Luận văn Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo Bộ luật tố tụng hình sự
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo Bộ luật tố tụng hình sự", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_mot_so_van_de_ly_luan_va_thuc_tien_ve_thu_tuc_to_tu.pdf
Nội dung text: Luận văn Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo Bộ luật tố tụng hình sự
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI K HO A LUÂT• LÊ THỊ VÂN HÀ MỘT SỐ VẤN ĐỂ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIÊN VÊ THỦ TỤC Tố TỤNG ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI THEO BỘ LUẬT Tố TỤNG HÌNH sự. CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH sự MÃ SỐ: 60.38.40 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS-TS TRẦN VĂN ĐỘ O A I HỌC QuOC G ia h a , \ c ĨÍĨUNG ÌÁM ĨHONG ỉ in IHỰ ViỂN ■ - - v - u /f 符 ■ - — HÀ NỘI - NĂM 2006
- Çîoi Jtỉn earn đữan đâụ là. côềtạ trình tighten, eứu etui rìèntẬ, tôi, ^áe ẳJố tíệit đừờe trích dẫn thm nhữtUẬ, nạuẦn đã ũầnq, ỉm. 3CÚ íụiA nêu tmnụ. Luùtt úủn Là trung, iluửL tìà chưa từnỊỊ. đườe e è n ụ . w irmtụ. bất Utj, cỗttạ. trình nàa khúa. Lê Thị Vân Hà
- MỤC LỤC PHẨN MỞ ĐẨU 1.T ín h cấp th iế t của đề t à i 1 2. Tình hình nghiên cứu 3 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3 4. Phương pháp nghiên cứu 4 5. Những điểm mới của luận văn 4 6. Cơ cấu của luận văn 5 CHƯƠNG 1- NHẬN THỨC CHUNG VÊ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI. 6 1.1. KHÁI NIỆM THỦ TỤC Tố TỤNG ĐỐI VỚI NGƯỜI BỊ BẮT, NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘ I 6 1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên và người chưa thành niên phạm tội trong pháp luật quốc tế 6 1.1.2. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật Việt Nam 7 1.1.3. Khái niệm thủ tục tố tụng đối với người bị bắty người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội 9 1.1.4. Khái quát quy định của pháp luật quốc tế và một số nước về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội 12 1.2. c ơ sở CỦA VIỆC QUY ĐỊNH THỦ TỤC Tố TỤNG Đối VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI 18 1.2.1. C ơ SỞ tâm sinh l ý 18 1.2.2. Cơ sở xã hội 21 1.2.3. Cở sở pháp ỉý 23
- CHƯƠNG 2- QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT Tố TỤNG HÌNH sự NƯỚC TA Đ ối VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI 27 2.1. QUY ĐỊNH VỂ ĐỐI TƯỢNG CHỨNG MINH 28 2.1.1. Tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của người chưa thành niên 30 2.1.2. Điều kiện sinh sống và giáo dục 33 2.1.3. Có hay không có ngưòl thành niên xúi dục 35 2.1.4. Nguyên nhân và điều kiện phạm tộ i 36 2.2. QUY ĐỊNH VÊ NGƯỜI TIẾN HÀNH Tố TỤNG 38 2.3. QUY ĐỊNH VỂ NGƯỜI THAM GIA Tố TỤNG 40 2.3.1.Việc tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường và tổ chức xã hội. 41 2.3.2. Sự tham gia tố tụng của người bào chữa 42 2.3.3. Những ngưòi tham gia tố tụng khác 47 2.4. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN Đ ối VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN 48 2.4.1. Việc bắt người 50 2.4.1,1 .Bắt người trong trường hợp khẩn cấp 50 2.4.1.2. Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã. 5 2 2.4.13. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam 5 3 2.4.2. Các biện pháp ngăn chặn khác 54 2.5. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỂ GIAI ĐOẠN KHỞI Tố, ĐIỂU TRA, TRUY Tố, XÉT XỬ, THI HÀNH ÁN NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI 56 2.5.1. Giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án ngưòi chưa thành niên phạm tội 56 2.5.2. Giai đoạn truy tô 59 2.5.3. Giai đoạn xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tộ i 60
- CHƯƠNG 3 - THỰC TIÊN Tố TỤNG HÌNH sự ĐỐI VỚI NGƯỜI BỊ BẮT, NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP. 3.1. THỰC TIỄN TỐ TỤNG HÌNH sự Đ ối VỚI NGƯỜI BỊ BẮT, NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VÀ NHỮNG BÂT CẬP, HẠN CHÊ 71 3.1.1. Thực tiễn chứng m inh 71 3.1.2. Thực tiễn tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường và các tổ chức xã h ộ i 81 3.1.3. Thực tiễn sự tham gia của người bào chữa vào quá trình tố tụng 84 3.1.4. Thực tiễn bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phạm tội 86 3.1.5. Thực tiễn áp dụng thủ tục tố tụng trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử 88 3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG ĐỐI VÓI CÁC VỤ ÁN MÀ BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN 92 3.2.1. Nâng cao chất lưựng điều tra, truy tố, xét xử, thi hành á n 92 3.2.2.Giải pháp hoàn thiện pháp luật 96 3.2.2.1. Sửa đổi luật vê bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 96 32.2.2. Sửa đổi, bổ sung các quy định của BLTTHS năm 2003 97 KẾT LUẬN 101
