Luận văn Người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thái Nguyên)

pdf 89 trang vuhoa 23/08/2022 9440
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thái Nguyên)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_nguoi_bi_hai_trong_phap_luat_to_tung_hinh_su_viet_n.pdf

Nội dung text: Luận văn Người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thái Nguyên)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM THỊ LAN ANH Ng•êi bÞ h¹i trong ph¸p luËt tè tông h×nh sù ViÖt Nam (Trªn c¬ së thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh Th¸i Nguyªn) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM THỊ LAN ANH Ng•êi bÞ h¹i trong ph¸p luËt tè tông h×nh sù ViÖt Nam (Trªn c¬ së thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh Th¸i Nguyªn) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ LAN CHI HÀ NỘI - 2016
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Phạm Thị Lan Anh
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI BỊ HẠI TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 6 1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại người bị hại trong tố tụng hình sự 6 1.1.1. Khái niệm 6 1.1.2. Đặc điểm của người bị hại 12 1.1.3. Phân loại người bị hại 14 1.2. Địa vị pháp lý của người bị hại trong luật tố tụng hình sự 17 1.2.1. Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự 18 1.2.2. Nghĩa vụ của người bị hại 20 1.3. Người bị hại trong luật tố tụng hình sự một số quốc gia trên thế giới 20 1.3.1. Người bị hại trong luật tố tụng hình sự Liên bang Nga 20 1.3.2. Người bị hại trong luật tố tụng hình sự Cộng hòa liên bang Đức 24 1.3.3. Người bị hại trong luật tố tụng hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 26 Tiểu kết Chương 1 27 Chương 2. QUY ĐỊNH VỀ NGƯỜI BỊ HẠI TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG VIỆT NAM VÀ VIỆC THỰC CÁC QUY ĐỊNH VỀ NGƯỜI BỊ HẠI QUA THỰC TIỄN TỐ TỤNG TỈNH THÁI NGUYÊN 28 2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về người bị hại 28 2.1.1.Thời kỳ trước năm 2003 28 2.1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về quyền và nghĩa vụ
  5. của người bị hại 31 2.2. Thực trạng thực hiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về người bị hại tại tỉnh Thái Nguyên 41 2.2.1. Tình hình thụ lý, giải quyết các vụ án hình sự của Toà án hai cấp tỉnh Thái Nguyên trong những năm gần đây 41 2.2.2. Thực tiễn áp dụng quy định về người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên 42 2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc thực hiện quy định về người bị hại theo Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên 50 2.3.1. Nhận thức về quyền của người bị hại chưa đầy đủ 50 2.3.2. Hệ thống quy phạm pháp luật về người bị hại chưa hoàn thiện 53 2.3.3. Cơ chế bảo đảm quyền của người bị hại chưa hiệu quả 54 Tiểu kết Chương 2 55 Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN HIỆU QUẢ QUY ĐỊNH VỀ NGƯỜI BỊ HẠI TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 56 3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật 56 3.1.1. Một số điểm mới về người bị hại trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 56 3.1.2. Một số kiến nghị cụ thể 64 3.2. Một số giải pháp khác 70 3.2.1. Nâng cao nhận thức về quyền của người bị hại 70 3.2.2. Thực hiện hiệu quả Thông tư 13/2013/TTLT-BCA-BQP-VKSNDTC- TANDTC về bảo vệ người làm chứng, người bị hại, người tố giác tội phạm 71 3.2.3. Nâng cao trình độ pháp lý nghiệp vụ, ý thức trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp của những người tiến hành tố tụng 71 3.2.4. Xã hội hoá các biện pháp hỗ trợ người bị hại 72
  6. Tiểu kết Chương 3 73 KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 78
  7. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự HĐXX: Hội đồng x t x KSV: Kiểm sát viên TAND: Tòa án nhân dân TNHS: Trách nhiệm hình sự TTHS: Tố tụng hình sự VKS: Viện kiểm sát
