Luận văn Nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ của đương sự theo bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ của đương sự theo bộ luật tố tụng dân sự năm 2015", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_nghia_vu_thu_thap_cung_cap_giao_nop_chung_cu_cua_du.pdf
Nội dung text: Luận văn Nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ của đương sự theo bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THỊ THANH TÂM NGHĨA VỤ THU THẬP, CUNG CẤP, GIAO NỘP CHỨNG CỨ CỦA ĐƯƠNG SỰ THEO BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, 2017
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THỊ THANH TÂM NGHĨA VỤ THU THẬP, CUNG CẤP, GIAO NỘP CHỨNG CỨ CỦA ĐƯƠNG SỰ THEO BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015 Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. Trần Đình Hảo HÀ NỘI, 2017
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những kết luận khoa học của Luận văn này chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình này khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Lê Thị Thanh Tâm
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGHĨA VỤ THU THẬP, CUNG CẤP, GIAO NỘP CHỨNG CỨ CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ 9 1.1. Tổng quan về chứng cứ trong pháp luật tố tụng dân sự 9 1.2. Khái niệm, đặc điểm cuả nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ của đương sự trong pháp luật tố tụng dân sự 17 Chương 2. THỰC TRẠNG VỀ NGHĨA VỤ THU THẬP, CUNG CẤP, GIAO NỘP CHỨNG CỨ CỦA ĐƯƠNG SỰ THEO BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM NĂM 2015 28 2.1. Quá trình thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ của đương sự trong pháp luật tố tụng Dân sự Việt Nam qua các thời kì lịch sử 28 2.2. Thực tiễn thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 về nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ của đương sự 48 Chương 3. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA VỤ THU THẬP, CUNG CẤP, GIAO NỘP CHỨNG CỨ CỦA ĐƯƠNG SỰ THEO TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM 2015 52 3.1. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ của đương sự theo Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 52 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ của đương sự 58 KẾT LUẬN 62 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 63
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tranh chấp dân sự là những tranh chấp xảy ra giữa các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự về các quan hệ nhân thân và tài sản được pháp luật bảo vệ. Các tranh chấp dân sự không thể hòa giải, thương lượng được với nhau sẽ dẫn đến việc yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục TTDS. Khi tranh chấp được giải quyết bằng con đường tranh tụng tại Tòa án, đòi hỏi các bên đương sự phải bảo vệ quan điểm, lập luận của mình bằng các biện pháp được pháp luật thừa nhận, trong đó việc đưa ra chứng cứ nhằm chứng minh yêu cầu của mình là hợp pháp là một vấn đề rất quan trọng. Theo quy định của pháp luật tố tụng Dân sự, chứng cứ là những gì có thật được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án dân sự. Về nguyên tắc, các đương sự phải có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Tuy nhiên, khi xét thấy các tài liệu chứng cứ do đương sự cung cấp không đủ cơ sở giải quyết vụ án do quá trình thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ của đương sự còn không đúng thời gian giải quyết vụ án, các chứng cứ đương sự cung cấp không đủ cơ sở cho việc giải quyết vụ án do hạn chế trong hiểu biết dẫn đến quá trình thu thập chứng cứ còn thiếu sót. Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật cũng như khảo sát thực tiễn áp dụng các quy định về hoạt động thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ của đương sự cho thấy vẫn còn nhiều vướng mắc bất cập tạo nên những trở ngại lớn cho quá trình giải quyết vụ án tranh chấp dân sự nói chung. 1