- DANH MỰC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮVIÊT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự; BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự; TNHS: Trách nhiệm hình sự; VKSNDTC: Viện kiểm sát nhản dán Tôì cao; TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao; CHXHCNVN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- PHẦN MỞ ĐẦU l.Tính cấp thiết của đề tài. Ở đất nước ta, trong những năm gần đây tội phạm diễn biến phức tạp và có xu hướng gia tăng, đặc biệt là ở lứa tuổi chưa thành niên. Có thể nói, tội phạm đang trẻ hoá trên phạm vi toàn quốc, đó là một thí dụ về sự phát triển lệch lạc của thế hệ hệ trẻ ra khỏi quy tắc thông thường trong cuộc sống. Sự phạm tội ở lứa tuổi chưa thành niên hiện nay đang dần dần gặm nhấm, làm thui chột đi một lượng thế hệ trẻ tương lai, đây là một vấn đề nhức nhối, đã trở thành nỗi lo lắng của gia đình, xã hội và đất nước. Không những ở Việt Nam mà cả thế giới, tội phạm chưa thành niên được coi là vấn đề toàn cầu. "Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên hợp quốc về việc áp dụng luật đối với người chưa thành niên" (tức Quy tắc Bắc Kinh) năm 1985; hướng dẫn R IY A D H năm 1990 của Liên hợp quốc về phòng ngừa tội phạm chưa thành niên.v.v là những minh chứng toàn cầu về vấn đề này. Tuy nhiên, do đặc trưng lứa tuổi và chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như tâm sinh lý mà ở người chưa thành niên tồn tại những đặc điểm riêng biệt khác với người đã thành niên như: các em đang trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách, trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống của các em còn bị hạn chế, thiếu những điều kiện và bản lĩnh tự lập, khả năng tự kiềm chế chưa cao. Các em có xu hướng muốn tự khẳng định, được đánh giá, được tôn trọng, dễ tự ái, tự ti, hiếu thắng, thiếu kiên nhẫn, nhiều hoài bão, thiếu tính thực tế, dễ bị kích động, dễ bị lôi kéo vào những hoạt động phiêu lưu, mạo hiểm, dễ bị tổn thương, dễ thay đổi thích nghi, dễ uốn nắn Trong các đặc điểm tâm lý của người chưa thành niên nói trên, ta thấy hai khuynh hướng nổi bật liên quan đến tội phạm và khả năng giáo dục, cải tạo của họ. Đó là họ dễ bị người khác dụ dỗ, kích động, thúc đẩy vào việc thực hiện tội phạm nhưng do ý thức phạm tội của họ chưa cao và chưa chắc chắn nên dễ uốn nắn, cải tạo, giáo dục họ thành người có ích cho xã hội. V ới những đặc điểm như vậy nên
- chính sách hình sự của Đảng và nhà nước ta đối với người chưa thành niên phạm tội là giáo dục, giúp đỡ các em sữa chữa những sai lầm, phát triển lành mạnh để trở thành công dân có ích cho xã hội. Và chính sách này được cụ thể hoá trong luật hình sự và luật tố tụng hình sự quy định sao cho phù hợp với lứa tuổi chưa thành niên. Xuất phát từ tư tưởng người chưa thành niên phạm tội là đối tượng được áp dụng đường lối đấu tranh, xử lý và cải tạo đặc thù, luật tố tụng hình sự bảo vệ các em theo cách riêng của mình. Đó là trao cho các em những quyền tố tụng để họ tự bảo vệ quyền lợi của mình, đồng thời quy định những điều khoản đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự được khách quan, toàn diện, đúng pháp luật, tránh làm oan người vô tội. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã dành một chương riêng (chương X X X II) quy định vé thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên. Đó là những quy định đặc biệt về việc bắt, tạm giữ, tạm giam; việc tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường, người bào chữa; về thủ tục điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.v.v đối với vụ án có người chưa thành niên phạm tội. Những quy định của BLTTHS năm 2003 đối với người chưa thành niên phạm tội đã tương đối hoàn thiện nhưng vẫn còn nhiều vấn đề gây tranh luận; có những quy định chưa chặt chẽ, chưa đầy đủ, chưa đáp ứng với yêu cầu thực tế nên tạo nhiều kẽ hở cho những vi phạm, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên. Đứng trước những vấn đề như vậy, quy định của pháp luật tố tụng hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội đặt ra những vấn đề cần phải hoàn thiện, vì vậy cần thiết phải có những quy định cụ thể, chặt chẽ, thống nhất hơn nữa trong BLTTHS về thủ tục tố tụng đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Về mặt thực tiễn, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án những vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong những năm qua cho thấy khi áp dụng những quy định về thủ tục đặc biệt này còn bộc lộ những 2
- điểm hạn chế, bất hợp lý. Điều này là do một phần chưa nắm vững và vận dụng chính xác, triệt để quy định của pháp luật tố tụng liên quan đến việc giải quyết vụ án mà người chưa thành niên phạm tội, một phần người tiến hành tố tụng lạm quyền, không tôn trọng, coi nhẹ các quyền lợi của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Vì những lý do trên, tôi chọn đề tài "Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn về thủ tục tô' tụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo BLTTHS" làm luận văn thạc sỹ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu. Ngoài các giáo trình luật tố tụng hình sự, các bình luận khoa học BLTTHS, đã có một số công trình nghiên cứu về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Các công trình này chủ yếu để cập đến thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên như là một nội dung cần giải quyết (Bảo vệ quyền trẻ em trong pháp luật Việt Nam - đặc san trong tạp chí Dân chủ và pháp luật; luật hình sự, luật tố tụng hình sự và tội phạm học - Nhà xuất bản chính trị Quốc gia năm 1995.V .V đặc biệt tác giả Đỗ Thị Phượng đã có luận văn Thạc sỹ Luật học nghiên cứu tương đối toàn diện về tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội, nhưng được thực hiện trên cơ sở BLTTHS năm 1 9 8 8 . Tuy nhiên, trong các công trình nghiên cứu đã được công bố, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn như cơ sở của việc quy định thủ tục tố tụng riêng đối với người chưa thành niên phạm tội, vấn đề áp dụng các biện pháp ngăn chặn, sự tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường trong vụ án người chưa thành niên phạm tộ i .chưa được giải quyết toàn diện, triệt để. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn. a) Mục đích. Từ những vấn đề lý luận về người chưa thành niên phạm tội và thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong những 3
- năm qua để đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của BLTTHS và nâng cao hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử các vụ án người chưa thành niên phạm tội. b) Nhiệm vụ: - Nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội; - Phân tích các quy định của pháp luật về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội; - Nghiên cứu thực tiễn tố tụng đối với người chưa thành niên, tìm ra những hạn chế, vướng mắc và bất cập trong thực tế; - Đưa ra các kiến nghị hoàn thiện một số quy định của BLTTHS năm 2003 và một số giải pháp nâng cao hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử các vụ án người chưa thành niên phạm tội. 4. Phương pháp nghiên cứu. Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu là chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác - xít; Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, chính sách của nước ta vẻ phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm nói chung và tội phạm chưa thành niên nói riêng. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: lịch sử, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, trao đổi chuyên gia Để hoàn thành luận văn, tác giả khảo sát thực tiễn tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội trên phạm vi toàn quốc. 5. Những điểm mới của luận văn. Đây là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống, tổng hợp, toàn diện thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo quy định của BLTTHS năm 2003. Luận văn không chỉ nghiên cứu những vấn đề lý luận chung, phân tích các quy định của pháp luật (đặc biệt là BLTTHS năm 2003) về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội mà còn phân tích 4