  8. DANH MỤC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang Bảng 2.1: Số liệu x t x của Toà án nhân dân 2 cấp tỉnh Thái Nguyên giai đoạn từ năm 2011 đến hết năm 2015 42 Bảng 2.2: Số vụ khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại 43
  9. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Người bị hại (NBH) là người bị tội phạm gây thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản do tội phạm gây ra. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, người bị hại là chủ thể cần được quan tâm đặc biệt bởi họ không chỉ có vai trò làm sáng tỏ sự thật của vụ án, mà họ còn là đối tượng có nguy cơ tổn thương “k p” do họ là người bị tội phạm trực tiếp gây thiệt hại, phải gánh chịu những hậu quả do tội phạm gây ra mà họ hoàn toàn không mong muốn, bên cạnh đó trong nhiều trường hợp họ còn phải chịu áp lực từ các cơ quan tố tụng thậm chí trong nhiều trường hợp là bị thiệt hại do cơ quan tiến hành, tố tụng, báo chí hoặc dư luận xã hội gây ra và việc tôn trọng, bảo vệ người bị hại còn góp phần thực thi công lý, thể hiện bản chất nhân văn, dân chủ của pháp luật và hệ thống tư pháp hình sự. Trong quá trình hoàn thiện pháp luật Tố tụng hình sự (TTHS) và cải cách tư pháp ở nước ta, quyền con người trong lĩnh vực TTHS nói chung và quyền của người bị hại ngày càng được ghi nhận đầy đủ hơn, thể hiện qua các bước tiến của Bộ luật TTHS (BLTTHS) năm 2003, 2015 và các văn bản dưới luật được ban hành, lần đầu tiên đã có hành lang pháp lý để bảo đảm an toàn tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người bị hại và người thân thích của họ trước nguy cơ bị đe doạ như: quyền được yêu cầu bảo vệ tính mạng, sức khỏe, các quyền và lợi ích hợp pháp khi tham gia tố tụng, quyền đề nghị bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và TTHS cho thấy, NBH là người chịu nhiều “thiệt thòi” trong số những người tham gia tố tụng: vị trí vai trò của NBH chưa được các Cơ quan tiến hành tố tụng (THTT) quan tâm (ngoại trừ những trường hợp khởi tố theo yêu cầu của NBH) thì mọi sự tham gia của chủ thể này vào việc giải quyết vụ án hình sự (VAH) hầu hết là bị động 1
  10. (được xem là nghĩa vụ nhiều hơn là quyền). Sự có mặt của họ trong các khâu, qui trình giải quyết vụ án (như khởi tố, Điều tra, thu thập chứng cứ hay quá trình x t x tại tòa ) chỉ đóng vai trò là một bên tham gia thụ động, các ý kiến hay nguyện vọng của NBH không ảnh hưởng đến kết quả hay diễn biến của TTHS. Việc buộc tội của người bị hại tại phiên toà mà họ có quyền này chỉ mang tính chất hình thức. Ngay cả chính bản thân NBH cũng không hoặc chưa ý thức được đầy đủ vị trí, vai trò và quyền năng tố tụng của mình trong các giai đoạn khởi tố, Điều tra, truy tố, x t x và thi hành án hình sự. Thực tế đó cho thấy các cơ quan tiến hành tố tụng chưa có nhận thức đúng, chưa có cơ chế bảo đảm thực hiện quyền của người bị hại và đặc biệt, một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng trên là những bất cập của pháp luật TTHS ghi nhận chưa đầy đủ, chưa thoả đáng các quyền của người bị hại, chưa tạo lập được một hành lang pháp lý hợp lý để thực thi các quyền và nghĩa vụ của người bị hại. Do vậy tôi chọn nghiên cứu đề tài: "Người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thái Nguyên)” nhằm góp phần giải quyết một số vướng mắc trong lý luận và thực tế áp dụng, qua đó góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS về người bị hại ở Việt Nam hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu Hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu về người bị hại trong TTHS Việt Nam, tiêu biểu như: - Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Thị Mai (2014), “Quyền của người bị hại trong TTHS”, Viện khoa học và Xã hội Việt Nam; Luận văn thạc sỹ Luật học của tác giả Lê Nguyên Thanh (2012), “Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong TTHS”, trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh; - Các bài nghiên cứu, bài viết liên quan đến đề tài này được công bố trên các tạp chí 2
