạn giám định đối với trường hợp này là không quá 03 tháng [11, Điều 208]. Quy định này giúp CQCTQTHTT xác định người có đủ điều kiện là người làm chứng, đảm bảo tính chính xác của những thông tin mà người làm chứng cung cấp. Đồng thời cũng hạn chế việc người có thể làm chứng lạm dụng quy định này để trốn tránh việc làm chứng. Người làm chứng có khả năng nhận thức được những tình tiết liên quan nguồn tin về tội phạm, về vụ án, có khả năng khai báo đúng đắn nhưng không đồng nghĩa với việc họ sẽ trình bày trung thực, chính xác những tình tiết mà họ biết bởi còn phụ thuộc vào nhận thức của người làm chứng về nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng cũng như mối quan hệ của người làm chứng. 15