- BLTTDS 2015 ra đời và có hiệu lực từ ngày 01/7/2016 là một bước tiến đáng kể với những quy định pháp luật tiến bộ và khoa học giúp cho các đương sự có thể thực hiện được nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ nhằm phục vụ việc giải quyết các tranh chấp dân sự được dễ hiểu và dễ áp dụng hơn. Hiện nay, chưa có một công trình nghiên cứu khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện về lĩnh vực này kể từ khi BLTTDS 2015 có hiệu lực. Chính vì vậy lựa chọn đề tài: "Nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ của đương sự theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015" để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ Luật học có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Có thể nói, hoạt động thu thập chứng cứ để chứng minh trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự từ trước đến nay nhận được rất nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước. Có rất nhiều các bài viết trao đổi trên các tạp chí khoa học như: "Chứng cứ và chứng minh trong TTDS" của tác giả Hoàng Ngọc Thỉnh; "Chế định chứng minh và chứng cứ trong BLTTDS" của tác giả Nguyễn Công Bình; "Thời hạn cung cấp chứng cứ của đương sự" của tác giả Bùi Thị Huyền; "Chứng cứ và chứng minh trong TTDS" của tác giả Dương Quốc Thành; "Tập quán nguồn luật hay nguồn chứng cứ" của tác giả Nguyễn Minh Hằng; "Một vài suy nghĩ về vấn đề chứng cứ và chứng minh được quy định trong BLTTDS" của tác giả Tưởng Duy Lượng; "Một số vướng mắc trong quá trình thực hiện BLTTDS – những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện" của tác giả Nguyễn Văn Cường; "Một số bất cập và vướng mắc của BLTTDS chưa được hướng dẫn thi hành" của tác giả Trần Văn Trung , các công trình nghiên cứu đã tập trung làm sáng tỏ vai trò, ý nghĩa của chứng cứ và chứng minh, nghiên cứu việc thực hiện thu thập, đánh giá chứng cứ trong TTDS ở Việt Nam hiện nay, đưa ra các khái niệm, đặc điểm và giải 2
- quyết một số vấn đề lý luận cơ bản về chứng cứ. Tuy nhiên đây mới chỉ là các bài viết mang tính chất định hướng, trao đổi kinh nghiệm trên các tạp chí khoa học chứ chưa mang tính chất nghiên cứu chuyên sâu. Trong các giáo trình giảng dạy tại các cơ sở đào tạo Luật học ở nước ta cũng mới đề cập đến chứng cứ và nguồn chứng cứ như giáo trình Luật TTDS của trường Đại học Luật Hà Nội và trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh Có một số đề tài chuyên khảo liên quan đến chứng cứ như: "Chứng cứ và hoạt động chứng minh trong TTDS Việt Nam" luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Vũ Trọng Hiếu, "Hoạt động cung cấp, thu thập chứng cứ trong TTDS Việt Nam" của tác giả Nguyễn Minh Hằng, Luận án tiến sĩ Luật học "Chế định chứng minh trong TTDS Việt Nam" của tác giả Nguyễn Minh Hằng, đề tài "Thu thập và đánh giá chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án dân sự - Thực trạng và giải pháp", Công trình nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Viện khoa học xét xử của Tòa án nhân dân tối cao năm 2002 những công trình này đã làm sáng tỏ được nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến việc thu thập chứng cứ. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu này được thực hiện chủ yếu vào thời điểm trước khi BLTTDS 2015 ra đời và có hiệu lực thi hành nên điều kiện kinh tế, xã hội có nhiều thay đổi đến tính ứng dụng và cũng không còn phù hợp với sự phát triển của xã hội hiện nay. Xuất phát từ xu hướng các vụ án liên quan đến TTDS hiện nay càng ngày càng tăng và việc áp dụng pháp luật từ thực tiễn xét xử còn nhiều bất cập thì việc thu thập, giao nộp và cung cấp chứng cứ của các đương sự để giúp Tòa án giải quyết vụ án được nhanh chóng, chính xác, khách quan và đúng pháp luật là rất quan trọng. Thực tiễn xét xử các vụ án TTDS qua các cấp Tòa án trong hệ thống Tòa án Việt Nam cho thấy nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ của đương sự giúp cho quá trình giải quyết vụ án được dễ dàng hơn. Do đó, việc nghiên cứu đề tài "Nghĩa vụ thu thập, cung 3
- cấp, giao nộp chứng cứ của đương sự theo BLTTDS 2015" trong lúc này là công việc có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về chứng cứ trong TTDS, đề tài đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật quy định về nghĩa vụ thu thập, cung cấp và giao nộp chứng cứ của đương sự trong TTDS Việt Nam hiện nay. Qua đó nêu ra những ưu điểm và phát hiện những bất cập, hạn chế trong các quy định của pháp luật, những sai sót yếu kém trong việc áp dụng pháp luật về nghĩa vụ thu thập, cung cấp và giao nộp chứng cứ của đương sự vào công tác xét xử của Tòa án khi giải quyết tranh chấp về dân sự nói chung và nguyên nhân của những hạn chế đó. Trên cơ sở đó đề xuất những kiến nghị, các giải pháp hoàn thiện TTRG trong TTDS, bảo vệ quyền và lợi ích của các đương sự, tiết kiệm được thời gian, công sức cho các đương sự, đảm bảo giải quyết vụ án nhanh chóng, chính xác, khách quan và đúng pháp luật. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, đề tài sẽ thực hiện một số nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: - Làm rõ các vấn đề lý luận, các lý thuyết chung, riêng về hoạt động nghĩa vụ thu thập, cung cấp và giao nộp chứng cứ của đương sự trong TTDS. - Phân tích một số vấn đề lý luận cơ bản về nghĩa vụ thu thập, cung cấp và giao nộp chứng cứ của đương sự trong TTDS. - Đánh giá thực trạng áp dụng quy định của pháp luật về nghĩa vụ thu thập, cung cấp và giao nộp chứng cứ của đương sự trong TTDS Việt Nam hiện nay vào việc giải quyết các TTDS nói chung tại hệ thống TAND các cấp. 4
- - Đánh giá ưu điểm, hạn chế, những vấn đề bất cập, chưa hợp lý, thiếu khoa học của các quy định pháp luật về nghĩa vụ thu thập, cung cấp và giao nộp chứng cứ của đương sự khi áp dụng vào thực tiễn xét xử các vụ án. - Nêu các phương hướng hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ thu thập, cung cấp và giao nộp chứng cứ của đương sự trong TTDS Việt Nam hiện nay. - Đề xuất một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ thu thập, cung cấp và giao nộp chứng cứ của đương sự trong giải quyết các tranh chấp dân sự nói chung. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Các đường lối, chính sách, các nghị quyết của Đảng, Hiến Pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam hiện hành như BLTTDS Việt Nam 2015, Bộ luật Dân sự, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; - Các quan điểm, tư tưởng luật học về chứng cứ trong TTDS, pháp luật một số nước trên thế giới về chứng cứ trong TTDS; - Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao; - Báo cáo tổng kết của hệ thống Tòa án; - Các quá trình cung cấp, thu thập, giao nộp chứng cứ của đương sự trong một số vụ án tranh chấp dân sự theo BLTTDS 2015. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Đề tài chỉ nghiên cứu về nghĩa vụ thu thập, cung cấp và giao nộp chứng cứ của đương sự trong TTDS nói chung khi giải quyết tại Tòa án - Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi của chuyên ngành Luật Kinh tế. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5
