Luận văn Nghiên cứu giá trị và mục đích khai thác sử dụng tài liệu các phông lưu trữ cá nhân tại trung tâm lưu trữ quốc gia III

pdf 124 trang vuhoa 25/08/2022 4080
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Nghiên cứu giá trị và mục đích khai thác sử dụng tài liệu các phông lưu trữ cá nhân tại trung tâm lưu trữ quốc gia III", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_nghien_cuu_gia_tri_va_muc_dich_khai_thac_su_dung_ta.pdf

Nội dung text: Luận văn Nghiên cứu giá trị và mục đích khai thác sử dụng tài liệu các phông lưu trữ cá nhân tại trung tâm lưu trữ quốc gia III

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN PHẠM THỊ NGÂN NGHIÊN CỨU GIÁ TRỊ VÀ MỤC ĐÍCH KHAI THÁC SỬ DỤNG TÀI LIỆU CÁC PHÔNG LƯU TRỮ CÁ NHÂN TẠI TRUNG TÂM LƯU TRỮ QUỐC GIA III LUẬN VĂN THẠC SĨ LƯU TRỮ Hà Nội – 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN PHẠM THỊ NGÂN NGHIÊN CỨU GIÁ TRỊ VÀ MỤC ĐÍCH KHAI THÁC SỬ DỤNG TÀI LIỆU CÁC PHÔNG LƯU TRỮ CÁ NHÂN TẠI TRUNG TÂM LƯU TRỮ QUỐC GIA III Chuyên ngành : Lưu trữ Mã số : 60 32 24 LUẬN VĂN THẠC SĨ LƯU TRỮ Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS.Nguyễn Liên Hương Hà Nội - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Trong luận văn có tham khảo luận văn thạc sỹ, báo cáo khoa học và sử dụng một số thông tin trong các văn bản của Nhà nước nhưng đã được chú thích. Công trình này chưa được tác giả nào công bố. TÁC GIẢ Phạm Thị Ngân
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ CÁC PHÔNG LƯU TRỮ CÁ NHÂN TẠI TRUNG TÂM LƯU TRỮ QUỐC GIA III 12 1.1. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III và các phông lưu trữ cá nhân 12 1.2. Thân thế và sự nghiệp của GS nghiên cứu văn học Đặng Thai Mai 14 1.3. Thân thế và sự nghiệp của đồng chí Tôn Quang Phiệt 17 1.4. Thân thế và sự nghiệp của nhà nghiên cứu văn học Hoài Thanh 19 1.5. Thân thế và sự nghiệp của GS.TS.VS lịch sử - xã hội học Phạm Huy Thông 22 1.6. Thân thế và sự nghiệp của GS.VS Nguyễn Khánh Toàn 25 Chương 2: THÀNH PHẦN, NỘI DUNG VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TÀI LIỆU TRONG CÁC PHÔNG LƯU TRỮ CÁ NHÂN 29 2.1. Sự hình thành các phông lưu trữ cá nhân 29 2.2. Thành phần tài liệu trong các phông lưu trữ cá nhân 32 2.3. Nội dung của tài liệu các phông lưu trữ cá nhân 36 2.4. Đặc điểm của tài liệu các phông lưu trữ cá nhân 41 Chương 3: GIÁ TRỊ VÀ MỤC ĐÍCH KHAI THÁC SỬ DỤNG TÀI LIỆU TRONG CÁC PHÔNG LƯU TRỮ CÁ NHÂN 52 3.1. Giá trị và mục đích khai thác sử dụng tài liệu trong phông lưu trữ cá nhân của GS nghiên cứu văn học Đặng Thai Mai 52 3.2. Giá trị và mục đích khai thác sử dụng tài liệu trong phông lưu trữ cá nhân của đồng chí Tôn Quang Phiệt 60 3.3. Giá trị và mục đích khai thác sử dung tài liệu trong phông lưu trữ cá nhân của nhà nghiên cứu văn học Hoài Thanh 64 3.4. Giá trị và mục đích khai thác sử dụng tài liệu trong phông lưu trữ cá nhân của GS.TS.VS lịch sử - xã hội học Phạm Huy Thông 70 3.5. Giá trị và mục đích khai thác sử dụng tài liệu trong phông lưu trữ cá nhân của GS.VS Nguyễn Khánh Toàn 77 KẾT LUẬN 91 TÀI LIỆU THAM KHẢO 93
  5. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tài liệu lưu trữ cá nhân là một bộ phận của Phông Lưu trữ Quốc gia Việt Nam. Đó là toàn bộ tài liệu được hình thành trong quá trình sống và hoạt động của một cá nhân riêng biệt được đưa vào bảo quản trong một kho lưu trữ nhất định. Phông lưu trữ cá nhân thường được thành lập đối với các nhân vật tiêu biểu, điển hình hoạt động trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tài liệu trong Phông lưu trữ cá nhân có rất nhiều giá trị và ý nghĩa to lớn. Đây là nguồn sử liệu quan trọng để nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng, hoạt động khoa học, sáng tác nghệ thuật của các cá nhân tiêu biểu; về các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật Đồng thời là đối tượng để nghiên cứu và sử dụng vào các mục đích khác nhau của xã hội như: cung cấp tư liệu cho việc xây dựng các tuyển tập (đối với tài liệu cá nhân trong lĩnh vực văn học), phục vụ trưng bày triển lãm tài liệu tại các buổi hội thảo, hội nghị; phục vụ nhu cầu nghiên cứu của các nhà khoa học