Luận văn Một số vấn đề về thời hiệu khởi kiện về thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam

pdf 111 trang vuhoa 25/08/2022 8300
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Một số vấn đề về thời hiệu khởi kiện về thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_mot_so_van_de_ve_thoi_hieu_khoi_kien_ve_thua_ke_tro.pdf

Nội dung text: Luận văn Một số vấn đề về thời hiệu khởi kiện về thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN HẢI AN Một số vấn đề về thời hiệu khởi kiện về thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam LUẬN VĂN THẠC SĨ Người hướng dẫn: TS. Phạm Công Lạc Hà nội - 2004
  2. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1: THỜI HIỆU TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ 9 1.1 NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỜI HIỆU 9 1.1.1 Khái niệm thời hiệu trong pháp luật trong pháp luật dân sự 9 1.1.2 Ý nghĩa của thời hiệu 9 1.1.3 Các loại thời hiệu 10 1.1.4 Cách tính thời hiệu 20 1.1.5 Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện và bắt đầu lại 23 thời hiệu khởi kiện 1.2 QUY ĐỊNH VỀ THỜI HIỆU CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRÊN 29 THẾ GIỚI 1.2.1 Thời hiệu trong BLDS Nhật Bản 29 1.2.2 Thời hiệu trong BLDS của nƣớc cộng hòa Pháp (còn gọi là 34 bộ luật Napoleon) 1.2.3 Thời hiệu trong BLDS VÀ Thƣơng mại Thái Lan 39 1.2.4 Thời hiệu trong BLDS Cộng hòa liên bang Đức 43 Chƣơng 2: SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ 49 VÀ QUY ĐỊNH VỀ THỜI HIỆU KHỞI KIỆN VÀ THỪA KẾ TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ 2.1 Sự phát triển của pháp luật về thừa kế trong pháp luật Việt 49 Nam qua các thời kỳ lịch sử 2.1.1 Thời kỳ phong kiến ( từ khi lập nƣớc cho đến khi thực dân 49 pháp xâm lƣợc năm 1858)
  3. 2.1.2 Thời kỳ Pháp thuộc từ năm 1858 đến năm 1945 53 2.1.3 Thời kỳ giành độc lập từ sau Cách mạng Tháng Tám đến 54 nay 2.2 Những quy định về thời hạn khởi kiện về thừa kế trong 67 pháp luật dân sự 2.2.1 Thời hiệu khởi kiện về thừa kế theo quy định của pháp luật 67 thừa kế 2.2.2 Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế theo quy định của Bộ 70 luật dân sự 2.2.3 Thời hiệu khởi kiện và thừa kế theo quy định của Nghị 73 quyết số 58/1998/UBTVQH10 ngày 20-8-1998 của Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội 2.2.4 Thời hiệu khởi kiện và thừa kế theo quy định của Nghị 75 quyết số 02/2004/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán TANDTC ngày 10-8-2004 Chƣơng 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 79 HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VỀ THỜI HIỆU KHỞI KIỆN VỀ THỪA KẾ CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 3.1 Về việc xác định “sự bất khả kháng” và “trở ngại khách 79 quan” là thời gian không tính vào hiệu lực khởi kiện 3.2 Từ xác định di sản đến xác định thời hiệu khởi kiện về phân 83 chia thừa kế 3.3 Giải quyết tranh chấp di sản thừa kế là tài sản chung của vợ chồng mà một bên vợ hoặc chồng chết trƣớc và thời hiệu 90 khởi kiện để chia di sản thừa kế của ngƣời này đã hết 3.4 Thời hiệu khởi kiện và thừa kế đƣợc tính nhƣ thế nào cho 96
  4. đúng KẾT LUẬN 100 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 105
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Lịch sử tồn tại và phát triển của xã hội loài người là sự vận động không ngừng của tự nhiên và xã hội. Từ thuở bình minh của xã hội loài người, cùng với hình thái kinh tế – xã hội sơ khai xuất hiện thì chế độ “Thừa kế tài sản” cũng được xem là một hiện tượng xã hội tất yếu khách quan luôn gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Pháp luật của các quốc gia trên thế giới đều ghi nhận và bảo hộ quyền thừa kế của công dân quốc gia mình. Các nhà nước dù có các xu thế chính trị khác nhau, nhưng đều coi quyền thừa kế là một quyền cơ bản của công dân và được ghi nhận trong đạo luật cơ bản: Hiến pháp. Đối với nước ta, ngay từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được thành lập, Nhà nước ta đã công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản của công dân, Đ.12 Hiến pháp năm 1946 của Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định: “ Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm”. Cùng với quyền này, Nhà nước cho phép công dân được để lại thừa kế tài sản của mình cho người khác theo di chúc hoặc theo pháp luật. Nhà nước ta coi quyền thừa kế là quyền tự do cá nhân và là một trong những quyền cơ bản của công dân được Nhà nước bảo hộ. Đ.19 Hiến pháp năm 1959 của Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà quy định: “Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản tư hữu của công dân”. Đ.27 Hiến pháp năm 1980 của nước CHXHCNVN quy định: “Nhà nước bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân”. Đ 58 Hiến pháp năm 1992 của nước CHXHCNVN đã quy định: “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân”. Như vậy, quyền được để lại tài sản cho người khác sau khi chết và quyền được hưởng di sản thừa kế do người chết để lại là một trong những 1
  6. quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong đạo luật cơ bản của Nhà nước: Hiến pháp. Pháp luật của Nhà nước ta quy định cho công dân có quyền được hưởng di sản thừa kế của người chết để lại theo di chúc hoặc theo pháp luật; đồng thời cũng quy định cách thức, phương pháp để người có quyền hưởng di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật chỉ có thể thực hiện quyền đó trong một thời hạn nhất định, thời hạn đó chính là thời hiệu khởi kiện về thừa kế. Pháp luật thừa kế của Việt Nam và PLDS nói chung đã kế thừa sự phát triển những thành tựu tập quán qua nhiều thời kỳ khác nhau và ngày càng được hoàn thiện. Pháp lệnh Thừa kế do Hội đồng Nhà nước nước CHXHCNVN thông qua ngày 30-8-1990, có hiệu lực từ ngày 10-9-1990. Tiếp theo là Bộ luật dân sự được thông qua ngày 28-10-1985 tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá IX nước CHXHCNVN là sự biểu hiện trình độ lập pháp của Nhà nước ta đã đạt được thành quả nhất định, đã biểu hiện sự kế thừa và phát triển những tinh hoa của PLDS từ trước đến nay. Pháp lệnh Thừa kế tuy chưa thật đầy đủ nhưng đã cụ thể hóa quyền thừa kế tài sản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1980. Cùng với sự phát triển về mọi mặt của đất nước trong thời kỳ đổi mới, BLDS được ban hành đã cụ thể hóa các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992, tạo cơ sở pháp lý để bảo đảm về các quyền tài sản, quyền nhân thân của cá nhân và các tổ chức, trong đó có quyền thừa kế tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức theo di chúc hoặc theo pháp luật. Để đảm bảo cho việc hưởng quyền thừa kế được ghi nhận trong Hiến pháp, Pháp lệnh Thừa kế và BLDS bao gồm những chế định, những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ pháp luật về thừa kế. Đó là các chế định về quyền của người có tài sản, quyền của người được hưởng thừa kế tài sản theo di chúc hoặc theo pháp luật, diện những người được hưởng thừa kế, 2
  7. di sản thừa kế v.v trong đó có quy định rất quan trọng, đó là thời hiệu khởi kiện về thừa kế. Nó bao gồm: Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế; thời hiệu khởi kiện để yêu cầu chia di sản thừa kế, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác; thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản; sự liên quan giữa các quy định về thời hiệu khởi kiện thừa kế với những quy định khác về thời hiệu nói chung của PLDS như thời hiệu hưởng quyền dân sự, được miễn trừ nghĩa vụ dân sự hoặc mất quyền khởi kiện; thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện; bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện; sự ảnh hưởng của các quy định khác của pháp luật đến thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế v.v Trước khi có BLDS, Pháp lệnh Thừa kế là văn bản pháp luật đầu tiên mang tính hệ thống các quy phạm pháp luật về thừa kế của Nhà nước. Đây cũng là lần đầu tiên thời hiệu khởi kiện về thừa kế được quy định trong PLDS Việt Nam. BLDS đã nâng cao một bước thể hiện sự kế thừa và sáng tạo trong hệ thống PLDS Việt Nam. Nhưng