- Cơ sở phương pháp luận của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử theo quan điểm khoa học của chủ nghĩa Mác – Lê Nin. Các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cũng là phương pháp luận để nghiên cứu đề tài, vì các quy định của pháp luật phải phù hợp với sự phát triển của các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội thì mới có tính khả thi trong quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật, tạo cơ sở cho sự ổn định và phát triển của xã hội Việt Nam. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Trong quá trình nghiên cứu, học viên sử dụng phương pháp lịch sử để nghiên cứu tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển chứng cứ trong TTDS Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp được áp dụng xuyên suốt trong tất cả các chương, mục của luận văn khi làm rõ các vấn đề liên quan đến việc thu thập, cung cấp và giao nộp chứng cứ của đương sự. Phương pháp so sánh để tìm hiểu những nét tương đồng và khác biệt của BLTTDS 2015 và BLTTDS 2004 về nghĩa vụ thu thập, cung cấp và giao nộp chứng cứ của đương sự. Phương pháp thống kê khi nghiên cứu các báo cáo công tác xét xử, các bản án của hệ thống TAND các cấp trong hệ thống Tòa án về nghĩa vụ thu thập, cung cấp và giao nộp chứng cứ của đương sự. Phương pháp hệ thống hóa và khái quát hóa nhằm đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ thu thập, cung cấp và giao nộp chứng cứ của đương sự trong pháp luật TTDS Việt Nam 2015. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Nội dung của luận văn có ý nghĩa thiết thực, là cơ sở để có cái nhìn toàn diện hơn, thống nhất hơn về hệ thống pháp luật và thực trạng pháp luật 6
- Việt Nam hiện hành quy định về nghĩa vụ thu thập, cung cấp và giao nộp chứng cứ của đương sự, qua đó phát hiện những vướng mắc bất cập, sai sót trong quá trình áp dụng pháp luật về nghĩa vụ thu thập, cung cấp và giao nộp chứng cứ của đương sự vào thực tiễn xét xử các vụ án tranh chấp về dân sự nói chung, trên cơ sở đó đề cập những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ thu thập, cung cấp và giao nộp chứng cứ của đương sự để có thể đảm bảo tối đa nhất quyền và lợi ích của các bên đương sự, đảm bảo vụ án được giải quyết công bằng, khách quan và đúng pháp luật. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các đương sự bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình trước Toàn án thì việc pháp luật quy định các đương sự có quyền yêu cầu Tòa án hỗ trợ thu thập chứng cứ khi đương sự tự mình không thể thực hiện được là rất cần thiết. Hiện nay BLTTDS quy định nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự là một nguyên tắc trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên BLTTDS chưa quy định được cơ chế để các bên đương sự có thể làm tốt nghĩa vụ chứng minh của mình, đặc biệt là những khó khăn đương sự gặp phải trong quá trình thu thập chứng cứ. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự trước Tòa án. Vì vậy, sự hỗ trợ của Toà án đối với các đương sự thu thập chứng cứ trong một số trường hợp sẽ có tác dụng giúp các đương sự thực hiện được nghĩa vụ chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. 7. Cơ cấu của luận văn Luận văn ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ của đương sự trong pháp luật tố tụng dân sự. Chương 2: Thực trạng về nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ của đương sự theo Bộ luật tố tụng Dân sự Việt Nam năm 2015. 7
- Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ của đương sự theo Bộ luật tố dụng dân sự năm 2015. 8
- Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGHĨA VỤ THU THẬP, CUNG CẤP, GIAO NỘP CHỨNG CỨ CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1. Tổng quan về chứng cứ trong pháp luật tố tụng dân sự 1.1.1. Khái niệm chứng cứ trong pháp luật Tố tụng dân sự Chứng cứ có thể hiểu là những gì phản ánh sự thật khách quan, được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định. Trong một vụ việc dân sự thường có rất nhiều tình tiết, sự kiện mà quan hệ pháp luật giữa các bên đương sự phụ thuộc vào nó. Những tình tiết, sự kiện đó bao gồm các tin tức, dấu vết được thể hiện dưới những hình thức nhất định do Tòa án sử dụng làm cơ sở để giải quyết vụ việc dân sự được gọi là chứng cứ. Chứng cứ và lý luận về chứng cứ là nội dung quan trọng trong ngành luật hình thức. Thông tin, tài liệu, sự kiện được thừa nhận là chứng cứ hoặc không là chứng cứ là tiền đề lý luận và cơ sở pháp lý để các chủ thể chứng minh sử dụng làm căn cứ bảo vệ quyền của mình hoặc áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ việc phát sinh tại cơ quan tư pháp. Nhận thức được tầm quan trọng của chứng cứ, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 đã ghi nhận và quy định chứng cứ và chứng minh từ Điều 91 đến Điều 110, chương VII. Trên cơ sở các quy định này, các chủ thể chứng minh có quyền sử dụng các quy định về chứng cứ để phục vụ cho nhu cầu của mình trong việc bảo vệ quyền và Tòa án dùng làm căn cứ để giải quyết các tranh chấp, yêu cầu của đương sự, người yêu cầu. Nghiên cứu lý luận chứng cứ trong vụ án dân sự ở Việt Nam dưới góc độ lịch sử, chúng ta có thể nhận định mặc dù khái niệm chứng cứ cho đến thời điểm trước khi ban hành Bộ luật Tố tụng Dân sự (TTDS) chưa được quy định 9
- chính thức, tuy nhiên các nhà nghiên cứu, giảng dạy về Luật TTDS đã xây dựng khái niệm chứng cứ dựa trên cơ sở của Chủ nghĩa duy vật biện chứng có tiếp thu những quan điểm khoa học về chứng cứ của pháp luật tố tụng dân sự ở các nước. Có nhiều định nghĩa về chứng cứ trên thế giới: Trong Bộ luật TTDS của Liên bang Nga có quy định: “Chứng cứ trong TTDS là những sự thật khách quan và theo đó mà Tòa án có cơ sở để Tòa án giải quyết vụ án dân sự” hay BLTTDS Nhật Bản có định nghĩa: “Chứng cứ là một tư liệu thông qua đó một tình tiết được Tòa án công nhận và là một tư liệu, cơ sở thông qua đó Tòa án được thuyết phục là một tình tiết nhất định tồn tại hay không”. Có thể thấy, về nội hàm khái niệm của một số nước nêu trên khẳng định lại là: Chứng cứ là sự thật khách quan. Ở Việt Nam trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những quan điểm khoa học về chứng cứ trong pháp luật TTDS của các nước, đó là xuất phát từ thực tế khách quan của bản thân chứng cứ không lệ thuộc vào ý thức con người, đánh giá chứng cứ trong mối quan hệ biện chứng, mỗi chứng cứ đều có nguồn gốc dẫn đến sự hình thành nên nó, sự tồn tại của chứng cứ luôn ở dạng động, liên quan đến nhau [13, tr20]. Trong khoa học Luật TTDS Việt Nam, chứng cứ được định nghĩa: “Chứng cứ là những gì có thật mà dựa vào đó theo một trình tự do luật định, Tòa án xác định có hay không có những tình tiết làm cơ sở cho các yêu cầu của đương sự, của Viện kiểm sát, tổ chức xã hội và những tình tiết khác có ý nghĩa để giải quyết đúng đắn vụ kiện’’ [15, tr12]. Khái niệm chứng cứ qua từng giai đoạn được các nhà làm luật đưa ra nhiều khái niệm khác nhau, như tác giả ThS. Đoàn Thị Ngọc Hải trong bài viết “Chứng cứ, chứng minh trong tố tụng dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015” từng đưa ra khái niệm “Chứng cứ trong vụ việc 10