Tuy nhiên, việc tìm hiểu, nghiên cứu giá trị và mục đích khai thác, sử dụng của chúng thì vẫn còn rất nhiều hạn chế. Hiện nay, gần 70 phông lưu trữ cá nhân, chủ yếu là của các văn nghệ sĩ và một số nhà hoạt động trên các lĩnh vực khoa học, xã hội khác đang được bảo quản tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia III. Trong số đó thì các phông lưu trữ cá nhân của GS nghiên cứu văn học Đặng Thai Mai, đồng chí Tôn Quang Phiệt, nhà nghiên cứu văn học Hoài Thanh, GS.TS.VS lịch sử - xã hội học Phạm Huy Thông và GS.VS Nguyễn Khánh Toàn là năm phông có số lượng tài liệu lớn và tương đối đầy đủ, đa dạng về thành phần và phong phú về nội dung. Đây đều là những cá nhân tiêu biểu, xuất sắc trên các lĩnh vực hoạt động khác nhau như hoạt động nghệ thuật, hoạt động cách mạng, hoạt động 1
  6. khoa học. Trong quá trình công tác của mình, họ đã từng đảm nhận những vai trò, vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội. Cuộc đời và sự nghiệp của họ có tầm ảnh hưởng rộng lớn đến nhiều ngành, lĩnh vực và nhiều cá nhân khác. Vì vậy, chúng tôi đã chọn 5 phông lưu trữ cá nhân này để khảo sát và tìm hiểu về giá trị, mục đích khai thác sử dụng tài liệu lưu trữ cá nhân. GS Đặng Thai Mai là nhà văn hóa, một người thầy giáo giàu tâm huyết, một nhà nghiên cứu văn học xuất sắc. Ông dạy học từ khi 20 tuổi và đã từng giữ nhiều chức vụ khác nhau trong ngành giáo dục như Bộ trưởng Bộ giáo dục trong Chính phủ Liên hiệp kháng chiến, Giám đốc trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Ông dạy học với tấm lòng say mê của “một nhà truyền giáo”. Ông thuộc thế hệ những người mở đường, đặt nền móng cho nền văn hóa, giáo dục cách mạng. Đặng Thai Mai còn là một nhà nghiên cứu văn học xuất sắc. Ông được tôn vinh là “bậc thầy”, là người mở đường và có đóng góp lớn cho nhiều chuyên ngành nghiên cứu văn học như lý luận văn học, văn học Việt Nam cận hiện đại, văn học Trung Quốc hiện đại. Có thể nói: “Tình cảm yêu nước mãnh liệt, phẩm chất nhân văn giàu có, niềm say mê văn học và tài năng thiên phú đã giúp ông trở thành nhà lý luận, phê bình, nghiên cứu văn học có uy tín lớn của Việt Nam thế kỷ XX” [69, tr.1]. Với những cống hiến to lớn của mình, ông đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng nhì, Huân chương Hồ Chí Minh, giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Tôn Quang Phiệt là một nhân sỹ yêu nước, một chiến sỹ cách mạng kiên trung và nhà văn hóa lớn. Sự nghiệp hoạt động cách mạng của ông gắn liền với những sự kiện trọng đại của tiến trình lịch sử Việt Nam thế kỷ XX. Ông sớm chịu ảnh hưởng của phong trào yêu nước và cũng là người tham gia phong trào cách mạng từ rất sớm (từ những năm 1925, khi ông tham gia thành 2
  7. lập nhiều nhóm cách mạng ở Hà Nội và ở Vinh). Trước năm 1945, ông đã hoạt động trong nhiều tổ chức cách mạng như: Việt Nam nghĩa đoàn, Hội Phục Việt, Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, Đông Dương Cộng sản liên đoàn, Hội truyền bá quốc ngữ, Mặt trận dân chủ ở Huế Khi Cách mạng Tháng 8 năm 1945 diễn ra, ông hoạt động trong Mặt trận Việt Minh và trở thành Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng đầu tiên của tỉnh Thừa Thiên Huế. Sau đó, ông hoạt động trong Quốc hội và một số tổ chức chính trị - xã hội. Ông liên tục được Đảng giao cho nhiều trọng trách, vị trí, chức vụ quan trọng trong Bộ máy nhà nước. Có thể nói, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, ông luôn là: “Một tấm gương sáng của một người trí thức giàu lòng yêu nước, trung thành với cách mạng, với nhân dân, chiến đấu bền bỉ, đã không ngừng tự trau dồi và rèn luyện để đạt tiêu chuẩn người cách mạng chân chính” [82, tr.3]. Bên cạnh sự nghiệp hoạt động cách mạng, Tôn Quang Phiệt còn sáng tác thơ văn và tham gia vào công tác nghiên cứu lịch sử. Ông đã để lại nhiều tác phẩm rất có giá trị. Với những đóng góp to lớn của mình cho sự nghiệp cách mạng, ông đã được nhà nước truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh và nhiều phần thưởng cao quý khác. Hoài Thanh là một trong số các nhà phê bình văn học hàng đầu của nền văn học Việt Nam thế kỷ XX. Sự nghiệp hoạt động nghệ thuật của ông gắn liền với những hiện tượng văn học lớn của thế kỷ. Hoài Thanh viết văn từ năm 1930. Trong suốt cuộc đời hoạt động nghệ thuật của mình như “con tằm nhả tơ, thong thả nhưng không hề gián đoạn”, Hoài Thanh đã để lại một di sản văn học đồ sộ và có nhiều giá trị. Bên cạnh rất nhiều tác phẩm đã được xuất bản ngay từ khi nhà văn còn sống, năm 1998, Nhà xuất bản Văn học (Hà Nội) đã xuất bản trọn bộ “Toàn tập Hoài Thanh” (4 tập), do Từ Sơn sưu tầm và biên soạn. 3