cho đến nay các văn bản hướng dẫn thi hành của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có rất ít và chủ yếu là hướng dẫn về hiệu lực của BLDS, về thời hiệu áp dụng, các văn bản hướng dẫn từng chương và nhất là các quy định cụ thể hiện nay về thời hiệu nói chung và thời hiệu khởi kiện về thừa kế nói riêng còn rất ít. Vì vậy, trong thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện về thừa kế của PLDS khi giải quyết các tranh chấp còn nhiều vướng mắc, nhất là những vụ tranh chấp thừa kế đang được điều chỉnh theo các quy định của Pháp lệnh Thừa kế. Đặc biệt là các tranh chấp liên quan đến thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế nói chung với thời hiệu khởi kiện để yêu cầu chia di sản thừa kế nói riêng. Thời kiệu khởi kiện về yêu cầu chia di sản thừa kế với khởi kiện chia quyền sở hữu 3
  8. di sản thừa kế đang là những vấn đề vướng mắc có tính bức xúc và đang có nhiều quan điểm khác nhau giữa các luật gia với những người áp dụng pháp luật và ngay cả trong những người áp dụng pháp luật với nhau. Trước thực trạng đó, việc nghiên cứu, phân tích để làm sáng tỏ những quy định về thời hiệu khởi kiện về thừa kế trong PLDS là cơ sở và tiền đề quan trọng để giải quyết tranh chấp về thừa kế liên quan đến thời hiệu khởi kiện về thừa kế là một việc làm có ý nghĩa và rất cần thiết. Ngoài ra, cũng cần thấy rằng mặc dù đã có những quy định tương đối cụ thể, song trong thực tế áp dụng pháp luật vẫn còn hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Thực tế đã có những vụ việc như nhau nhưng cách giải quyết khác nhau từ đó ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân vào pháp luật và công lý. Do vậy, vấn đề tổng hợp các quan điểm, quan niệm trong một đề tài nghiên cứu để tìm ra một giải pháp chung có hiệu quả là một việc làm thường xuyên, nghiêm túc và có hệ thống. Với tính chất đó, tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Một số vấn đề về thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế trong PLDS Việt Nam” với mong muốn làm sáng tỏ các quy định của pháp luật thực định. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đề tài về thừa kế nói chung trong pháp luật không phải là đề tài mới lạ. Trước khi có BLDS và kể cả trước khi có Pháp lệnh Thừa kế thì một số sinh viên chuyên ngành luật dân sự cũng đã lựa chọn đề tài về thừa kế để làm luận văn tốt nghiệp. Nhưng vấn đề về thời hiệu nói chung và thời hiệu khởi kiện về thừa kế nói riêng chưa có đề tài nào đề cập đến. Sau khi Nhà nước ta ban hành BLDS thì việc nghiên cứu đề tài về thừa kế vẫn tiếp tục được mở rộng. Ngay các luận án thạc sỹ tại Khoa Sau đại học Trường Đại học Luật Hà Nội cũng đã có một số tác giả nghiên cứu về thừa kế. Cụ thể là: Tác giả Phạm Văn Tuyết nghiên cứu về đề tài “Một số vấn đề 4
  9. về thừa kế theo di chúc trong BLDS”. Tác giả Nguyễn Thị Vinh nghiên cứu đề tài “Thừa kế theo pháp luật trong BLDS Việt Nam”. Tác giả Nguyễn Minh Tuấn nghiên cứu về đề tài “Những quy định chung về quyền thừa kế trong BLDS Việt Nam”. Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu khoa học khác cũng có nghiên cứu về thừa kế như: Cuốn “Bình luận khoa học một số vấn đề cơ bản của BLDS” của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, đề tài nghiên cứu cấp bộ “Những vấn đề lý luận cơ bản về BLDS Việt Nam” của Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia v.v Tựu trung các công trình nghiên cứu trên đây hoặc là nghiên cứu vấn đề thừa kế một cách khái quát, có tính chất tổng thể, hoặc là chỉ nghiên cứu các hình thức cụ thể của quyền thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật. Trong các công trình nghiên cứu về thừa kế, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể, đầy đủ và toàn diện về những quy định về thời hiệu khởi kiện về thừa kế. Đây chính là vấn đề được áp dụng chung cho cả hai hình thức thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Chính vấn đề này có một tầm quan trọng đặc biệt trong chế định thừa kế, nếu không nghiên cứu và nắm vững các quy định về thời hiệu khởi kiện về thừa kế thì việc giải quyết các tranh chấp sẽ không chính xác, đã dẫn đến việc áp dụng pháp luật về mỗi loại thời hiệu trong chế định chung của pháp luật về thừa kế sẽ không chính xác và không có hiệu quả cao. 3. Phạm vi nghiên cứu đề tài Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ những quy định của PLDS về thời hiệu khởi kiện về thừa kế, trong đó các quy định liên quan giữa Đ.30 và Đ.36 Pháp lệnh Thừa kế, Đ.648 BLDS. Sự liên quan giữa Đ.639 và Đ.648. Sự liên quan giữa Chương VIII Phần thứ nhất quy định chung về “Thời hiệu” với Đ.648 BLDS. 5