  11. khoa học chuyên ngành như: Bàn về việc tòa án cấp phúc thẩm có được thay đổi tư cách của người tham gia tố tụng khi xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm xác định không đúng, Tạp chí Tòa án số 24/2005; Một số vướng mắc khi giải quyết vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, Tạp chí kiểm sát số 7/2008; Một số vấn đề cần chú ý khi xác định người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự, Tạp chí Toà án số 13/2008; Người bị hại trong TTHS, Tạp chí khoa học pháp lý số 01/2007; Quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng tại phiên tòa hình sự phúc thẩm, Tạp chí Tòa án số 5/2004; Tư cách của người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự tại phiên tòa phúc thẩm, Tạp chí Tòa án số 4/2008; Việc quy định những người tham gia tố tụng trong Bộ luật TTHS, Tập san Tòa án số 4/2000; Xác định tư cách người tham gia TTHS, Tập san Tòa án số 12/1999 Các công trình trên đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau của các quy định trong pháp luật về quyền của người bị hại trong TTHS. Tuy nhiên, trước những thay đổi đáng kể của BLTTHS năm 2015 với các s a đổi, bổ sung quy định về người bị hại, thủ tục đặc biệt bảo vệ người bị hại cần được xem x t. Việc tiếp cận các vấn đề trên cơ sở các quy định của pháp luật TTHS về quyền của người bị hại để đi sâu nghiên cứu thực tế thực thi trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên qua đó đánh giá tìm ra các bất cập và các giải pháp hạn chế bất cập chưa được nghiên cứu trước đó. Do vậy, đây là luận văn thạc sỹ luật học đầu tiên nghiên cứu vấn đề người bị hại trong TTHS từ giác độ tiếp cận này. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận để có được nhận thức toàn diện, có hệ thống về người bị hại trong TTHS, trên cơ sở thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, luận văn tìm ra các giải pháp nhằm khắc phục những bất cập của pháp luật TTHS và các giải pháp bảo đảm trên thực tế việc thực hiện các quyền và 3
  12. nghĩa vụ của người bị hại trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Từ mục tiêu nghiên cứu được xác định như trên, luận văn phải thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau: Thứ nhất, phân tích làm rõ khái niệm NBH, quyền của NBH trong TTHS Việt Nam, xác định rõ cơ sở pháp lý và nội dung các quyền của NBH; nghiên cứu so sánh lịch s hình thành và phát triển quyền của NBH trong hệ thống tư pháp hình sự thế giới và Việt Nam; xác định nội dung cơ bản của các quyền và nghĩa vụ của NBH trong TTHS và các cơ chế, Điều kiện bảo đảm hiện thực hóa các quyền đó trong Điều kiện thực tế của Việt Nam. Thứ hai, đánh giá thực trạng các qui định pháp luật về quyền của NBH và thực trạng thực hiện quyền của NBH ở Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên, bao gồm: làm rõ nội dung quyền của NBH và nghĩa vụ thực thi của cơ quan THTT, người THTT; luận giải, mô tả, minh chứng bằng các số liệu, tình huống điển hình về bức tranh hiện thực phản ánh việc thực hiện quyền của NBH, thực trạng bảo đảm và thực thi của cơ quan THTT trong việc bảo đảm quyền của NBH trong TTHS Việt Nam; Thứ ba, đưa ra các luận giải và kiến nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và hoàn thiện các cơ chế bảo đảm quyền của NBH phù hợp với tình hình của Việt Nam nói chung và trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật TTHS về người bị hại. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản về người bị hại trong pháp luật TTHS và đi sâu nghiên cứu thực tiễn thực thi các quy định về quyền, nghĩa vụ của NBH trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, từ năm 2011 đến năm 2015. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ 4