  8. Trong lời phát biểu khai mạc hội thảo “Hoài Thanh - cuộc đời và sự nghiệp” nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh của nhà văn Hoài Thanh (15/7/1909 -15/7/1999), nhà thơ Hữu Thỉnh - Phó Tổng thư ký thường trực Hội Nhà văn Việt Nam đã viết: “Toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của Hoài Thanh cho phép chúng ta đi đến kết luận: ông là một nhân cách lớn, đôn hậu, trung thực và giản dị; một tâm hồn gắn bó với Cách mạng, với Nhân dân và Đất nước; một tài năng phê bình văn học hiếm thấy trong nền văn học Việt Nam ở thế kỷ XX; người có những đóng góp xuất sắc cho sự hình thành và phát triển của nền văn học cách mạng nước ta” [91, tr.7]. Với những đóng góp của mình, tháng 01 năm 2000, nhà văn Hoài Thanh đã được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật. GS.TS.VS lịch sử - xã hội học Phạm Huy Thông có một trí tuệ uyên bác. Ông là một trong những nhà thơ mở đầu cho phong trào thơ mới với các tác phẩm như: Tiếng địch sông Ô, Con voi già Không chỉ sáng tác văn thơ, Phạm Huy Thông còn nghiên cứu khá nhiều lĩnh vực: Ngôn ngữ, sử học, khảo cổ học, văn học. Trong đó, khảo cổ học là lĩnh vực nghiên cứu mà ông đã đạt được nhiều thành tựu nhất. Là Viện trưởng đầu tiên của Viện Khảo cổ học, GS Phạm Huy Thông đã chỉ đạo các công trình nghiên cứu về thời kì Hùng Vương dựng nước, về Trống đồng Việt Nam; đồng thời là Tổng Biên tập Tạp chí Khảo cổ học. Ông có những đóng góp to lớn, là người “đặt viên gạch đầu tiên cho sự ra đời của Viện Khảo cổ”, đồng thời là người sáng lập ra bộ môn Khảo cổ học Lịch sử Việt Nam. Ông chính là người đã góp phần “làm cho nước ta trở thành một quốc gia có nền Khảo cổ học mạnh nhất Đông Nam Á” [80, tr.5]. Với những đóng góp to lớn của mình, ông đã vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng nhất, nhì, ba; Huân chương Kháng chiến hạng nhất, giải thưởng Hồ Chí Minh về nghiên cứu khảo cổ. 4
  9. GS.VS Nguyễn Khánh Toàn là một nhà khoa học trí tuệ, uyên bác, là người có nhiều công lao trong việc xây dựng ngành giáo dục; cũng là người đặt nền móng cơ bản cho các ngành khoa học xã hội và nhân văn của Việt Nam. Ngay sau khi Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, ông đã được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng giao cho việc tổ chức và lãnh đạo ở cả hai lĩnh vực là khoa học và giáo dục với cương vị là Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Phó Chủ nhiệm Uỷ ban khoa học Nhà nước. Ông là người có công lao to lớn trong hai cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất và lần thứ hai. Có thể nói: “Nguyễn Khánh Toàn là linh hồn của hai cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất (năm 1950) và lần thứ hai (năm 1960)” [28, tr4.]. Với tư cách là người lãnh đạo trên lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn, Nguyễn Khánh Toàn đã thể hiện tính uyên bác, khoa học trong sự chỉ đạo và một tầm nhìn chiến lược trong việc xây dựng các môn khoa học xã hội của đất nước. Ông chính là người “đã làm vinh dự cho nền khoa học xã hội và nhân văn của nước nhà” [78, tr.23]. Với những đóng góp to lớn của mình cho khoa học ông được Nhà nước trao tặng Huân chương Sao vàng năm 2008. Tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, các phông lưu trữ cá nhân của GS nghiên cứu văn học Đặng Thai Mai, đồng chí Tôn Quang Phiệt, nhà nghiên cứu văn học Hoài Thanh, GS.TS.VS lịch sử - xã hội học Phạm Huy Thông, GS.VS Nguyễn Khánh Toàn đã được thành lập để lưu giữ lại khối tài liệu hình thành trong quá trình sống và hoạt động của các cá nhân; bao gồm các bản viết tay, bản thảo sáng tác, bản đánh máy có bút tích của họ Khối tài liệu trong các phông lưu trữ cá nhân này là nguồn sử liệu có nhiều giá trị và có thể được khai thác, sử dụng vào các mục đích khác nhau như: để nghiên cứu về về sự nghiệp nghiên cứu văn học và giáo dục của GS Đặng Thai Mai (với Phông cá nhân của Đặng Thai Mai); về sự nghiệp hoạt động cách mạng và sáng tác của đồng chí Tôn Quang Phiệt (với phông cá 5