- thực tiễn tố tụng, làm sáng tỏ những bất cập, hạn chế và đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện BLTTHS năm 2003 và nâng cao hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử. 6. Cơ cấu của luận văn: Luận văn gồm 3 chương không kể lời nói đầu và phần kết luận.: Chương 1: Nhận thức chung về người chưa thành niên phạm tội. Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự nước ta đối với người chưa thành niên phạm tội. Chương 3: Thực tiễn tố tụng hình sự đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cấo là người chưa thành niên và những giải pháp. 5
- CHƯƠNG 1. NHẬN THỨC CHUNG VỂ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI. 1.1. KHÁI NIỆM THỦ TỤC Tố TỤNG Đ ối VỚI NGƯỜI BỊ BẮT, NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI. 1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên và người chưa thành niên phạm tội trong pháp luật quốc tế. Trẻ em phạm tội và trẻ em làm trái pháp luật được nhiều nước, nhiều tổ chức trên thế giới quan tâm, nghiên cứu. Điều 1 phần 1 Công ước về quyền trẻ em có hiệu lực từ ngày 02/9/1990 quy định: "Trong phạm vi của Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em đó quy định độ tuổi thành viên sớm hơn". Theo Công ước, trẻ em bao gồm tất cả những ai chưa phải là người lớn, nghĩa là những ai dưới 18 tuổi thì được hưởng mọi quyền lợi được ghi nhận trong Công ước. Bên cạnh Công ước quyền trẻ em thì quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên hợp quốc về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh) do Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 21/11/1985 cũng là một văn bản pháp luật quốc tế sử dụng khái niệm này. Quy tắc Bắc Kinh không nêu rõ người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi mà chỉ đưa ra khái niệm trẻ em hoặc người ít tuổi. Theo Quy tắc Bắc Kinh thì "người chưa thành niên phạm pháp là trẻ em hay người ít tuổi bị cho là hay bị phát hiện là phạm pháp". Quy tắc cũng định nghĩa "người chưa thành niên" và "phạm pháp" là những nhân tố của "người chưa thành niên phạm tội". Nhưng giới hạn độ tuổi phụ thuộc vào từng hệ thống pháp luật của các quốc gia thành viên. Quy tắc R IY A D H về phòng ngừa phạm phápở người chưa thành niên được Liên Hợp Quốc thông qua ngày 14/12/1990 mặc dù không đưa ra khái niệm cụ thể người chưa thành niên nhưng thông qua các quy định chúng ta 6
- cũng thấy tinh thần của quy tắc là : người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi vì Quy tắc R IY ADH có nêu"hướng dẫn này phải được giải thích và dược thực hiện trong phạm vi khuôn khổ của tuyên ngôn thê giới vê quyền con người, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế - chính trị - văn hoá - xã hội, Công ước về quyền trẻ em là phạm vi các quy tắc phổ biến của Liên Hợp Quốc về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên, cũng như các văn kiện và tiêu c lì uẩn khác cố liên quan đến các quyền và lợi ích, phúc lợi của các thanh niên ". Mà Công ước Quyền trẻ em lại quy định trẻ em là tất cả những ai dưới 18 tuổi. Như vậy là có quan điểm chung về độ tuổi người chưa thành niên trong các công ước. Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên Hợp Quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do được Liên Hợp Quốc thông qua ngày 14/12/1992 cũng đề cập đến khái niệm người chưa thành niên. Bên cạnh mục đích xác định các quyền của người chưa thành niên bị tước quyền tự do thì Quy tắc còn quy định cách đối xử với trẻ em khi chúng phạm pháp. Tóm lại, các văn bản pháp luật quốc tế tuy có phạm vi nghiên cứu khác nhau song cũng đưa ra quan điểm riêng về khái niệm người chưa thành niên và người chưa thành niên phạm tội. 1.1.2. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật V iệ t Nam . "Người chưa thành niên phạm tội" là thuật ngữ được sử dụng trong ngành luật hình sự và tố tụng hình sự. Mặc dù BLHS năm 1999,BLTTHS năm 2003 đã dành một chương riêng để quy định về "người chưa thành niên phạm tội" nhưng lại không có một khái niệm pháp lý chính thức nào giải thích thế nào là người chua thành niên phạm tội. Có quan điểm thứ nhất cho rằng "khái niệm người chưa thành niên trong pháp luật hình sự Việt Nam chỉ bao gồm những người đã đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi" [41,tr.166]. Nhưng quan điểm thứ hai trong cuốn “ Toà án và 7