  10. Với mục đích trên, phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ tập trung vào việc phân tích cơ sở lý luận của những quy định chung về thời hiệu khởi kiện về thừa kế. Ngoài ra, tôi thấy cần phải hiểu đúng tinh thần và nội dung của từng điều, từng khoản theo luật thực định, mối liên hệ giữa các điều luật đó phải có dự liệu có thể có các trường hợp xẩy ra trong thực tế thì sẽ được áp dụng quy định nào để giải quyết. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Một số vấn đề về thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế trong PLDS Việt Nam” sẽ tập trung chủ yếu ở các nội dung chủ yếu sau đây: - Phân tích cơ sở khoa học và thực tế trong việc xác định sự liên quan giữa quy định chung về thời hiệu của BLDS với thời hiệu khởi kiện về thừa kế. - Nghiên cứu các quy định về thời hiệu khởi kiện về thừa kế trong PLDS được quy định trong Pháp lệnh Thừa kế và BLDS. Có thể nói rằng, đây là vấn đề rất phức tạp của các quy định về thời hiệu khởi kiện về thừa kế. - Một số kiến nghị về thời hiệu khởi kiện về thừa kế của BLDS. 4. Phương pháp nghiên cứu: Cơ sở phương pháp luận của luận văn là dựa trên cơ sở lý luận của Học thuyết Mác-Lê nin về Chủ nghĩa Duy vật biện chứng và Chủ nghĩa Duy vật lịch sử. Từ phương pháp này, luận văn sẽ xác định mối liên hệ giữa các hiện tượng, sự việc nhằm đánh giá các vấn đề một cách khoa học. Ngoài ra, từ vận dụng phương pháp liên hệ giữa thực tiễn giải quyết của Tòa án với các quy định của pháp luật. Trên cơ sở các phương pháp khoa học như: Tổng hợp, phân tích, so sánh, lịch sử luận văn sẽ phân tích khái quát sơ lược quá trình hình thành và phát triển của chế định thừa kế, khái quát các quy định thời hiệu nói chung của PLDS kể từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cho đến khi ban hành 6
  11. BLDS, để từ đó đi sâu phân tích những nét đặc thù của các quy định về thời hiệu khởi kiện về thừa kế. Cũng từ quá trình phân tích và tổng hợp đó, luận văn sẽ có những so sánh để tìm ra những nét chung và những kết luận về quy định thời hiệu khởi kiện về thừa kế để củng cố thêm cơ sở lý luận cho việc áp dụng trong thực tiễn giải quyết các tranh chấp thừa kế liên quan đến vấn đề thời hiệu. 5. Những điểm mới và ý nghĩa của đề tài Trong số các công trình nghiên cứu về thừa kế, thì chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ quy định về thời hiệu khởi kiện về thừa kế. Sau khi Pháp lệnh Thừa kế và BLDS được ban hành, việc giải thích, hướng dẫn của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về quy định thời hiệu khởi kiện về thừa kế hầu như rất ít. Đối với một số quy định của BLDS về thừa kế có liên quan đến thời hiệu cũng chưa được giải thích, hướng dẫn của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để hiểu và áp dụng một cách đúng đắn và thống nhất. Điểm mới của đề tài là việc tổng hợp các quan điểm, quan niệm khác nhau trong việc áp dụng để giải quyết các tranh chấp để tìm ra một cách hiểu đúng đắn và thống nhất quy định về thời hiệu khởi kiện về thừa kế. Đề xuất một số giải pháp có tính chất khả thi nhằm khắc phục những sai sót trong việc tìm hiểu và trong quá trình áp dụng pháp luật thực định. Thông qua việc tổng hợp, phân tích, luận văn còn so sánh những quy định chung này của chế định thừa kế với các nguyên tắc cơ bản của BLDS để tìm ra sự liên hệ thống nhất trong tổng thể của BLDS. Điểm mới của luận văn còn thể hiện ở việc bình luận khoa học từng vấn đề cụ thể trong phần những quy định về thời hiệu khởi kiện về thừa kế. 7
  12. Qua công trình khoa học này sẽ giúp cho cơ quan áp dụng pháp luật áp dụng đúng quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện về thừa kế để giải quyết tranh chấp về thừa kế và giúp cho các luật gia nghiên cứu về đề tài thừa kế có một tài liệu tham khảo mang tính lý luận và thực tiễn. Kết cấu luận văn gồm ba chương cùng với phần mở đầu và kết luận. Chương 1 8
  13. THỜI HIỆU TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ 1. 1. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỜI HIỆU 1.1.1. Khái niệm thời hiệu trong pháp luật dân sự Trong giao dịch dân sự thông thường, các chủ thể tham gia có quyền thỏa thuận những nội dung cơ bản về quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự, biện pháp, cách thức thực hiện các quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự. Các chủ thể có quyền tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Theo nguyên tắc quan trọng này, các chủ thể trong QHPLDS có quyền tự do cam kết, thỏa thuận, kể cả những trường hợp pháp luật không có quy định bao gồm cả thời hạn, nếu không trái pháp luật, đạo đức xã hội; không trái với những nguyên tắc cơ bản của PLDS. Song để bảo đảm sự ổn định của các QHPLDS trong đời sống xã hội là một trong những mục tiêu của PLDS nên phần thứ nhất của BLDS quy định về những quy định chung gồm 171 điều trong đó chương VIII quy định chế định thời hiệu (từ Đ.163 đến Đ.171). Đ.163 BLDS quy định thời hiệu được hiểu là một khoảng thời hạn do PLDS quy định trước đối với các loại giao dịch dân sự cụ thể. Khi thời hiệu kết thúc sẽ phát sinh những quyền dân sự nhất định hoặc bị mất quyền khởi kiện, mất quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ khi người có nghĩa vụ đã được miễn trừ thực hiện nghĩa vụ theo thời hiệu. Không những chỉ thời hiệu mà nội dung của thời hiệu và các loại thời hiệu đều do PLDS quy định, các chủ thể không có quyền thỏa thuận về thời hiệu. Vì các chủ thể tham gia QHPLDS không có quyền thỏa thuận nhằm kéo dài hoặc rút ngắn thời hạn để được coi là thời hiệu, cho nên thời hiệu là căn cứ pháp lý do pháp luật quy định nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự nhất định, không phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể tham gia giao dịch dân sự đó. 1.1.2 Ý nghĩa của thời hiệu 9
  14. Thứ nhất: Thời hiệu được PLDS quy định có một vai trò quan trọng trong việc ổn định các quan hệ dân sự, nhất là các quan hệ tài sản trong đời sống xã hội. Nếu PLDS không có các quy định về thời hiệu để ổn định các quan hệ tài sản trong giao lưu dân sự, mỗi chủ thể tham gia vào giao dịch dân sự sẽ không yên tâm và tin tưởng vào quan hệ dân sự mà họ đã xác lập, thực hiện. Trong đời sống xã hội ngày càng phát triển, các quan hệ tài sản cũng phát triển theo, giá trị tài sản thường có biến động lớn, nhất là tài sản có giá trị lớn như nhà đất, ví dụ như từ khi các bên tham gia giao kết hợp đồng cho đến khi thực hiện hợp đồng, do tác động của thị trường đã có sự chênh lệch về giá cả so với giá mà các bên đã thoả thuận. Do đó, thời hiệu sẽ ràng buộc các bên trong thời hạn để đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ. Thứ hai: Việc pháp luật ấn định ra một thời hạn tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong giải quyết tranh chấp. Nếu một giao dịch dân sự đã xác lập, thực hiện trong một khoảng thời hạn đã quá lâu mà có tranh chấp, thì quá trình chứng minh của đương sự sẽ rất khó khăn, phức tạp. Khi giải quyết tranh chấp dân sự, Tòa án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cũng gặp khó khăn khi phải tiến hành điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ cần thiết để xác định sự thật khách quan của vụ việc. Vì vậy, nếu thời hạn đã quá lâu, thì quá trình điều tra của Tòa án hoặc những cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong việc thu thập chứng cứ cũng khó có cơ sở để đảm bảo tính chính xác và tin cậy. 1.1.3. Các loại thời hiệu Trên cơ sở quy định về thời hiệu của Đ.163 BLDS mà Đ.164 BLDS đã phân chia thời hiệu trong PLDS làm ba loại: Thời hiệu hưởng quyền dân sự, thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự và thời hiệu khởi kiện. 10