  10. nhân của Tôn Quang Phiệt); cuộc đời của các cá nhân, về những hiện tượng lớn của văn học Việt Nam thế kỷ XX, sự phát triển của nền văn học Việt Nam hiện đại (với phông cá nhân của Hoài Thanh); về quá trình xây dựng và phát triển của Viện Khảo cổ học và ngành khảo cổ học (với phông cá nhân của Phạm Huy Thông); về sự nghiệp hoạt động khoa học cũng như quá trình xây dựng và phát triển của ngành giáo dục và ngành khoa học xã hội (với phông cá nhân của Nguyễn Khánh Toàn); để phục vụ các cuộc triển lãm, trưng bày tài liệu, phục vụ nhu cầu của các nhà nghiên cứu Tuy nhiên cho đến thời điểm này, việc nghiên cứu giá trị và mục đích khai thác sử dụng tài liệu lưu trữ cá nhân nói chung và tài liệu trong các phông lưu trữ cá nhân nói riêng mới được thực hiện bước đầu. Với tất cả những lý do trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Nghiên cứu giá trị và mục đích khai thác sử dụng tài liệu trong các phông lưu trữ cá nhân tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia III” làm đề tài luận văn thạc sĩ. 2. Mục tiêu của đề tài Qua đề tài này, chúng tôi muốn giới thiệu thành phần, nội dung, đặc điểm tài liệu trong các phông lưu trữ cá nhân. Đồng thời, chúng tôi nghiên cứu về giá trị cũng như mục đích khai thác sử dụng tài liệu trong các phông lưu trữ cá nhân này; góp phần khẳng định giá trị, ý nghĩa to lớn của tài liệu lưu trữ cá nhân trong đời sống xã hội. Từ đó, chúng tôi cũng tìm hiểu về những bất cập, hạn chế trong việc khai thác và sử dụng khối tài liệu này và đưa ra một số đề xuất để có thể tăng cường và phát huy giá trị của tài liệu lưu trữ cá nhân như tinh thần của Chỉ thị số 05/2007/CT-TTg ngày 02 tháng 3 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là giá trị và mục đích khai thác, sử dụng tài liệu trong các phông lưu trữ cá nhân. Phạm vi nghiên cứu của đề tài 6
  11. là các Phông lưu trữ cá nhân của GS nghiên cứu văn học Đặng Thai Mai, đồng chí Tôn Quang Phiệt, nhà nghiên cứu văn học Hoài Thanh, GS.TS.VS lịch sử - xã hội học Phạm Huy Thông và GS.VS Nguyễn Khánh Toàn hiện đang được bảo quản tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia III. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục tiêu đã nêu trên, đề tài của chúng tôi sẽ đi vào thực hiện các nhiệm vụ sau đây: - Tìm hiểu, nghiên cứu cuộc đời và sự nghiệp sáng tác, sự nghiệp hoạt động cách mạng, sự nghiệp hoạt động khoa học của GS nghiên cứu văn học Đặng Thai Mai, đồng chí Tôn Quang Phiệt, nhà nghiên cứu văn học Hoài Thanh, GS.TS.VS lịch sử - xã hội học Phạm Huy Thông và GS.VS Nguyễn Khánh Toàn; - Khảo sát thành phần tài liệu trong các phông lưu trữ cá nhân; - Nghiên cứu nội dung và đặc điểm của các khối tài liệu; - Giới thiệu giá trị và mục đích khai thác sử dụng tài liệu của các phông lưu trữ cá nhân. - Đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục hạn chế trong khai thác sử dụng tài liệu của các phông lưu trữ cá nhân. 5. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Tài liệu lưu trữ cá nhân đã được nhiều người quan tâm, nghiên cứu; đã được đề cập đến trong nhiều bài viết, tạp chí, sách. Các bài viết, công trình nghiên cứu đã tập trung vào một số hướng nghiên cứu chính như sau: Hướng đầu tiên là, quá trình hình thành, phát triển của công tác lưu trữ tài liệu cá nhân (với các bài viết như: “Một số nét về công tác lưu trữ tài liệu xuất xứ cá nhân trong thời gian qua” của tác giả Phạm Thị Bích Hài, “Lưu trữ tài liệu văn học nghệ thuật qua chặng đường hình thành và phát triển của tác giả Minh Văn ). 7
