Luận văn Nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử vụ án tham nhũng của Toàn án nhân dân ở Việt Nam hiện nay
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử vụ án tham nhũng của Toàn án nhân dân ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_nang_cao_hieu_qua_hoat_dong_xet_xu_vu_an_tham_nhung.pdf
Nội dung text: Luận văn Nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử vụ án tham nhũng của Toàn án nhân dân ở Việt Nam hiện nay
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TẠ THỊ THÚY HÒA N¢NG CAO HIÖU QU¶ HO¹T §éNG XÐT Xö Vô ¸N THAM NHòNG CñA TßA ¸N NH¢N D¢N ë viÖt NAM HIÖN NAY Chuyên ngành : Luật Hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Đỗ Ngọc Quang Hà Nội - 2015
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Tạ Thị Thúy Hòa
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XÉT XỬ VỤ ÁN THAM NHŨNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 6 1.1. Các khái niệm có liên quan đến xét xử các vụ án tham nhũng 6 1.1.1. Khái niệm xét xử vụ án hình sự 6 1.1.2. Khái niệm xét xử vụ án tham nhũng 9 1.2. Quá trình phát triển của pháp luật tố tụng hình sự về xét xử vụ án tham nhũng 11 1.2.1. Giai đoạn 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 11 1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đến năm nay 14 1.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về xét xử vụ án tham nhũng 18 1.3.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về xét xử vụ án hình sự nói chung 18 1.3.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về đặc điểm xét xử vụ án tham nhũng 21 CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN XÉT XỬ VỤ ÁN THAM NHŨNG VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÉT XỬ VỤ ÁN THAM NHŨNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN 35 2.1. Thực tiễn hoạt động xét xử vụ án tham nhũng 35 2.2.1. Những kết quả đạt được 35
- 2.1.2. Những tồn tại trong xét xử các vụ án tham nhũng 42 2.1.3. Những nguyên nhân gây nên những tồn tại trong xét xử vụ án tham nhũng 51 2.2. Các kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử vụ án tham nhũng 58 2.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về xét xử vụ án tham nhũng 58 2.2.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự, tố tụng hình sự liên quan đến xét xử vụ án tham nhũng 61 2.2.3. Đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhằm bảo đảm hiệu quả xét xử vụ án tham nhũng 66 2.2.4. Đào tạo và hoàn thiện đội ngũ thẩm phán về những vấn đề liên quan đến xét xử vụ án tham nhũng 75 KẾT LUẬN 80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 82
- DANH MỤC BẢNG Trang Bảng số 2.1: số liệu các vụ án tham nhũng được điều tra, truy tố, xét xử 35 Bảng số 2.2: Thống kê theo tội danh tham nhũng bị đưa ra xét xử 37 Bảng số 2.3: kết quả phiên tòa xét xử vụ án tham nhũng 40 Bảng số 2.4: tỷ lệ áp dụng hình phạt cho hướng án treo 49
- MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đưa ra các chủ trương, đường lối và chính sách nhằm hoàn thiện thể chế và các cơ chế phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, xác định công tác tư pháp phải ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm hình sự, đặc biệt là các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội tham nhũng và các loại tội phạm có tổ chức Tiếp đó, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nhấn mạnh phải quy định trách nhiệm hình sự nghiêm khắc hơn đối với những tội phạm là người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Điều này còn được thể hiện trên nhiều phương diện, như việc xây dựng một khung pháp luật về xử lý hình sự đối với tội phạm tham nhũng theo hướng đầy đủ, rõ ràng với chế tài đủ nghiêm khắc; bước đầu bảo đảm thẩm quyền