  13. nghĩa duy vật lịch s , luận văn triển khai một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp: hệ thống, logic, phân tích, tổng hợp, so sánh, khảo sát thực tế để chọn lọc tri thức khoa học, kinh nghiệm thực tiễn liên quan đến những vấn đề người bị hại trong TTHS, từ đó làm sáng tỏ nội dung của luận văn. 6. Tính mới và những đóng góp của đề tài Kế thừa những đề tài nghiên cứu về quyền của người bị hại trong Luật TTHS trước đó, đề tài đưa ra những nghiên cứu mới về cơ sở lý luận, về luật thực định, về các quy định của BLTTHS năm 2015 đối với địa vi pháp lý của người bị hại cũng như những bất cập đang tồn tại trong thực tiễn áp dụng tại tỉnh Thái Nguyên, và đưa ra một số giải pháp tương. 7. Cấu trúc của luận văn Cấu trúc luận văn gồm ba phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Phần nội dung gồm ba chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự Chương 2: Quy định về người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và việc thực hiện các quy định về người bị hại qua thực tiễn tố tụng tỉnh Thái Nguyên Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và thực hiện hiệu quả quy định về người bị hại trong tố tụng hình sự 5
  14. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI BỊ HẠI TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại người bị hại trong tố tụng hình sự 1.1.1. Khái niệm Theo Từ điển tiếng Việt, “người bị hại là người chịu sự tác động tiêu cực của việc, hành vi hoặc sự bất kỳ sự tác động nào khác dẫn đến những thiệt thòi, mất mát hay tổn thương cho chính họ” [49]. Thiệt hại gây ra cho người bị hại có thể là thiệt hại về vật chất hoặc phi vật chất và không giới hạn mức độ thiệt hại Người bị hại là một khái niệm quen thuộc trong khoa học pháp lý TTHS. Tuy nhiên, thế nào là người bị hại, phạm vi người bị hại thì cho đến nay vẫn chưa có sự nhận thức thống nhất, các ý kiến còn khác nhau. Để có sự nhận thức đầy đủ và thống nhất về khái niệm người bị hại cần tiếp cận khái niệm này dưới những góc độ khác nhau, phân biệt với một số khái niệm liền kề như phân biệt khái niệm người bị hại với khái niệm nạn nhân, người bị hại với khái niệm đối tượng tác động của tội phạm, khái niệm người bị hại với khái niệm người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan [5]. Theo chúng tôi đây là những khái niệm gần nhau nhưng không đồng nhất với nhau. Thứ nhất: Nạn nhân có phải là người bị hại không? Trả lời câu hỏi này, có quan điểm cho rằng người bị hại chính là nạn nhân của tội phạm. Điều đó đúng nhưng chưa đủ. Nội dung khái niệm người bị hại có nội hàm hẹp hơn so với khái niệm nạn nhân của tội phạm. Như đã biết, hành vi phạm tội luôn gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ. Để gây ra những thiệt hại cho những quan hệ này, hành vi phạm tội đã tác động, đã gây thiệt hại cho một số cá nhân, tổ chức. Trong 6
  15. khi đó “Nạn nhân của tội phạm là những cá nhân, tổ chức bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại, gây ra những thiệt hại về thể chất, về tinh thần, tài sản hoặc các quyền, lợi ích hợp pháp khác” [48]. Như vậy, nạn nhân của tội phạm ngoài cá nhân còn có thể là tổ chức, pháp nhân; thiệt hại của nạn nhân không chỉ về thể chất, về tinh thần, về tài sản mà còn có thể bao hàm những thiệt hại về các quyền và các lợi ích hợp pháp khác, thiệt hại đó có thể bao gồm cả những thiệt hại gián tiếp; hơn nữa nạn nhân chỉ khi tham gia quan hệ pháp luật TTHS mới được xem là người bị hại. Thứ hai: “Đối tượng tác động của tội phạm là một bộ phận khách thể của tội phạm bị hành vi phạm tội tác động đến, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại” [50]. Đối tượng tác động của tội phạm không chỉ là con người mà còn bao gồm các đối tượng vật chất khác và các hoạt động bình thường của chủ thể. Trong khi đó con người – nạn nhân bị tội phạm xâm phạm về thể chất, tinh thần và các quyền tự do dân chủ, họ chính là một trong số các đối tượng tác động của tội phạm. Thứ ba: Người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án cũng có điểm giống nhau về quyền yêu cầu đối với những thiệt hại mà tội phạm đã gây ra như quyền yêu cầu về