  15. - Thời hiệu hưởng quyền dân sự: Là thời hạn mà kết thúc thời hạn đó thì chủ thể được hưởng quyền dân sự. Theo quy định tại K.1 Đ.164 BLDS thì thời hiệu hưởng quyền dân sự là một sự kiện pháp lý làm phát sinh quyền dân sự cho một chủ thể, không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể. Điều này khác với việc xác lập quyền dân sự do các chủ thể thỏa thuận khi xác lập giao dịch dân sự. Việc hưởng quyền dân sự theo thời hiệu chỉ được thực hiện trong thời hạn và trong những trường hợp do PLDS quy định. Thông thường, một chủ thể được hưởng quyền dân sự theo thời hiệu phải có những điều kiện nhất định như: Thời hạn hoặc các điều kiện khác theo quy định của PLDS. Ví dụ: K.1 Đ.255 BLDS quy định thời hiệu làm phát sinh quyền sở hữu tài sản đối với người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, phải thỏa mãn điều kiện thứ nhất về thời hạn là mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản. Đồng thời, phải có các điều kiện khác như: Việc chiếm hữu đó phải ngay tình, liên tục, công khai. Pháp luật dự liệu các trường hợp được hưởng quyền dân sự theo thời hiệu khác nhau có những điều kiện khác nhau ví dụ như các quy định tại các điều từ Đ.247 đến Đ.252 BLDS. Những chủ thể hưởng quyền dân sự theo thời hiệu trong các trường hợp này phải có đủ những điều kiện nhất định được quy định đối với từng quan hệ dân sự cụ thể đó. Ví dụ: Đ.247 quy định việc xác lập quyền sở hữu đối với vật vô chủ, vật không xác định được ai là chủ sở hữu trong thời hạn một năm mà không xác định được ai là chủ sở hữu của động sản, thì sau khi thông báo công khai mà vẫn không xác định được ai là chủ sở hữu, thì động sản đó thuộc sở hữu của người phát hiện, nếu vật là bất động sản thì sau năm năm kể từ ngày thông báo công khai, thì bất động sản đó thuộc sở hữu của Nhà nước, người phát hiện được hưởng một khoản tiền theo quy định của pháp luật. Đ.249 BLDS quy định thời hạn xác lập quyền sở hữu đối với vật do người khác đánh rơi, bỏ quên là một năm. Nếu hết thời hạn này 11
  16. mà không xác định được ai là chủ sở hữu của tài sản thì vật đó thuộc sở hữu của người nhặt được hoặc thuộc sở hữu của Nhà nước, người phát hiện được hưởng một khoản tiền theo quy định của pháp luật. K.2 Đ.166 BLDS quy định thời hiệu hưởng quyền dân sự không được áp dụng đối với trường hợp chiếm hữu tài sản thuộc sở hữu toàn dân không có căn cứ pháp luật. Quy định này nhằm ngăn chặn việc sử dụng tài sản toàn dân vào mục đích cá nhân không đúng quy định của pháp luật, biển thủ tài sản Xã hội chủ nghĩa. Thời hiệu hưởng quyền dân sự cũng không được áp dụng trong các trường hợp việc hưởng các quyền nhân thân của một chủ thể không gắn hoặc không liên quan với tài sản, bởi vì quyền nhân thân của mỗi cá nhân vĩnh viễn gắn liền với cá nhân đó và không bị thay đổi, khi cá nhân chết thì quyền nhân thân của cá nhân cũng bị mất theo, cho nên không thể áp dụng thời hiệu đối với quyền nhân thân phi tài sản. Song để được hưởng quyền dân sự theo thời hiệu thì việc chiếm hữu phải kéo dài liên tục từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc (K.1 Đ.167 BLDS), nếu có sự kiện làm gián đoạn thì thời hiệu đó phải được tính lại từ đầu sau khi sự kiện làm gián đoạn thời hiệu chấm dứt. Thời hiệu hưởng quyền dân sự bị gián đoạn khi có một trong những sự kiện được quy định tại K.2 Đ.167 BLDS cụ thể là: Có sự giải quyết của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đối với quyền, nghĩa vụ đang áp dụng thời hiệu; quyền và nghĩa vụ dân sự đang được áp dụng thời hiệu mà bị người có quyền, nghĩa vụ liên quan tranh chấp. Khi có một trong các căn cứ nêu ở trên phát sinh thì thời hiệu hưởng quyền dân sự phải bắt đầu lại từ đầu. Quy định này được hiểu là khi thời hiệu hưởng quyền dân sự đang tiếp diễn liên tục mà có đơn khởi kiện của một cá nhân nào đó yêu cầu giải quyết tài sản đang áp dụng thời hiệu hoặc có sự giải 12