cần thiết cho các cơ quan tư pháp hình sự cũng như bảo đảm cơ chế phối hợp, tham gia của các cơ quan khác và người dân vào hoạt động xử lý đối với tội phạm tham nhũng. Kinh nghiệm thực tiễn đấu tranh chống tham nhũng cho thấy có thể thực hiện bằng nhiều biện pháp, nhưng đấu tranh thông qua các công cụ pháp luật và tư pháp là biện pháp đấu tranh công khai, minh bạch, hiệu quả cao, được nhân dân đồng tình, vì vậy tạo ra hiệu ứng xã hội mạnh mẽ trong việc củng cố lòng tin của người dân vào pháp luật, vào chế độ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, không phải không có lúc, có nơi chúng ta xử lý thiếu kiên quyết, không công khai những người có chức quyền phạm tội tham nhũng vì sợ làm mất uy tín của Đảng và Nhà nước, sợ bị “địch lợi dụng”. Nhưng điều 1
- đó đã phản tác dụng vì nó gây mất lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và là nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ ta. Báo cáo thẩm tra của Ủ y ban Tư pháp của Quốc hôị về báo cáo công tác phòng, chống tham nhũng năm 2012 của Chính phủ chỉ ra : “ việc xử lý nghiêm minh hành vi tham nhũng, nhất là các vụ án tham nhũng đặc biệt lớn chưa được quan tâm đúng mức, vẫn còn nhiều người có hành vi tham nhũng với tài sản có giá trị lớn nhưng chỉ bị xử phạt kỷ luật hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo”. Nhận thức được những tác hại của tham nhũng và sự cần thiết của công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tác giả chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử vụ án tham nhũng của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay” làm luận văn thạc sỹ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Nâng cao hiệu quả xét xử các vụ án hình sự nói chung, các vụ án tham nhũng nói riêng luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo cũng như thường xuyên được các nhà khoa học, học viên cao học, nghiên cứu sinh chọn làm đề tài nghiên cứu. Cụ thể như: Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (phần các tội phạm), Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Luật, Lê Cảm chủ biên; Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Đại học Luật Hà Nội; Sách chuyên khảo "Tìm hiểu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ" của GS.TS Võ Khánh Vinh; Sách "Tìm hiểu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về tham nhũng trong Luật hình sự Việt Nam" của GS. TS Đỗ Ngọc Quang; Sách "Nhận diện tham nhũng và các giải pháp phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay" của PGS.TSKH Phan Xuân Sơn và Ths. Phạm Thế lực đồng chủ biên.v.v . Các luận văn, luận án, công trình khoa học trực tiếp hoặc gián tiếp như: Đề tài khoa học cấp Bộ. TS Nguyễn Văn Thanh, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Thanh tra, Thanh tra Chính phủ chủ nhiệm: Thực trạng và nguyên nhân tham nhũng ở Việt Nam; Đề tài "Tham nhũng và chống tham nhũng ở Việt 2
- Nam" do PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí làm chủ nhiệm. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường (Đại học Luật Hà Nội) "Các tội phạm về tham nhũng có tính chất chiếm đoạt tài sản và đấu tranh phòng chống các tội này ở Việt Nam trong xu thế hội nhập quốc tế" do PGS.TS Dương Tuyết Miên chủ nhiệm đề tài v.v . Luận án tiến sĩ luật học: Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, tác giả Trần Đăng Vinh (Đại học Luật Hà Nội); Luận án tiến sĩ luật học: Các tội phạm về tham nhũng theo pháp luật hình sự Việt Nam, tác giả Trần Văn Đạt (Học viện Kỹ thuật quân sự, năm bảo vệ 2012); Luận án tiễn sĩ luật học: Mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự, tác giả Nguyễn Trung Kiên (Cao học hình sự 14, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội); Bài viết "Nguyên nhân và hướng khắc phục những vướng mắc trong đấu tranh với tội phạm về tham nhũng ở nước ta hiện nay" của tác giả Hồ Thế Hòe, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 1/2013; Bài viết "Một số kinh nghiệm từ thực tiễn giải quyết các vụ án tham nhũng ở cấp phúc thẩm" của tác giả Lê Thành Dương, Tạp chí Kiểm sát, số 4/2015; Bài viết “Hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng khi giải quyết vụ án hình sự trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN” đăng trên Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội (Chuyên san kinh tế - Luật), số 2- 2002; Bài tham luận “Một số kiến nghị và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh chống tham nhũng” của ông Vũ Tiến Chiến, Ủy viên Trung ương Đảng, ủy viên thường trực - Chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng tại phiên họp ngày 14/1 Đại hội XI của Đảng. Tuy nhiên đề tài mà tác giả lựa chọn chỉ tập trung nghiên cứu hoạt động xét xử các vụ án về tham nhũng. Cho đến nay nội dung này chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống trong khoa học luật hình sự Việt Nam. 3
- 3. Đối tƣợng, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động xét xử các vụ án tham nhũng của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay. Mục đích của luận văn là nghiên cứu và đánh giá kết quả đạt được cũng như những tồn tại, thiếu sót và nguyên nhân của những tồn tại, thiếu sót trong hoạt động xét xử vụ án tham nhũng hiện nay. Từ đó đề ra các giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động xét xử vụ án tham nhũng ở nước ta. Nhiệm vụ của luận văn là nghiên cứu tình hình tội phạm tham nhũng ở nước ta hiện nay. Những kết quả đã đạt được thông qua hoạt động xét xử vụ án tham nhũng trong thời gian qua. Những tồn tại, thiếu sót và nguyên nhân những tồn tại, thiếu sót trong hoạt động xét xử vụ án tham nhũng; đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử vụ án tham nhũng. 4. Các phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn được trình bày trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước và Pháp luật; Luận văn đã sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp như: so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê, đối chiếu lịch sử để làm sáng tỏ các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng những vấn đề lý luận và thực tiễn được nghiên cứu. 5. Phạm vi nghiên cứu Xét xử các vụ án tham nhũng có hiệu quả đang là đòi hỏi hết sức cấp thiết của xã hội hiện nay. Trong phạm vi của luận văn này tác giả xin giới hạn nghiên cứu ở một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong hoạt động xét xử vụ án tham nhũng của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay từ năm 2011 đến 6 tháng đầu năm 2015. 5. Những đóng góp mới của luận văn Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên, bước đầu nghiên cứu hoạt động xét xử vụ án tham nhũng cũng như các giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử các 4
- vụ án tham nhũng của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay. Luận văn đã có những đóng góp mới cho khoa học pháp lý. Ngoài ra luận văn còn là tài liệu tham khảo cho quá trình học tập, nghiên cứu về tội phạm tham nhũng; hoạt động xét xử của tòa án nhân dân nói chung, hoạt động xét xử vụ án tham nhũng của tòa án nhân dân nói riêng. Đồng thời góp phần vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm tham nhũng đang diễn ra hết sức trầm trọng như hiện nay. 6. Cấu trúc của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tài luận văn được chia làm 2 chương như sau: Chương 1. Những vấn đề chung về xét xử vụ án tham nhũng của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay. Chương 2. Thực tiễn xét xử vụ án tham nhũng và những kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử vụ án tham nhũng của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay. 5
- Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XÉT XỬ VỤ ÁN THAM NHŨNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. Các khái niệm có liên quan đến xét xử các vụ án tham nhũng 1.1.1. Khái niệm xét xử vụ án hình sự Theo Từ điển Luật học (trang 869): “Xét xử là hoạt động xem xét, đánh giá bản chất pháp lý của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp lí của vụ việc, từ đó nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết tương ứng với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc (xét xử vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính )”. Theo Sổ tay thuật ngữ pháp lí thông dụng: Xét xử là hoạt động do Tòa án tiến hành theo pháp luật tố tụng, trong đó Tòa án sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án một cách khách quan toàn diện và đầy đủ các tình tiết của vụ án, tiến hành giải quyết và xử lý vụ án bằng việc ra bản án và các quyết định cần thiết có liên quan. Thuật ngữ “xét xử”, hiểu theo nghĩa là một giai đoạn tố tụng quan trọng - được thể hiện thông qua hình thức phiên tòa - là nơi nhìn nhận công khai kết quả của nhiều hoạt động khác như điều tra, truy tố, giám định, bào chữa để Tòa án độc lập phán quyết, thể hiện quyền lực Nhà nước, về bản chất của vụ án. Tòa án của bất cứ quốc gia nào trên thế giới cũng đều có chức năng xét xử. Xét xử có vai trò rất lớn trong việc giữ vững ổn định và phát triển của xã hội. Sự ổn định của trật tự pháp luật trong nước, việc giữ vững kỷ cương xã hội, sự tự do và an toàn của con người một phần quan trọng phụ thuộc vào hoạt động xét xử của Tòa án. Bằng việc xét xử nghiêm minh, đúng pháp luật, đúng người, đúng tội chẳng những có tác dụng trừng trị các phần tử phạm tội, giáo dục, cải tạo họ mà đồng thời còn góp phần ngăn chặn, phòng ngừa các vi phạm trong xã hội. Bằng việc giải quyết 6
- đúng các tranh chấp, Toà án góp phần bảo vệ lợi ích chính đáng của các tổ chức, cá nhân, tạo thuận lợi cho các giao dịch dân sự, kinh tế phát triển lành mạnh. Quá trình tiến hành giải quyết một vụ án hình sự trải qua rất nhiều giai đoạn khác nhau. Trong đó có thể coi việc xét xử vụ án hình sự có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giải quyết một vụ án hình sự bởi chỉ trong quá trình xét xử các chứng cứ mới được công khai và quyết định bị cáo có tội hay không có tội. Hiến pháp năm 2013 khẳng định Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án khác do luật định là những cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp, tức có chức năng xét xử các vụ án, giải quyết các việc có tranh chấp theo thẩm quyền quy định. Mọi bản án do các Toà án tuyên đều phải qua xét xử. Không ai có thể bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật. Như vậy, xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức năng nhiệm vụ của các Toà án. Các Toà án là các cơ quan duy nhất của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đảm nhiệm chức năng xét xử. Hiến pháp năm 1992 quy định hệ thống tòa án gồm: “Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định”. Quy định này là nhằm xác định Tòa án được tổ chức theo địa giới hành chính địa phương từ cấp huyện đến cấp tỉnh. Nghĩa là, có đơn vị hành chính cấp huyện hoặc cấp tỉnh thì đồng thời có Tòa án cấp huyện hoặc Tòa án cấp tỉnh. Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp đã xác định tổ chức hệ thống Tòa án theo cấp xét xử không phụ thuộc vào địa giới hành chính. Vì vậy, Hiến pháp năm 2013 đã thể chế quan điểm này về tổ chức Tòa án nhân dân, cụ thể là: Khoản 2 Điều 102 Hiến pháp sửa đổi quy định “Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do Luật định”. Căn cứ quy định trên, Điều 3 7
- Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 đã quy định Tổ chức Tòa án nhân dân gồm có: Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; Tòa án quân sự. Như vậy so với quy định trước đây, có bổ sung thêm quy định về Tòa án nhân dân cấp cao. Tuy nhiên vấn đề xác định tổ chức hệ thống Tòa án theo cấp xét xử không phụ thuộc vào địa giới hành chính vẫn chưa được giải quyết. Xét xử vụ án hình sự, như trên đã phân tích bao gồm hai giai đoạn là xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Pháp luật ghi nhận và đảm bảo thực hiện nghiêm ngặt nguyên tắc hai cấp xét xử là xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Trong đó, xét xử sơ thẩm được quy định chặt chẽ từ thẩm quyền xét xử, chuẩn bị xét xử, những quy định chung về thủ tục tố tụng tại phiên tòa cho đến khi xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nghị án và tuyên án. Bởi vì xét xử sơ thẩm là xét xử lần thứ nhất, là giai đoạn trung tâm và có vai trò quan trọng bậc nhất do Toà án được giao thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật. Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự, trong đó Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị nhằm kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp của bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm. Như vậy, xét xử vụ án hình sự là việc tòa án đánh giá một cách toàn diện, khách quan và đầy đủ các chứng cứ, các tình tiết của vụ án hình sự để quyết định có hành vi phạm tội xảy ra hay không, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị đưa ra xét xử để từ đó đưa ra một bản án (quyết định) một cách công minh và đúng pháp luật, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục tránh bỏ lọt tội phạm và kết án oan người vô tội. 8
- 1.1.2. Khái niệm xét xử vụ án tham nhũng “Tham nhũng” là một thuật ngữ có nghĩa rộng, được tranh luận khá sôi nổi trong các nghiên cứu về tham nhũng trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Theo Từ điển Luật học - Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp thì tham nhũng là “hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn hưởng lợi ích vật chất trái pháp luật, gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, tập thể, cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức”. Ở nước ta hiện nay, từ “tham nhũng” thường được dùng để chỉ hành vi đòi hối lộ và nhận hối lộ của những người có quyền lực trong bộ máy Nhà nước, còn từ “tham ô” được dùng để chỉ hành vi ăn cắp tài sản công. Tham nhũng diễn ra trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Hội nghị Trung ương IX đã chỉ rõ, tệ tham nhũng, tiêu cực nổi lên nóng bỏng nhất trên 4 lĩnh vực chủ yếu, đó là: xây dựng cơ bản, quản lý và sử dụng đất đai, sử dụng ngân sách công và việc chi tiêu của các doanh nghiệp Nhà nước. Điều 3, Luật phòng, chống tham nhũng quy định 12 hành vi tham nhũng, bao gồm: Tham ô tài sản; Nhận hối lộ; Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi; Giả mạo trong công tác vì vụ lợi; Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì vụ lợi; Nhũng nhiễu vì vụ lợi; Không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi. Tuy nhiên, không phải mọi 9