vấn đề bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản bị xâm hại. Nhưng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án còn có thể có yêu cầu CQTHTT giải quyết vấn đề về tài sản khi tài sản của họ có liên quan đến việc giải quyết vụ án và tài sản này không phải là đối tượng mà tội phạm tác động tới mà chỉ bị người phạm tội s dụng làm công cụ, phương tiện phạm tội hoặc bị CQTHTT kê biên cùng tài sản của người phạm tội. Trong những trường hợp cụ thể để xác định người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đối với những tội danh mà ngay tên tội đã thể hiện đối tượng tác động (là tính mạng, sức khỏe, danh dự, tài sản ) thì người bị thiệt hại được xác 7
  16. định là người bị hại. Còn đối với những tội danh khác, để tránh sự nhầm lẫn trong việc xác định tư cách của người bị hại với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thường căn cứ vào mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại với hành vi mà người phạm tội đã thực hiện. - Nếu thiệt hại là kết quả trực tiếp của hành vi phạm tội, phù hợp với mục đích của người phạm tội thì người bị thiệt hại được xác định là người bị hại. - Nếu thiệt hại không phải là kết quả trực tiếp của hành vi phạm tội, không có mối liên hệ mật thiết với hành vi phạm tội, không phù hợp với mục đích của người phạm tội thì người bị thiệt hại được xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Thứ tư: “nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về vật chất và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại” [27, Điều 52]. Như vậy, nguyên đơn dân sự bao gồm: cá nhân, cơ quan, tổ chức; còn người bị hại chỉ là những con người cụ thể. Tiêu chí khác để phân biệt hai chủ thể này là hành vi đưa đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại. Người bị hại đương nhiên được tham gia tố tụng vì hậu quả đối với họ trong một số trường hợp được coi là một trong những yếu tố cấu thành tội phạm, trong một số trường hợp được coi là tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Hậu quả này chính là đối tượng cần chứng minh trong vụ án. Mặt khác họ có thể là người chứng kiến hành vi phạm tội (như người bị gây thương tích, bị cướp tài sản ). Họ tham gia tố tụng để giúp CQTHTT làm rõ hành vi của người phạm tội và để đảm bảo quyền lợi của chính họ. Khác với họ, nguyên đơn dân sự chỉ tham gia tố tụng khi có đơn yêu cầu bồi thường. Hậu quả đối với nguyên đơn dân sự không phải là tình tiết định tội, không có ý nghĩa với việc xem x t trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Cá nhân là người bị hại, nguyên đơn dân sự chỉ tham gia tố tụng khi có thiệt hại xảy ra. Thiệt hại của người bị hại là thiệt hại trực tiếp về thể chất, tinh thần, tài sản từ hành vi phạm tội. Trong trường 8
  17. hợp khác, cá nhân được xác định là nguyên đơn dân sự do có sự thiệt hại về tài sản mà sự thiệt hại này là hậu quả tiếp theo từ hậu quả mà người phạm tội đã gây cho người bị hại: như một người phải nghỉ việc để chăm sóc nạn nhân, những người thường xuyên được cấp dưỡng nay người cấp dưỡng bị chết Như vậy có thể khẳng định rằng khái niệm người bị hại, nạn nhân, đối tượng tác động của tội phạm, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, nguyên đơn dân sự mặc dù có những điểm tương đồng, chồng lấn nhưng về bản chất, đặc trưng của chúng là hoàn toàn khác nhau. Trong trường hợp tổ chức hoặc pháp nhân bị tội phạm trực tiếp gây thiệt hại thì họ có phải là người bị hại không? đã có nhiều ý kiến khác nhau khi đề cập đến vấn đề này. Khái quát lại có hai loại ý kiến sau đây: Quan điểm thứ nhất cho rằng người bị hại chỉ có thể là cá nhân, con người cụ thể là xuất phát từ nhận thức rằng do luật quy định “người bị hại là người bị thiệt hại ” chứ không quy định “người bị hại là cá nhân, tổ chức bị thiệt hại ”. Theo đó lập luận rằng người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần do hành vi phạm tội gây ra, mà thể chất và tinh thần thì chỉ có và gắn liền với con người, một thể nhân cụ thể, thiệt hại này không thể xảy ra đối với pháp nhân hay tổ chức, khái niện này cũng giống như khái niệm về bị can, bị cáo trong TTHS Quan niệm theo pháp luật thực định được thừa nhận rộng rãi. Quan điểm khác cho rằng người bị hại không chỉ là cá nhân mà còn có thể là pháp nhân, tổ chức. Quan điểm này có những điểm hợp lý bởi lẽ: về mặt hình thức, BLTTHS 2003 quy định “người bị hại là người bị thiệt hại ” song ở một khía cạnh khác có thể hiểu từ “người” theo nghĩa rộng bao gồm cả cá nhân, tổ chức, tương tự như trường hợp “người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan”; về bản chất, xác định người bị hại không chỉ là cá nhân mà còn bao gồm cả pháp nhân, tổ chức sẽ đảm bảo công bằng cho tất cả các 9
  18. chủ thể trong trường hợp cùng bị thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Với quan niệm người bị hại chỉ có thể là cá nhân như hiện nay, sẽ có trường hợp các chủ thể cùng bị thiệt hại về vật chất do hành vi phạm tội gây ra nhưng cá nhân bị thiệt hại được xác định là người bị hại còn pháp nhân bị thiệt hại lại xác định là nguyên đơn dân sự trong khi điều kiện tham gia tố tụng của hai chủ thể này khác nhau (nguyên đơn dân sự phải có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại), quyền của nguyên đơn trong tố tụng hạn chế hơn so với quyền của người bị hại (nguyên đơn dân sự không được quyền kháng cáo về hình phạt với bị cáo). Như thế thì một mặt không đảm bảo sự công bằng giữa các chủ thể cùng bị thiệt hại trực tiếp bởi hành vi phạm tội, mặt khác làm nảy sinh hàng loạt vấn đề khó giải quyết cả về góc lý luận và thực tiễn. Người bị hại là một trong những chủ thể tham gia tố tụng theo quy định của BLTTHS. Việc tham gia tố tụng của người bị hại không chỉ nhằm bảo vệ, khôi phục những quyền và lợi ích hợp pháp của họ đã bị hành vi phạm tội xâm hại mà còn góp phần quan trọng vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Xác định đúng tư cách của người bị hại, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại trong quá trình tiến hành tố tụng là một trong những đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hình sự được chính xác, khách quan, toàn diện. Theo pháp luật thực định tại khoản 1 Điều 51 BLTTHS 2003 thì “Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra” [27]. Với quy định này, người bị hại thường được hiểu là “con người cụ thể bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại. Thể chất, tinh thần, tài sản là đối tượng của tội phạm”. Theo quan điểm của các nhà làm luật khi xây dựng Bộ luật TTHS 2015 thì không dùng khái niệm “người bị hại” mà chỉ dùng khái niệm “bị hại” để vừa thuận theo cách gọi ngắn gọn trên thực tế như “bị can, bị cáo, bị hại”, và quan trọng hơn là để mở rộng phạm vi chủ thể bị hại không chỉ 10
  19. bao gồm “người” – cá nhân mà còn bao gồm cả cơ quan, tổ chức, cụ thể, họ đưa ra khái niệm “bị hại” là “ cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra”[28, Điều 62]. Theo đó, bị hại được hiểu bao gồm (i) người bị hại và (ii) cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm hoặc đe dọa tội phạm gây ra. Từ những lập luận trên chúng tôi đề xuất khái niệm về người bị hại trong TTHS như sau: “Người bị hại là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm trực tiếp gây ra, có các quyền và nghĩa vụ tố tụng do pháp luật quy định trong các quan hệ pháp luật TTHS nhất định”. Khái niệm này bao hàm các đặc điểm của người bị hại như sau: Thứ nhất, về chủ thể, người bị hại là cá nhân, pháp nhân, cơ quan nhà nước hoặc tổ chức khác; Thứ hai, thiệt hại do tội phạm trực tiếp gây ra có thể là thiệt hại về thể chất, thiệt hại về tinh thần, thiệt hại về vật chất. Tuy nhiên, cần lưu ý là hậu quả của sự thiệt hại không phải là điều kiện bắt buộc trong tất cả các trường hợp. Thiệt hại của người bị hại phải là đối tượng tác động của tội phạm, tức là phải có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả gây ra cho người bị hại. Đây là điều kiện quan trọng để phân biệt giữa người bị hại và nguyên đơn dân sự hay các đương sự khác trong vụ án hình sự. Thứ ba, người bị hại là người tham gia tố tụng, họ có địa vị pháp lý của người tham gia tố tụng trong các quan hệ pháp luật TTHS tương ứng. Việc xác định đúng và đưa người bị hại tham gia tố tụng đúng tư cách sẽ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại sẽ giúp giải quyết vụ án kịp thời nhanh chóng các thiệt hại do tội phạm gây ra đối với người bị hại. 11