  17. quyết của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì khi những trở ngại đó kết thúc thời hiệu hưởng quyền dân sự lại được tính lại từ đầu. Trong trường hợp việc hưởng quyền dân sự được chuyển giao hợp pháp cho người khác, ví dụ việc chuyển giao do thừa kế, thì thời hiệu hưởng quyền dân sự được tính liên tục, nên không phát sinh những căn cứ được quy định ở K.2 Đ.167 BLDS. Tóm lại: Thời hiệu hưởng quyền dân sự là thời hạn do pháp luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó chủ thể “có” hoặc “mất” các quyền. Nếu một người được hưởng lợi do việc hưởng quyền dân sự theo thời hiệu thì người khác sẽ mất quyền sở hữu tài sản đó khi thời hiệu đã hết. Quy định này nhằm làm ổn định xã hội khi có những tài sản vắng chủ đã lâu ngày, bị người khác ngay tình, công khai chiếm giữ, mà chủ sở hữu biết hoặc không biết nhưng không có ý kiến gì, thì hết thời hạn cho phép 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản, thì tài sản đó thuộc sở hữu của người đang chiếm giữ. Quy định như thế phù hợp với thực trạng xã hội nước ta, đặc biệt đối với bất động sản sau chiến tranh, nhiều người bỏ làng xóm, tài sản ra đi. Có thể 40-50 năm sau mới quay trở lại, đòi tài sản đã bị người khác chiếm giữ, còn người chiếm giữ đang sử dụng và đã tạo lập đời sống ổn định. Do đó, chế định này bảo đảm cho việc giữ ổn định đời sống xã hội. - Thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự: Là thời hạn mà khi kết thúc thời hạn đó thì người có nghĩa vụ được miễn thực hiện nghĩa vụ đó. Theo quy định tại K.2 Đ.164 BLDS thì thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự cũng là một sự kiện pháp lý cho phép một chủ thể được miễn trừ nghĩa vụ dân sự. Dù rằng trong thực tế chủ thể đó chưa thực hiện nghĩa vụ đã cam kết hoặc chưa thực hiện nghĩa vụ do pháp luật quy định. Theo nguyên tắc của PLDS, các chủ thể cũng không có quyền thỏa thuận việc miễn trừ nghĩa vụ dân sự theo thời hiệu. Trên thực tế có những khả năng nghĩa vụ dân sự được xác lập do các chủ thể cam kết, thỏa thuận trong quá trình xác lập giao dịch dân sự, nhưng sau đó lại 13
  18. có thỏa thuận đồng ý cho hoãn thực hiện nghĩa vụ (Đ.292 BLDS) hoặc miễn cho một trong số những người thực hiện nghĩa vụ liên đới (K.4 Đ.304 BLDS). Việc hoãn thực hiện nghĩa vụ dân sự hoặc miễn cho một trong số những người thực hiện nghĩa vụ liên đới có tính chất và bản chất pháp lý hoàn toàn khác việc miễn trừ nghĩa vụ theo thời hiệu. Việc miễn trừ nghĩa vụ dân sự theo thời hiệu được thực hiện chỉ trong những trường hợp do pháp luật quy định. Nếu thời hiệu hưởng quyền dân sự cho phép chủ thể hưởng quyền khi kết thúc thời hạn cùng với những điều kiện khác, thì thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự là người có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ, nhưng được miễn trừ không phải thực hiện nghĩa vụ, tương ứng với thời điểm kết thúc thời hạn do PLDS quy định. Khi một chủ thể tham gia quan hệ (theo ý chí của chủ thể khi giao kết hợp đồng hoặc do có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật ngoài hợp đồng) mà PLDS quy định phải thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ dân sự đó, thì họ có trách nhiệm phải thực hiện nghĩa vụ trong một thời hạn do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định. Nếu trong thời hạn đó, người có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ và những người có quyền cũng không yêu cầu người này phải thực hiện nghĩa vụ, thì sau một thời hạn nhất định do PLDS quy định, người có nghĩa vụ không phải thực hiện nghĩa vụ nữa, dù rằng người đó chưa thực hiện nghĩa vụ. Miễn trừ thực hiện nghĩa vụ có thể được áp dụng khi có các sự kiện khách quan hoặc đương nhiên được miễn trừ khi PLDS có quy định. Ví dụ: Tại điểm a K.2 Đ.616 BLDS quy định về thời hạn bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm hại thì khi người bị thiệt hại chết, những người mà người này có nghĩa vụ cấp dưỡng khi còn sống được hưởng tiền cấp dưỡng của người gây thiệt hại cho đến khi đủ 18 tuổi Điều kiện của việc miễn trừ nghĩa vụ dân sự là bên có quyền mà không thực hiện quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ mặc dù có thể làm được việc đó, 14