- hành vi tham nhũng đều bị xử lý về mặt hình sự mà chỉ những hành vi hội đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm quy định trong Bộ luật Hình sự thì mới được xác định là tội phạm và bị xử lý bằng biện pháp hình sự. Cụ thể, Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định các hành vi tham nhũng ở phần các tội phạm về tham nhũng như sau: Tội tham ô tài sản (Điều 278); Tội nhận hối lộ (Điều 279); Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 280); Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi (Điều 281); Tội lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi (Điều 282); Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi (Điều 283); và Tội giả mạo trong công tác vì vụ lợi (Điều 284). Như phần trên đã trình bày, xét xử vụ án hình sự là việc tòa án đánh giá một cách toàn diện, khách quan và đầy đủ các chứng cứ, các tình tiết của vụ án hình sự để quyết định có hành vi phạm tội xảy ra hay không, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị đưa ra xét xử để từ đó đưa ra một bản án một cách công minh và đúng pháp luật, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục, tránh bỏ lọt tội phạm và kết án oan người vô tội. Xét xử vụ án tham nhũng cũng là xét xử vụ án hình sự, nhưng về các tội về tham nhũng được quy định trong Bộ luật hình sự nhằm mục đích đánh giá có hành vi tham nhũng xảy ra hay không, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người có hành vi tham nhũng bị đưa ra xét xử để từ đó đưa ra một bản án (quyết định) một cách công minh và đúng pháp luật, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục tránh bỏ lọt tội phạm về tham nhũng và không kết án oan người vô tội. Như vậy, xét xử vụ án tham nhũng là việc Tòa án có thẩm quyền đưa vụ án hình sự về tội tham nhũng bị Viện Kiểm sát truy tố ra xét xử nhằm đánh giá có hành vi tham nhũng xảy ra hay không, những tình tiết tăng nặng, giảm 10
- nhẹ trách nhiệm hình sự của người có hành vi tham nhũng bị đưa ra xét xử để từ đó đưa ra một bản án (quyết định) một cách công minh và đúng pháp luật, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục, tránh bỏ lọt tội phạm về tham nhũng và không kết án oan người vô tội. 1.2. Quá trình phát triển của pháp luật tố tụng hình sự về xét xử vụ án tham nhũng 1.2.1. Giai đoạn 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Ngay từ khi thành lập, chính quyền còn non trẻ đã bắt tay ngay vào công cuộc kiến thiết đất nước, đồng thời sẵn sàng chống lại mọi âm mưu xâm lược của các thế lực thù địch bên ngoài và tay sai. Đảng Cộng sản Việt Nam lúc này đã chỉ rõ, muốn đấu tranh thắng lợi với kẻ thù và vượt qua mọi khó khăn đòi hỏi phải huy động sức mạnh của toàn thể dân tộc, thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân, nhất là phải xây dựng củng cố chính quyền nhân dân. Đây là một nhiệm vụ hết sức mới mẻ và đầy khó khăn. Trong quá trình hoạt động của Nhà nước ta, cũng đã bắt đầu có hiện tượng một số người cố tình lợi dụng địa vị của mình trong bộ máy chính quyền để mưu lợi cá nhân, tham ô, lãng phí. Thực tế lịch sử cho thấy, tham nhũng tồn tại trong mọi quốc gia và không loại trừ đối với chế độ xã hội nào. Nhận biết được sự nguy hiểm của tham nhũng, Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngay sau khi lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành được chính quyền, thành lập Nhà nước công nông đã chú trọng đến việc ban hành những văn bản, tạo cơ sở pháp lý để ngăn chặn, trừng trị các tội phạm tham nhũng. Ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 64/SL thành lập Ban Thanh tra đặc biệt. Tại Điều 3 Sắc lệnh này quy định: Sẽ thiết lập ngay, tại Hà Nội 11