  20. 1.1.2. Đặc điểm của người bị hại 1.1.2.1. Đặc điểm về chủ thể Về khái niệm người bị hại, chúng tôi cho rằng cần phải hiểu đúng chữ “người” ở đây bao gồm cả cá nhân và pháp nhân, xuất phát từ những luận cứ sau: Thứ nhất, lý luận về tư pháp hình sự nói chung, về NBH nói riêng của Việt Nam bị ảnh hưởng sâu sắc bởi lý luận về hình sự, tội phạm học của các nước theo truyền thống dân luật (Civil Law), mà trực tiếp là từ các nước Liên Xô cũ khi dịch định nghĩa về NBH (hay nạn nhân của tội phạm) đều dịch đơn giản từ “person” là “người”, hiểu là “con người tự nhiên” mà quên mất một nghĩa nữa rất quan trọng của từ “person” là “con người pháp lý” hay còn gọi là pháp nhân. Do vậy, bản thân chữ “người” trong định nghĩa tại Điều 51, BLTTHS 2003: “NBH là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra” [27] phải được hiểu đầy đủ theo nghĩa: người bao gồm cả con người cụ thể (thể nhân) và pháp nhân (cơ quan, tổ chức). Thứ hai, cách hiểu thu hẹp nghĩa của khái niệm NBH, không công nhận pháp nhân là NBH, đã vi phạm đến nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án. Việc phân biệt không công nhận NBH là pháp nhân đã khiến cho pháp nhân không được s dụng quyền của NBH mà phải có đơn mới được tham gia với tư cách là nguyên đơn dân sự, gây bất bình đẳng giữa người tham gia tố tụng là cá nhân và pháp nhân. Thực trạng đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới đã minh chứng, hiện nay, ở Việt Nam và trên thế giới, ngày càng xuất hiện nhiều các loại tội phạm toàn cầu, tội phạm công nghệ cao, tội phạm tin học tấn công cả hệ thống tiền tệ của ngân hàng hoặc của liên ngân hàng v.v nạn nhân không chỉ là cá nhân, pháp nhân mà còn là các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia, là cả hệ thống kinh tế, tiền tệ đa quốc gia, khu vực. 12
  21. Do đó, nếu chỉ dừng lại ở quan niệm NBH theo nghĩa là cá nhân sẽ không xác định được NBH, dẫn đến khó x lý và đấu tranh với các loại tội phạm như khủng bố, buôn người, đàn áp tôn giáo, chia rẽ chủng tộc, diệt chủng, tội gây chiến 1.1.2.2. Đặc điểm về thiệt hại NBH là người bị tội phạm xâm phạm đến thể chất, tinh thần, tài sản hoặc các quyền và lợi ích hợp pháp khác. Thiệt hại về thể chất tức là thiệt hại về tính mạng, sức khỏe. “Thiệt hại về tinh thần tức là thiệt hại về danh dự, nhân phẩm. Thiệt hại về tài sản là trường hợp NBH có tài sản bị mất, bị chiếm đoạt, bị hủy hoại hoặc bị làm hư hỏng” [16]. Ngoài ra NBH còn có thể bị xâm phạm các quyền và lợi ích hợp pháp khác như bị xâm phạm chỗ ở, bị cưỡng bức lao động, bị bắt trái pháp luật Điều 51 BLTTHS năm 2003 không quy định dấu hiệu thiệt hại “trực tiếp” của NBH đã làm phát sinh vướng mắc tiếp theo trong nhận thức về NBH. Vướng mắc dễ nhận thấy nhất là nếu chỉ dựa vào khái niệm pháp lý về NBH thì không thể phân biệt được NBH với nguyên đơn dân sự khi cả hai đều là cá nhân. Do đó, cũng không có căn cứ thuyết phục nào để phân biệt NBH với nguyên đơn dân sự. Vì thế, ở phương diện khoa học, cũng đã có những quan điểm giải thích những thiệt hại của NBH là do tội phạm trực tiếp gây ra. NBH không những bị thiệt hại trực tiếp (ví dụ thương tích trong vụ án cố ý gây thương tích) mà còn bị mất việc làm do không đủ sức khỏe, dẫn đến mất thu nhập, gây ra thiệt hại gián tiếp. Thiệt hại này không phải do hành vi cố ý gây thương tích trực tiếp gây ra mà gián tiếp gây ra. Chính sự kiện “mất việc làm” mới là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại tài sản. Vì vậy, NBH có thể cùng bị hai loại thiệt hại: thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp do tội phạm cố ý gây thương tích gây ra. Trong trường hợp này không thể xem NBH chỉ có thiệt hại thể chất mà không có thiệt hại về tài sản. Nói chính xác hơn, 13