- dân sự là những gì có thật được đương sự và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do bộ luật này quy định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp” Bộ luật Tố tụng Dân sự được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 27/5/2004 tại Điều 81 đã đưa ra quy phạm định nghĩa về khái niệm chứng cứ như sau: “Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự”. Và theo Điều 93 Bộ luật TTDS 2015, chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập được trong quá trình tố tụng, từ đó xác định yêu cầu hay phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không. Như vậy, tác giả đưa ra nhận định chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được thu thập theo trình tự do pháp luật tố tụng dân sự quy định mà Tòa án dùng làm căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự. 1.1.2. Đặc điểm chứng cứ trong pháp luật Tố tụng dân sự Hiện nay khái niệm về chứng cứ có nhiều quan điểm khác nhau tùy thuộc vào khía cạnh nhận thức, phương pháp tiếp cận, cách đánh giá chứng minh của chứng cứ. Dưới góc độ của Tố tụng dân sự, chứng cứ có ba thuộc tính cơ bản: tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp. 11
- Tính khách quan, chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật và tồn tại độc lập với ý chí con người, không bị hư cấu, xuyên tạc, sửa chữa theo ý muốn chủ quan của con người. Các chủ thể tố tụng không thể tự tạo ra chứng cứ mà chỉ có thể thu thập, nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chứng cứ. Tuy nhiên nguồn gốc của chứng cứ và chứng cứ có mối liên hệ mật thiết với nhau. Nguồn gốc của chứng cứ là cơ sở hình thành và xây dựng tính khách quan của chứng cứ. Về nguồn gốc của chứng cứ, các thông tin, tài liệu, sự kiện nảy sinh trong đời sống xã hội là sản phẩm của hành vi con người. Trong đời sống xã hội, thông qua các hoạt động khác nhau, con người tạo ra và để lại nhiều dấu vết, thông tin phục vụ cho nhu cầu hoạt động của mình. Những dấu vết, thông tin này xuất phát từ những hành vi hợp pháp hoặc không hợp pháp của con người. Từ đó, thông qua những hoạt động theo quy định của pháp luật được thừa nhận, con người sử dụng nó để khẳng định rằng mình có quyền lợi bị người khác xâm phạm hoặc không vi phạm quyền lợi của người khác . Tính liên quan, là thuộc tính quan trọng của chứng cứ, gắn liền với các sự kiện cần chứng minh trong các vụ việc dân sự. Theo từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục năm 1998 “Tính liên quan là sự liên hệ, dính dáng nhau ở một hoặc một số tính chất”. Những thông tin, tài liệu, sự kiện có thật, tồn tại khách quan chỉ được coi là chứng cứ khi nó có mối liên hệ với các sự kiện cần chứng minh trong vụ việc dân sự mà Tòa án đang giải quyết. Tính liên quan của chứng cứ gắn liền với sự chứa đựng thông tin, tài liệu, sự kiện mà các đương sự và các chủ thể tham gia chứng minh cung cấp cho Tòa án cũng như hoạt động sử dụng chứng cứ của Tòa án trong việc kết luận một sự việc. 12
- Tính liên quan còn được thể hiện dưới dạng gián tiếp, tức là dựa vào thông tin đó, phải qua một hoặc nhiều khâu trung gian mới giúp Tòa án đưa ra kết luận về tình tiết, sự kiện cần chứng minh trong vụ việc dân sự. Như vậy, tính liên quan trong vụ việc dân sự được hiểu là các tình tiết, sự kiện có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp với vụ việc dân sự mà Tòa án đang giải quyết. Tính hợp pháp, là chứng cứ phải được rút ra từ những nguồn gốc nhất định do pháp luật quy định, quá trình thu thập, nghiên cứu, đánh giá, sử dụng chứng cứ phải được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật. Nếu thiếu thuộc tính này, việc thu thập, đánh giá chứng cứ sẽ dễ dàng bị các chủ thể tố tụng lạm dụng, không bảo đảm tính đúng đắn, công bằng của thủ tục tố tụng, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự và các chủ thể khác. Mọi hoạt động thu thập, bảo quản, kiểm tra, đánh giá chứng cứ không tuân thủ theo quy định của luật thì những thông tin đó không được coi là chứng cứ. 1.1.3. Nguồn chứng cứ trong pháp luật Tố tụng dân sự Nguồn của chứng cứ được hiểu là nơi chứa đựng chứng cứ. Theo