- một Tòa án đặc biệt để xử những nhân viên của các Ủy ban nhân dân hay các cơ quan của Chính phủ do Ban Thanh tra truy tố. Điều 6 Sắc lệnh quy định: Tòa án đặc biệt có toàn quyền định án, có thể tuyên án tử hình. Những án tuyên lên sẽ thi hành trong 48 giờ. Có thể nói trong hoàn cảnh khó khăn và phức tạp lúc bấy giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhà nước ta đã có những biện pháp kịp thời để đấu tranh với những vi phạm trong đội ngũ cán bộ chính quyền của mình, tỏ rõ thái độ đấu tranh không khoan nhượng với hành vi tham nhũng. Sắc lệnh 64/SL cùng với sự ra đời của Tòa án đặc biệt là văn bản pháp lý và một trong những cơ quan có thẩm quyền đầu tiên về đấu tranh chống tham nhũng ở Nhà nước ta. Nhiều vụ việc tiêu cực, tham nhũng đã bị phát hiện và xử lý, mang lại niềm tin cho nhân dân vào chế độ. Ngày 24/01/1946 Chủ tịch chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành Sắc lệnh số 13 về tổ chức các Tòa án và các ngạch thẩm phán. Sắc lệnh đã quy định về việc tuyên thệ khi nhậm chức của phụ thẩm: "Tôi thề trước Công lý và nhân dân rằng tôi sẽ suy xét cẩn thận những án đem ra xử, không hề ăn hối lộ, vị nể, vì sợ hãi, vì tư lợi hay thù oán riêng mà bênh vực hay làm hại một bị can nào". Trong tình hình đất nước phức tạp, thù trong giặc ngoài nhưng Đảng và Nhà nước vẫn hết sức quan tâm đến việc ban hành những văn bản, tạo cơ sở pháp lý để ngăn chặn, trừng trị các tội phạm tham nhũng, điển hình là Sắc lệnh số 223/SL ngày 27 tháng 11 năm 1946 về truy tố các tội hối lộ, phù lạm, biển thủ công quỹ. Trong văn bản này đã xác định chủ thể của loại tội phạm này là công chức và nhân viên Chính phủ, trong các Ủy ban hành chính các cấp, các cơ quan do nhân dân bầu lên, trong bộ đội và tất cả người phụ trách trong một công vụ. Như vậy, có thể thấy khi đó pháp luật của chúng ta đã các định khá rộng về chủ thể của tội tham nhũng và được hiểu có thể là bất kỳ ai có chức vụ, quyền hạn. Sắc lệnh số 223/SL đã có những quy định nghiêm 12
- khắc đối với kẻ tham nhũng như “Tội đưa hối lộ cho công chức, tội công chức nhận hối lộ hoặc phù lạm, hoặc biển thủ công quỹ, hay của công dân đều bị phạt khổ sai từ 5 năm đến 20 năm và phạt bạc gấp đôi tang vật hối lộ, phù lạm hay biển thủ. Tang vật hối lộ bị tịch thu sung công: Người phạm tội còn có thể bị xử tịch thu nhiều nhất đến ba phần tư gia sản; Các đồng phạm và tòng phạm cũng bị phạt như trên” (Điều 1). Đồng thời Sắc lệnh cũng thể hiện thái độ nhân đạo khoan hồng và sự công bằng đối với người đưa hối lộ, phân biệt kẻ cố tình và vô tình, người bị bắt ép hoặc đã có hành vi tố giác như tại điều 2 “Người phạm tội đưa hối lộ cho một công chức mà tự ý cáo giác cho nhà chức trách việc hối lộ ấy và chứng minh rằng đưa hối lộ là vì bị công chức cưỡng bách ước hứa hay là dùng cách trá ngụy thì người ấy được miễn hết các tội. Trong trường hợp này, tang vật hối lộ được hoàn lại”. Ngoài tội hối lộ, Sắc lệnh này còn ghi nhận các hình thức của tội tham ô dưới các tên gọi “phù phạm, biển thủ công quỹ”, thực chất đây là những biểu hiện cụ thể của tội tham ô. Các hình phạt với tội này đều rất nghiêm khắc, thể hiện sự đấu tranh không khoan nhượng của Đảng và Nhà nước ta. Sắc lệnh số 223/SL mặc dù còn hết đơn giản nhưng việc truy tố các tội hối lộ hoặc phù lạm, hoặc biển thủ công quỹ đã thể hiện chính sách hình sự nhất quán của Nhà nước ta đối với các tội phạm tham nhũng mà điển hình là tội tham ô và nhận hối lộ, cũng như chú trọng động viên, khuyến khích người chủ động tố giác các hành vi tham nhũng. Tiếp sau đó các quy định về tham nhũng và tội phạm tham nhũng được quy định rải rác trong các văn bản pháp luật. Tuy nhiên có thể kể đến một số văn bản pháp luật quy định trực tiếp như: ngày 09/9/1964, Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ thị số 84/TTg về việc tổng hợp tình hình tham ô, lãng phí, quan liêu; Quyết định số 207/CP ngày 06/12/1962 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về việc thành lập Ban chỉ đạo Trung ương cuộc vận động nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế, tài chính, chống tham ô, lãng phí, quan liêu; 13