  12. Hướng thứ hai là, vấn đề thu thập, quản lý và bổ sung tài liệu Phông lưu trữ cá nhân (với các khóa luận tốt nghiệp như: “Vấn đề thu thập và quản lý tài liệu Phông lưu trữ cá nhân của Trung tâm lưu trữ Quốc gia III” của tác giả Phạm Thị Hồng Liên, “Công tác bổ sung tài liệu Phông lưu trữ cá nhân tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia III nhận xét và kiến nghị” của tác giả Nguyễn Lan Chiên; “Thu thập, quản lý tài liệu Phông lưu trữ cá nhân tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia III - thực trạng và kiến nghị” của tác giả Nguyễn Thị Thùy Linh ). Hướng thứ ba là, vị trí, giá trị của tài liệu lưu trữ cá nhân (với các bài viết như: “Về khối tài liệu của các cá nhân được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh hiện đang bảo quản tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia III”; “Bước đầu tìm hiểu vị trí, ý nghĩa của tài liệu văn học nghệ thuật trong Phông lưu trữ quốc gia” của tác giả Minh Văn; Giá trị sử liệu của một số phông lưu trữ cá nhân tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia III của tác giả Phạm Thị Ngân ). Hướng thứ tư là, ý thức lưu giữ tài liệu cá nhân của các gia đình, dòng họ (với các báo cáo khoa học như: “ Khảo sát ý thức của các gia đình trong việc lưu giữ các tài liệu thuộc sở hữu cá nhân” của tác giả Đỗ Thị Lan Anh và Nguyễn Thị Thơm; “Khảo sát ý thức của một số dòng họ tại huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh trong việc lưu trữ các tài liệu thuộc sở hữu cá nhân” của tác giả Ngô Thị Thuyên ). Chúng ta có thể nhận thấy ở các bài viết và các công trình nghiên cứu trước đó, các tác giả đã khái quát được các vấn đề: quá trình hình thành và phát triển của công tác lưu trữ tài liệu cá nhân; vấn đề thu thập và quản lý cũng như việc bổ sung tài liệu phông lưu trữ cá nhân tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III (nhất là việc đã đưa ra được một số nhận xét, kiến nghị); vị trí, giá trị của tài liệu cá nhân nói chung (nhất là tài liệu văn học nghệ thuật); ý thức lưu giữ tài liệu cá nhân của các gia đình, dòng họ. Đó là những kết quả nghiên cứu rất đáng được chúng ta ghi nhận. Tuy nhiên, vấn đề tìm hiểu, 8
  13. nghiên cứu giá trị và mục đích khai thác sử dụng tài liệu lưu trữ trong các phông lưu trữ cá nhân thì vẫn chưa nhận được sự quan tâm của nhiều tác giả. Như vậy, trước đó mới chỉ có một số công trình của chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu giá trị sử liệu của phông lưu trữ cá nhân. Vì thế, đề tài luận văn thạc sĩ của chúng tôi vừa có tính kế thừa, vừa mở rộng để làm rõ và sâu hơn vấn đề mà chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu. 6. Tài liệu tham khảo Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã tham khảo một số nhóm tài liệu. Một là, nhóm tài liệu lý luận như Giáo trình Lý luận và thực tiễn công tác lưu trữ, các bài giảng của giảng viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) về các vấn đề liên quan. Hai là, nhóm tài liệu liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của nhà nghiên cứu văn học Hoài Thanh, đồng chí Tôn Quang Phiệt, GS.VS Nguyễn Khánh Toàn, GS nghiên cứu văn học Đặng Thai Mai và GS.TS.VS lịch sử - xã hội học Phạm Huy Thông như: Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Về tác gia và tác phẩm, Toàn tập Hoài Thanh (4 tập); Nguyễn Khánh Toàn năm tháng - cuộc đời; Đặng Thai Mai - Về tác gia và tác phẩm, Hội thảo kỷ niệm 80 năm ngày sinh cố GS Viện sĩ Phạm Huy Thông (1916- 1996); Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam Ba là, nhóm tài liệu liên quan đến tài liệu lưu trữ cá nhân như bài viết: Hoài Thanh và những tài liệu sáng tác của ông đang bảo quản tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia III; Bước đầu tìm hiểu vị trí, ý nghĩa của tài liệu văn học nghệ thuật trong Phông lưu trữ Quốc gia; Hồ sơ Mục lục tài liệu của: GS nghiên cứu văn học Đặng Thai Mai, đồng chí Tôn Quang Phiệt, nhà nghiên cứu văn học Hoài Thanh, GS.TS.VS lịch sử - xã hội học Phạm Huy Thông và GS.VS Nguyễn Khánh Toàn 9