BLTTDS 2015 hiện hành thì nguồn của chứng cứ bao gồm: tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử; vật chứng; lời khai của đương sự; lời khai của người làm chứng; kết luận giám định; biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ; kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản; văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập; văn bản công chứng, chứng thực; các nguồn khác do pháp luật quy định. Như vậy ngoài 8 nguồn chứng cứ được quy định tại Điều 82 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 bổ sung thêm các nguồn sau: Dữ liệu điện tử, Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập; Văn bản công chứng, chứng thực. Đồng thời, tập quán đã không còn được xem là nguồn chứng cứ trong tố tụng dân sự 13
- để tránh cho việc vận dụng tập quán một cách tùy tiện trong quá trình giải quyết vụ án. Trước đây, trên thực tế giải quyết những vụ án dân sự có liên quan đến dữ liệu điện tử, thường rất khó khăn do chưa có quy định cụ thể, tuy nhiên BLTTDS năm 2015 đã bổ sung thêm quy định này tại khoản 3 Điều 95 “Thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử”, đây là những thông tin được tạo ra, được gửi đi, được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử, dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, Fax và các hình thức tương tự khác, từ đó giúp cho việc xem xét đánh giá chứng cứ được khách quan, toàn diện và kịp thời hơn. Từ các nguồn chứng cứ Tòa án sẽ rút ra được các chứng cứ cần thiết cho việc giải quyết vụ việc dân sự một cách khách quan, chính xác. Nguồn chứng cứ là hình thức tồn tại, chứa đựng chứng cứ. Chứng cứ có thể được hình thành và thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, được quy định cụ thể tại Điều 94 Bộ luật TTDS 2015. 1.1.4. Phân loại chứng cứ trong pháp luật Tố tụng dân sự Chứng cứ có thể được phân chia thành nhiều loại dựa trên nhiều tiêu chí và cách tiếp cận khác nhau. Điều đó có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu, đánh giá độ tin cậy của chứng cứ cũng như trong việc sử dụng chứng cứ. + Dựa vào nguồn chứng cứ được phân loại thành chứng cứ theo vật và chứng cứ theo người. 14
- + Dựa vào mức độ liên quan cử chứng cứ với các tình tiết, sự kiện cần chứng minh trong vụ việc dân sự, chứng cứ được chia thành chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp. + Dựa vào cách thức tạo thành chứng cứ, chứng cứ được chia thành chứng cứ gốc và chứng cứ sao lại, thuật lại. + Dựa vào hình thức thể hiện của chứng cứ, chứng cứ được chia thành chứng cứ viết và chứng cứ miệng. Thông thường, các chứng cứ theo vật, chứng cứ trực tiếp, chứng cứ gốc và chứng cứ viết có giá trị chứng minh cao hơn. 1.1.5. Nguyên tắc xác định chứng cứ trong pháp luật Tố tụng dân sự Là việc Tòa án công nhận và sử dụng những thông tin, tài liệu làm căn cứ để giải quyết các vụ việc dân sự. Các thông tin, tình tiết, sự kiện chỉ được công nhận là chứng cứ khi được cơ quan tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá và sử dụng dựa trên quy định tại Điều 95 Bộ luật TTDS 2015 và các văn bản pháp luật khác [3, tr 28]. - Các tài liệu đọc được nội dung phải là bản chính hoặc bản sao công chứng, chứng thực hợp pháp do cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền cung cấp, xác nhận. Bản chính là bản gốc hoặc bản dùng làm cơ sở lập ra các bản sao. - Tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ phải được xuất trình kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ của các tài liệu đó hoặc văn bản về sự liên quan tới việc thu âm, thu hình đó. Các tài liệu đó có thể là băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, phim, ảnh, USB, thẻ nhớ, ổ đĩa vi tính nếu đương sự không xuất trình được các văn bản nêu trên thì tài liệu nghe được, nhìn được mà đương sự giao nộp không được coi là chứng cứ. 15