  22. NBH ít nhất cũng có một thiệt hại do tội phạm trực tiếp gây ra hoặc đe dọa gây ra, và ngoài ra còn có thể có một hoặc nhiều thiệt hại gián tiếp. Vì vậy, theo chúng tôi, mặc dù NBH có thể có thêm thiệt hại gián tiếp, nhưng điều kiện đầu tiên và tối thiểu là họ có một thiệt hại trực tiếp từ hành vi phạm tội. Dấu hiệu bị thiệt hại “trực tiếp” cần được quy định rõ trong BLTTHS khi đưa ra khái niệm pháp lý về NBH. 1.1.2.3. Đặc điểm về hình thức pháp lý X t về mặt hình thức, người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra chỉ trở thành NBH trong TTHS khi họ tham gia vào các quan hệ pháp luật TTHS nhất định, nếu chưa tham gia vào các quan hệ pháp luật này, họ thuần tuý chỉ là các nạn nhân của tội phạm. Tuy nhiên, khác với nguyên đơn dân sự là chủ thể tham gia vụ án hình sự để giải quyết phần dân sự để được bồi thường thiệt hại, trả lại tiền, tài sản theo yêu cầu, người bị hại không cần phải có yêu cầu với cơ quan tiến hành tố tụng mới được các cơ quan tiến hành tố tụng xác lập tư cách người bị hại. Đây là điểm khác biệt về hình thức pháp lý so với nguyên đơn dân sự, việc phải có yêu cầu mới được giải quyết yêu cầu và mới có tư cách tố tụng của nguyên đơn dân sự xuất phát từ nguyên tắc tố tụng dân sự. Trong khi đó, người bị hại trong TTHS không cần phải có việc yêu cầu này vì các cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm chứng minh tội phạm, đặc biệt toà án là chủ thể có quyền và nghĩa vụ quyết định hình phạt, biện pháp tư pháp với người phạm tội và đồng thời là các trách nhiệm dân sự như bồi thường thiệt hại, buộc trả lại tài sản, buộc s a chữa tài sản, buộc xin lỗi công khai đối với người bị hại. 1.1.3. Phân loại người bị hại Việc phân loại NBH trong TTHS cũng là một cách tiếp cận giúp phân tích và hiểu sâu sắc thêm nội hàm khái niệm NBH trong TTHS. Kết quả nghiên cứu của Luận văn tiếp cận phân loại NBH dựa trên các căn cứ sau: 14
  23. Căn cứ vào yếu tố chủ thể Dựa vào yếu tố chủ thể có thể phân loại thành người bị hại là cá nhân và người bị hại là pháp nhân. - Nhóm NBH là cá nhân. Đây là nhóm NBH phổ biến nhất của tội phạm. Thiệt hại mà NBH là cá nhân có thể phải gánh chịu bao gồm cả tính mạng, sức khỏe, tinh thần, tài sản và các quyền và lợi ích hợp pháp khác. Đối với nhóm NBH là cá nhân, các nhà nghiên cứu tội phạm học cũng thường căn cứ vào đặc điểm thể chất, trạng thái tinh thần hoặc đặc điểm tâm lý (các đặc điểm về nhân chủng học) để phân loại thành: nhóm NBH là trẻ em, nhóm NBH là người có khuyết tật về năng lực nhận thức và Điều khiển hành vi (người tâm thần, người trí tuệ k m phát triển ), nhóm NBH là người già, nhóm NBH là nữ giới - Nhóm NBH là tổ chức (pháp nhân) Do đặc thù là pháp nhân nên NBH thuộc loại này chỉ có thể bị hành vi phạm tội xâm phạm về tài sản hoặc uy tín, thương hiệu. Trường hợp nếu bị tội phạm làm tổn hại đến uy tín, thương hiệu hoặc các quyền và lợi ích hợp pháp thì các thiệt hại đó vẫn phải được lượng hóa thành thiệt hại về tài sản. Vấn đề thừa nhận NBH bao gồm cả pháp nhân, tổ chức bị thiệt hại tương tự như thừa nhận người phải chịu TNHS (người bị buộc tội) là pháp nhân trong Luật hình sự. Hiện nay, Luật hình sự của hầu hết các nước trên thế giới như Anh, Mỹ, Cannada, Úc, Pháp, Bỉ, Nga, Balan quy định NBH bao gồm cả cá nhân và pháp nhân cũng như TNHS pháp nhân (tức là người bị buộc tội không chỉ là cá nhân mà còn là pháp nhân).[5] Theo quan niệm hiện nay địa vị pháp lý của NBH là cá nhân với NBH là pháp nhân là như nhau. Quan niệm trước đây coi chỉ có cá nhân mới được tham gia tố tụng với tư cách là NBH còn pháp nhân nếu bị tội phạm gây thiệt 15