  14. Bên cạnh đó, chúng tôi còn tham khảo một số báo cáo khoa học và khóa luận tốt nghiệp liên quan đến tài liệu lưu trữ nhân dân, đến vấn đề thu thập và quản lý tài liệu phông lưu trữ cá nhân của Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, đến công tác bổ sung tài liệu phông lưu trữ cá nhân tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, đến giá trị sử liệu của một số phông lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III 7. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng những phương pháp sau: phương pháp khảo sát, phương pháp thu thập và xử lý thông tin, phương pháp phân tích, tổng hợp 8. Đóng góp của đề tài Đề tài có những đóng góp sau: - Giới thiệu phông lưu trữ cá nhân, thành phần, nội dung và đặc điểm của tài liệu một số phông lưu trữ cá nhân tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia III (cụ thể là Phông lưu trữ cá nhân của GS nghiên cứu văn học Đặng Thai Mai, đồng chí Tôn Quang Phiệt, nhà nghiên cứu văn học Hoài Thanh, GS.TS.VS lịch sử - xã hội học Phạm Huy Thông và GS.VS Nguyễn Khánh Toàn); - Giới thiệu giá trị và mục đích khai thác sử dụng tài liệu của các phông lưu trữ cá nhân này; - Phát hiện ra những bất cập trong việc khai thác và sử dụng tài liệu lưu trữ cá nhân, lý giải nguyên nhân của những bất cập này và đưa ra một số đề xuất để có thể phát huy được giá trị của tài liệu lưu trữ cá nhân. 9. Bố cục của đề tài Ngoài Mở đầu và Kết luận, Luận văn gồm các phần chính sau: - Chương 1: Khái quát về các phông lưu trữ cá nhân tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III. - Chương 2: Thành phần, nội dung và đặc điểm của tài liệu trong các phông lưu trữ cá nhân. 10
  15. - Chương 3: Giá trị và mục đích khai thác sử dụng tài liệu trong các phông lưu trữ cá nhân. Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả cũng nhận được sự giúp đỡ của các cán bộ, công chức, viên chức đang công tác tại Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III; gia đình các cá nhân có tài liệu đang bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III; thầy, cô Khoa Lưu trữ học và Quản trị văn phòng, các bạn đồng nghiệp. Đặc biệt là sự giúp đỡ tận tình của TS. Nguyễn Liên Hương. Qua đây cho phép tác giả gửi lời cảm ơn chân thành sâu sắc đến sự giúp đỡ quý báu đó. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi cũng gặp rất nhiều khó khăn khi tìm kiếm, liên hệ với chủ sở hữu của các phông lưu trữ cá nhân, đề tài chưa có nhiều người nghiên cứu, tài liệu tham khảo còn hạn chế. Do vậy luận văn không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Tác giả mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các nhà nghiên cứu, các bạn đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn. Hà Nội, ngày tháng 12 năm 2015 Học viên Phạm Thị Ngân 11
  16. Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ CÁC PHÔNG LƯU TRỮ CÁ NHÂN TẠI TRUNG TÂM LƯU TRỮ QUỐC GIA III 1.1. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III và các phông lưu trữ cá nhân Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III là một trong 4 trung tâm lưu trữ quốc gia trực thuộc Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước; có trụ sở tại số 34, Phan Kế Bính, Ba Đình, Hà Nội. Trung tâm được thành lập theo Quyết định số 118/QĐ - BTTCBCP ngày 10/6/1995 của Bộ trưởng, Trưởng ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ). Trung tâm có chức năng thu thập, bảo quản an toàn và tổ chức sử dụng có hiệu quả tài liệu lưu trữ có ý nghĩa toàn quốc từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay. Có thể nói, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III là nơi lưu giữ những kỷ vật quá giá, bảo quản an toàn và trưng bày những tài liệu quý hiếm của quốc gia; từ tài liệu của những cá nhân nổi tiếng hoạt động trong các lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội đến những công trình toàn quốc. Hiện tại, Trung tâm có 12 phòng chức năng và nghiệp vụ, hơn 100 viên chức. Trung tâm đang bảo quản hơn mười lăm ngàn mét giá tài liệu (tương đương hơn 15 cây số tài liệu) của gần 300 cơ quan nhà nước, tổ chức đoàn thể trung ương và các nhân vật tiêu biểu, bao gồm 4 khối tài liệu. Đó là tài liệu hành chính, tài liệu khoa học kỹ thuật, tài liệu nghe nhìn và tài liệu xuất xứ cá nhân. Khối tài liệu hành chính hình thành trong quá trình hoạt động của gần 300 cơ quan nhà nước ở trung ương như: Quốc hội, Chính phủ, các Bộ và ủy ban hành chính các khu, liên khu đã giải thể có thời gian từ năm 1945 đến nay. Khối tài liệu khoa học kỹ thuật bao gồm tài liệu thiết kế, thi công các công trình trọng điểm như Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh và Quảng trường Ba Đình, Nhà máy thủy điện Hòa Bình, đường dây 500KV Bắc Nam, cầu Thăng Long; hồ sơ bản đồ, địa giới hành chính các cấp Khối tài liệu nghe nhìn 12