- - Vật chứng phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc dân sự. Nếu không phải là hiện vật gốc hoặc không liên quan đến vụ việc dân sự thì không phải là chứng cứ. - Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình và được xuất trình theo đúng thủ tục như đã nêu trên hoặc khai bằng lời tại phiên tòa thì được coi là chứng cứ. - Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ được coi là chứng cứ, nếu việc thẩm định tại chỗ được tiến hành đúng thủ tục quy định. - Kết quả giám định, thẩm định, định giá tài sản được coi là chứng cứ, nếu việc định giá, thẩm định giá được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định hoặc do chuyên gia về giá cung cấp theo quy định của pháp luật và tuân thủ đúng quy định. 1.1.6. Bảo quản chứng cứ trong pháp luật Tố tụng dân sự Bảo quản chứng cứ là giữ gìn giá trị chứng minh của chứng cứ. Việc bảo quản chứng cứ trong tố tụng dân sự được thực hiện theo Điều 107 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Chứng cứ phải được bảo quản lâu dài, không để bị mất, thất lạc hoặc giảm giá trị chứng minh. Chứng cứ có thể do đương sự, Tòa án hoặc người thứ ba nào đó lưu giữ. Nếu tài liệu, chứng cứ đã được giao nộp cho Tòa án, thì việc bảo quản tài liệu, chứng cứ đó do Tòa án chịu trách nhiệm. Trong trường hợp tài liệu, chứng cứ không thể giao nộp được tại Tòa án thì người đang lưu giữ tài liệu, chứng cứ đó có trách nhiệm bảo quản. Trường hợp cần giao tài liệu, chứng cứ cho người thứ ba bảo quản thì Thẩm phán ra quyết định và lập biên bản giao cho người đó bảo quản. Người nhận bảo quản phải ký tên vào biên bản, được hưởng thù lao và phải chịu trách nhiệm về việc bảo 16
- quản tài liệu, chứng cứ theo quy định của pháp luật. Về nguyên tắc thì người nào lưu giữ chứng cứ phải có trách nhiệm bảo quản chứng cứ. 1.1.7. Bảo vệ chứng cứ trong pháp luật Tố tụng dân sự Bảo vệ chứng cứ là chống lại các hành vi xâm phạm chứng cứ để giữ gìn giá trị chứng minh của chứng cứ. Việc bảo vệ chứng cứ được thực hiện trong trường hợp có hành vi tiêu hủy, có nguy cơ bị tiêu hủy hoặc sau này khó có thể thu thập được. Tòa án ra quyết định bảo vệ chứng cứ theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết. Trong trường hợp chứng cứ đang bị tiêu hủy, có nguy cơ bị tiêu hủy hoặc sau này khó có thể thu thập được thì đương sự có quyền làm đơn đề nghị Tòa án quyết định áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo toàn chứng cứ. Trong trường hợp người làm chứng bị đe dọa, bị khống chế hoặc bị mua chuộc để không cung cấp chứng cứ hoặc cung cấp chứng cứ sai sự thật thì Tòa án ra quyết định bảo vệc chứng cứ. Khi quyết định áp dụng các biện pháp bảo vệ chứng cứ, Tòa án có thể quyết định áp dụng một hoặc một trong số các biện pháp niêm phong, thu giữ, chụp ảnh, ghi âm, ghi hình, phục chế, khám nghiệm, lập biên bản và các biện pháp khác để bảo vệ chứng cứ. Tòa án có quyền quyết định buộc người có hành vi lừa dối, đe dọa, cưỡng ép hoặc mua chuộc phải chấm dứt hành vi đó. Trương hợp hành vi đó có dấu hiệu phạm tội thì Tòa án yêu cầu Viện kiểm sát xem xét trách nhiệm hình sự. 1.2. Khái niệm, đặc điểm cuả nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ của đương sự trong pháp luật tố tụng dân sự 1.2.1. Khái niệm đương sự trong pháp luật Tố tụng dân sự Đương sự là một khái niệm cơ bản khi tiếp cận ngành luật tố tụng dân sự. Việc xác định không đúng tư cách đương sự ảnh hưởng lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ sẽ là căn cứ để hủy các bản án, quyết định của Tòa án. Trong những năm gần đây, các bản án, quyết định của Tòa án bị tuyên 17