- Điển hình trong số văn bản pháp luật về phòng, chống tham nhũng là Bộ luật Hình sự năm 1985. Bộ luật đã xây dựng nhiều điều quy định cụ thể về các tội danh liên quan tới tham nhũng. Trong đó, Luật đã quy định tương đối rõ ràng về hành vi phạm tội, giá trị tài sản bị chiếm đoạt để làm căn cứ để tiến hành truy tố, xét xử tội phạm về tham nhũng. Trên cơ sở Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành, Bộ luật tố tụng hình sự được ban hành năm 1988 quy định những vấn đề liên quan đến xét xử vụ án hình sự nói chung và xét xử các vụ án tham nhũng nói riêng. 1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đến năm nay Sau khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 có liên quan đến đến xét xử vụ án tham nhũng, ngày 16/6/1990 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã có Quyết định số 240 - HĐBT nhằm tập trung đấu tranh chống tệ nạn tham ô, hối lộ, cố ý làm trái chính sách, luật pháp và sử dụng lãng phí tiền bạc, tài sản của Nhà nước. Đây là một trong những văn bản pháp luật sớm nhất của Nhà nước sử dụng thuật ngữ “tham nhũng”; Chỉ thị số 64 - CT/TW ngày 10/10/1990 của Ban Bí thư về lãnh đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng; Chỉ thị số 416/CT ngày 03/12/1990 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về việc tăng cường công tác thanh tra, điều tra xử lý các việc tham nhũng và buôn lậu; Ngày 06/12/1990 Tòa án nhân dân tối cao đã ra Chỉ thị số 08/CT-TATC về việc triển khai chống tham nhũng, chống buôn lậu qua biên giới và một số tội phạm kinh tế khác; Quyết định số 114/TTg ngày 21/11/1992 của Thủ tướng Chính phủ về những biện pháp cấp bách nhằm ngăn chặn và bài trừ tệ nạn tham nhũng và buôn lậu; Ngày 20/11/1992 Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 15 - CT/TW về việc tiếp tục ngăn chặn và bài trừ tệ nạn tham nhũng. Những năm sau đó, xác định tham nhũng là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa, ngày 15 14
- tháng 5 năm 1996 Bộ Chính trị đã ban hành tiếp Nghị quyết số 14 - NQ/TW về lãnh đạo của Đảng đối với cuộc đấu tranh chống tham nhũng; Nghị quyết của Quốc Hội ngày 30/12/1993 về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu v.v . Thực hiện chỉ đạo của Đảng về chống tham nhũng, trong nhiều năm qua, Quốc hội đã tập trung xây dựng nhiều văn bản pháp luật liên quan tới cuộc đấu tranh này. Thông tư liên ngành số 02/TTLN ngày 20/3/1993 của TAND Tối cao - VKSND Tối cao - Bộ Nội vụ - Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số điều quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự được ban hành, thì chưa có văn bản pháp luật nào quy định cụ thể hành vi nào là tham nhũng. Trong Thông tư số 02/TTLN ngày 20/3/1993, có nêu 11 loại hành vi phạm tội “có tính chất tham nhũng” cần được xử phạt nghiêm khắc. Trong mục 2 - Về đường lối xử lý, Thông tư nêu rõ:“a. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự được thông qua ngày 22/12/1992 phục vụ cuộc đấu tranh chống tội phạm đang diễn biến phức tạp hiện nay, đặc biệt là phục vụ cuộc đấu tranh chống tham nhũng, buôn lậu, làm hàng giả các điều khoản của Bộ luật hình sự được sửa đổi bổ sung lần này đều theo hướng tăng nặng, nghiêm khắc hơn so với quy định cũ, cho nên, đối với những người mà từ ngày 2/1/1993 trở đi phạm một trong các tội được quy định trong Luật mới được thông qua ngày 22/12/1992, thì phải xử phạt nghiêm khắc theo đúng quy định của Luật này, còn đối với những người mà trước ngày 2/1/1993 phạm một trong các tội được quy định trong Luật mới được thông qua ngày 22/12/1992, thì về nguyên tắc là phải áp dụng các quy định cũ nhưng có tham khảo các quy định mới để quyết định hình phạt cho thoả đáng. b. Các tội có tính chất tham nhũng cần phải bị xử lý nghiêm khắc là các tội được liệt kê dưới đây: Tội tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 133); Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa trong trường hợp 15