  17. gồm khoảng trên 4000 cuộn băng ghi âm, hơn 150000 ảnh phi âm. Đặc biệt trong khối tài liệu này có khối tài liệu về Paris với khoảng 4.000 giờ chưa công bố. Khối tài liệu xuất xứ cá nhân gồm các tài liệu tiểu sử, tài liệu riêng của cá nhân, bản thảo các công trình nghiên cứu, sáng tác của các nhà khoa học, văn nghệ sỹ, các nhà hoạt động chính trị, xã hội nổi tiếng Khối tài liệu cá nhân, gia đình, dòng họ nổi tiếng này do Trung tâm sưu tầm hoặc do cá nhân tự nguyện hiến tặng. Bên cạnh đó, Trung tâm còn lưu giữ hơn 7 vạn hồ sơ cá nhân cùng một số kỷ vật của các cán bộ đi B trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Theo Giáo trình Lý luận và thực tiễn công tác lưu trữ thì Phông lưu trữ cá nhân được định nghĩa là: “Toàn bộ tài liệu hình thành trong quá trình sống và hoạt động của một nhân vật riêng biệt được đưa vào bảo quản trong một kho lưu trữ nhất định” [75, tr.60]. Hiện nay, Nhà nước vẫn chưa có một quy định cụ thể về việc thành lập phông lưu trữ cá nhân. Tuy nhiên, các cơ quan lưu trữ đang rất chú ý đến việc thu thập và chỉnh lý khối tài liệu hình thành trong quá trình sống và hoạt động của những nhà hoạt động chính trị, xã hội, khoa học kỹ thuật nổi tiếng. Sau khi Luật Lưu trữ được Quốc hội ban hành ngày 11/11/2011, việc quản lý tài liệu của cá nhân, gia đình dòng họ đã được quy định. Theo Điều 5 của Luật Lưu trữ, những tài liệu sau đây của cá nhân, gia đình, dòng họ có giá trị phục vụ hoạt động thực tiễn, nghiên cứu khoa học, lịch sử đối với quốc gia, xã hội được đăng ký thuộc Phông lưu trữ quốc gia Việt Nam: Gia phả, tộc phả, bằng, sắc phong, tài liệu về tiểu sử; bản thảo viết tay, bản in có bút tích, công trình nghiên cứu khoa học, sáng tác, thư từ trao đổi; phim ảnh, băng, đĩa ghi âm, ghi hình, tài liệu điện tử; công trình, bài viết về cá nhân; ấn phẩm, tài liệu do cá nhân sưu tầm được. Đối với phông lưu trữ cơ quan, các yếu tố dùng để xác định giới hạn thời gian của Phông như: sự thay đổi về chế độ chính trị, sự thay đổi về chức 13
  18. năng và nhiệm vụ của cơ quan, sự thay đổi địa giới hành chính Khác với phông lưu trữ cơ quan, giới hạn của phông lưu trữ cá nhân lại không hề bị ảnh hưởng bởi các yếu tố trên. Tài liệu trong phông lưu trữ cá nhân có thể kéo dài từ thời kỳ lịch sử này sang thời kỳ lịch sử khác, tùy thuộc vào quá trình sống và hoạt động của người hình thành phông. Vì thế, khi chúng ta xác định giới hạn thời gian phông lưu trữ cá nhân thì chủ yếu là xác định thời gian sống và hoạt động của cá nhân ấy. Trong thành phần của phông lưu trữ cá nhân, còn bao gồm cả những tài liệu nói về người hình thành phông sau khi người đó đã qua đời như: tài liệu tang lễ, các bài báo, bản nhạc, hồi ký Tài liệu trong các phông lưu trữ cá nhân là những khối tài liệu đa dạng về thành phần và phong phú về nội dung. Những khối tài liệu này được chỉnh lý, sắp xếp theo những nguyên tắc nghiệp vụ cơ bản được áp dụng cho phông lưu trữ có xuất xứ cá nhân. Cụ thể, tài liệu được phân loại và hệ thống hóa theo các nhóm chủ yếu phản ánh được các mặt đời sống riêng tư và các hoạt động chính trong cuộc đời của các cá nhân. Hiện nay, gần 70 phông lưu trữ cá nhân, chủ yếu là của các văn nghệ sĩ và một số nhà hoạt động trên các lĩnh vực khoa học, xã hội khác đang được bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III như: nhạc sỹ Văn Cao, nhà nghiên cứu văn học Hoài Thanh, đồng chí Tôn Quang Phiệt, GS.VS Nguyễn Khánh Toàn, GS nghiên cứu văn học Đặng Thai Mai, GS.TS.VS lịch sử - xã hội học Phạm Huy Thông, nhà nghiên cứu lịch sử Trần Văn Giáp, nhà văn Tô Hoài, Sơn Tùng, nhà thơ Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Tế Hanh Khối tài liệu này đã góp phần làm phong phú thêm Phông Lưu trữ Quốc gia Việt Nam 1.2. Thân thế và sự nghiệp của GS nghiên cứu văn học Đặng Thai Mai Giáo sư nghiên cứu văn học Đặng Thai Mai sinh ngày 25 tháng 12 năm 1902 tại làng Lương Điền (nay là Thanh Xuân), huyện Thanh Chương, tỉnh 14