  19. không có sự cản trở do bị pháp luật cấm. Việc tính thời điểm bắt đầu của thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự phụ thuộc vào phạm vi của đối tượng mà người mang quyền có thể thực hiện quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ Đ.165 BLDS quy định: “Thời hiệu được tính từ ngày đầu tiên và chấm dứt tại thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hiệu”. Vậy từ thời hạn nào thì thời hiệu được bắt đầu. Đ.290 BLDS quy định: “Thời hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự do các bên thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật”. Trong trường hợp không thực hiện nghĩa vụ do ý chí của người nắm giữ quyền thì thời hiệu diễn ra từ thời điểm kết thúc thời hạn đó. Điều kiện thứ hai là việc không thực hiện quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ tiếp diễn trong suốt một thời gian nhất định. Ví dụ theo Đ.432 BLDS, thì thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với tài sản mua bán được chuyển cho bên mua, kể từ thời điểm bên mua nhận tài sản. Đ.438 BLDS về nghĩa vụ bảo hành, thì bên bán có nghĩa vụ bảo hành đối với vật mua bán trong một thời gian. Thời hạn bảo hành được tính kể từ thời điểm bên mua có nghĩa vụ phải nhận vật. Trong thời hạn bảo hành nếu người mua phát hiện được khuyết tật của vật mua bán thì có quyền yêu cầu bên bán sửa chữa không phải trả tiền, giảm giá nếu hết thời hạn bảo hành thì bên bán không còn phải thực hiện nghĩa vụ bảo hành vật đã bán nữa. Đ.446 BLDS quy định khi bán nhà ở đang cho thuê thì bên thuê được ưu tiên mua nếu chưa có chỗ ở khác và đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của người thuê nhà. Chủ nhà đang cho thuê phải thông báo cho bên thuê biết việc bán nhà trước ít nhất là 3 tháng, kể từ thời điểm bên thuê nhà nhận được thông báo cho tới thời điểm chủ sở hữu bán nhà. Quy định này được hiểu là khi kết thúc thời hạn 3 tháng, nếu bên thuê không có nhu cầu mua nhà, thì chủ sở hữu nhà đang cho thuê được hưởng quyền dân sự là có quyền bán nhà cho người khác. 15
  20. Đ.458 BLDS quy định thời hạn chuộc lại tài sản đã bán là không quá một năm đối với động sản, năm năm đối với bất động sản. Quá thời hạn này, bên bán không còn quyền được chuộc lại tài sản nữa. Tóm lại: Thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự sẽ phát sinh khi bên có quyền không thực hiện quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ mặc dù họ có thể làm việc đó trong một thời hạn nhất định, thì người có nghĩa vụ đương nhiên được miễn trừ nghĩa vụ. BLDS không quy định thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự chung cho tất cả các trường hợp mà quy định từng thời hiệu riêng cho từng loại đối tượng khác nhau. Đối với thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự K.3 Đ.166 BLDS còn có quy định thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự không được áp dụng trong việc thực hiện nghĩa vụ dân sự của các chủ thể đối với Nhà nước. Đ.167 BLDS quy định thời hiệu hưởng quyền dân sự hoặc miễn trừ thực hiện nghĩa vụ dân sự có tính liên tục từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc. Nếu có những sự kiện làm gián đoạn như: Có sự giải quyết của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc quyền, nghĩa vụ dân sự đang được áp dụng thời hiệu mà bị người có quyền, nghĩa vụ liên quan tranh chấp, thì thời hiệu hưởng quyền dân sự hoặc miễn trừ thực hiện nghĩa vụ dân sự phải được tính lại từ đầu sau khi sự kiện làm gián đoạn thời hiệu chấm dứt. - Thời hiệu khởi kiện: Là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, nếu quá thời hạn đó mà chủ thể không thực hiện quyền của mình, thì họ mất quyền khởi kiện.Theo quy định tại K.3 Đ.164 BLDS thì thời hiệu khởi kiện cũng là một sự kiện pháp lý trên cơ sở thời hạn do PLDS quy định. Đây là thời hạn nhất định mà PLDS cho phép một chủ thể có quyền, lợi ích bị xâm phạm được quyền khởi kiện. Theo nguyên tắc chung, 16