  19. Nghệ An. Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng, có lòng yêu nước tha thiết. Thân phụ ông là cụ phó bảng Đặng Nguyên Cẩn, làm Đốc học, tham gia phong trào Duy Tân cùng với Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh nên đã bị thực dân Pháp bắt đày đi Côn Đảo. Sau khi phụ thân bị bắt, ông về quê nội sống từ năm sáu tuổi và được bà nội nuôi giáo dục lòng yêu nước, học chữ Hán và chữ quốc ngữ theo chương trình Đông Kinh nghĩa thục. Năm 1925, khi đang theo học tại trường Cao đẳng sư phạm Đông Dương tại Hà Nội, ông tham gia các phong trào yêu nước của sinh viên như đòi ân xá Phan Bội Châu, truy điệu Phan Chu Trinh, đồng thời gia nhập Đảng Tân Việt. Năm 1928, ông trở thành giáo sư trường Quốc học Huế. Năm 1929, khi Đảng Tân Việt tan vỡ, ông bị kết án một năm tù treo. Năm 1930, ông lại bị bắt vì tham gia phong trào Cứu tế đỏ ở Huế và bị tù một năm. Năm 1932, Đặng Thai Mai ra Hà Nội sống và dạy học tại Trường tư thục Gia Long. Đến năm 1935, Đặng Thai Mai cùng với các bạn là Phan Thanh, Hoàng Minh Giám, Võ Nguyên Giáp lập ra Trường Tư thục Thăng Long. Năm 1936, ông cùng một số trí sỹ yêu nước thành lập ra hội truyền bá chữ Quốc ngữ. Trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936 - 1939), ông bắt đầu hoạt động văn hóa công khai, viết bài cho các báo Le travail (Lao động), En avant (Tiến lên); viết một số truyện ngắn bằng tiếng Pháp để tố cáo tội ác của đế quốc thực dân và nêu gương các chiến sĩ cách mạng. Năm 1939, Ông ứng cử Viện Dân biểu Trung Kỳ và đã trúng cử. Năm 1944, ông cho ra đời tác phẩm Văn học khái luận. Đây là cuốn sách đầu tiên trình bày có hệ thống nhiều vấn đề lý luận văn học theo quan điểm tiến bộ, như điển hình và cá tính, nội dung và hình thức, truyền thống và hiện đại. Đặng Thai Mai cũng là người có công giới thiệu văn học hiện đại Trung Quốc qua các công trình Lỗ Tấn (1944), Tạp văn Trung Quốc (1944), các bản dịch kịch Lôi Vũ, Nhật Xuất của Tào Ngu. 15
  20. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, ông giảng dạy ở bậc đại học và nghiên cứu phê bình văn học. Năm 1946, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương; được bầu làm đại biểu quốc hội khóa I, Bộ trưởng Bộ giáo dục trong Chính phủ liên hiệp kháng chiến thành lập năm 1946. Trong các giai đoạn về sau, ông lần lượt giữ nhiều chức vụ khác nhau trong lĩnh vực văn hóa và giáo dục như Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Hành chính tỉnh Thanh Hóa; Hội trưởng Hội văn hóa Việt Nam, Giám đốc Trường dự bị đại học và sư phạm cao cấp Liên khu IV; Giám đốc trường đại học sư phạm Hà Nội; Viện trưởng Viện văn học; Chủ tịch Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam. Trong suốt thời gian này, Đặng Thai Mai cũng dành nhiều tâm huyết nghiên cứu phê bình văn học. Ông tiếp tục nghiên cứu thơ văn Lý - Trần, Văn thơ cách mạng đầu thế kỷ XX, Văn thơ Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh và giới thiệu văn học nước ngoài vào Việt Nam. Giáo sư Đặng Thai Mai mất ngày 25/9/1984 tại Hà Nội, thọ 82 tuổi. Đặng Thai Mai là một nhà văn hóa, một người thầy giáo tâm huyết, một nhà nghiên cứu văn học xuất sắc. Những thế hệ học trò đều có chung tình cảm kính yêu trân trọng đối với ông. Ông là một thầy giáo có kiến thức sâu rộng, dạy học với tấm lòng say mê và tình yêu với học trò. Ông là một tấm gương sáng về người thầy giáo và đã được nhiều thế hệ tôn vinh là “bậc sư biểu quốc gia”. Đặng Thai Mai hoạt động trên nhiều lĩnh vực, nhưng đóng góp lớn nhất của ông là nghiên cứu văn học. Ông là một nhà nghiên cứu văn học xuất sắc, đạt được nhiều thành tựu trong các chuyên ngành văn học như lý luận văn học, văn học Việt Nam, văn học Trung Quốc. Ông là một nhà nghiên cứu văn học “có uy tín lớn của Việt Nam thế kỷ XX”. Với những cống hiến to lớn của mình, ông đã được Nhà nước tặng thưởng Lao động hạng Nhì, Huân chương Hồ Chí Minh năm 1982. Năm 1996, ông được Nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và 16