- quyền trẻ em” lại phủ nhận quan điểm này vì lý do: BLHS năm 1999 quy định tại điểm n khoản 1 Điểu 48 quy định “xúi giục người chưa thành niên phạm tội" là tình tiết tăng nặng. Nếu theo quan điểm thứ nhất, chỉ xúi giục người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến 18 tuổi mới bị coi là tình tiết tăng nặng? Theo quan điểm thứ hai, khi một người đã thành niên xúi dục người chưa thành niên phạm tội (tức là người dưới 18 tuổi, kể cả người dưới 14 tuổi), người chưa thành niên càng nhỏ tuổi thì trách nhiệm của người xúi dục hoặc sử dụng người chưa thành niên phạm tội càng lớn, càng nguy hiểm hơn. Chính vì vậy mà qua điểm thứ hai không đồng ý với quan điểm thứ nhất. Điều 12 BLHS năm 1999 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự: “ 1 • Người đủ từ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự vê mọi tội phạm. 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ỷ hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” , Nghĩa là, ở phương diện độ tuổi tối thiểu để chịu TNHS là 14 tuổi. Như vậy người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật nước ta là người có độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi. Vì thế, cần lưu ý rằng “ người chưa thành niên” theo pháp luật hình sự phải nhìn từ hai góc độ, không nên đồng nhất thuật ngữ “ người chưa thành niên” và “ người chưa thành niên phạm tội” . Ở góc độ thứ nhất người chưa thành niên là người bị hại, người bị xúi giục, “ người chưa thành niên” sẽ bao gồm tất cả những người ở độ tuổi dưới 18 tuổi. Nhìn ở góc độ thứ hai “ người chưa thành niên” bằng năng lực, nhận thức của mình thực hiện những hành vi bị pháp luật cấm, tức là quy định “ người chưa thành niên phạm tội” ,thì tại thời điểm họ thực hiện hành vi phạm tội, pháp luật quy định họ phải đang ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi và tất nhiên là có năng lực TNHS. 8
- Pháp luật Việt Nam nói chung cũng như Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự nói riêng đều thể hiện thống nhất khái niệm người chưa thành niên là để chỉ những người dưới 18 tuổi (còn gọi là người chưa đủ 18 tuổi). Trong độ tuổi người chưa thành niên bao gồm trẻ em là những người chưa đủ 16 tuổi. Trong luật hình sự và tố tụng hình sự, khái niệm người chưa thành niên phạm tội để chỉ những người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi trở lên đến chưa đủ 18 tuổi thực hiện hành vi phạm tội và những người đó có năng lực TNHS. Nói cách khác người chưa thành niên phạm tội là những người từ đủ 14 tuổi trở lên đến chưa đủ 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, và những người từ đủ 16 tuổi trở lên những chưa đủ 18 tuổi phạm các tội phạm khác. Việc quy định vấn đề người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự trước hết có ý nghĩa xác định ranh giới giữa tội phạm với không phải là tội phạm. Một người chưa thành niên chưa đủ 14 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội cho dù hậu quả đặc biệt nghiêm trọng hoặc người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng do vô ý đều không phải chịu TNHS. Ngoài ra, quy định vấn đề người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự còn có ý nghĩa thể hiện nguyên tắc cá thể hoá TNHS, nguyên tắc bình đẳng trong luật hình sự, làm cơ sở cho việc quyết định hình phạt bảo đảm mục đích giáo dục, cải tạo người phạm tội. [35,tr.34] 1.1.3. Khái niệm• thủ « tục tố » CDtụng đối với C 3 người • bịf bắt, c y người t « bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội. Người bị bắt bao gồm người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ. 9
- Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự. Bị cáo là người bị toà án quyết định đưa ra xét xử. Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên thoả mãn những quy định pháp lý về người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhưng họ đang ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi. V ì vậy, những thủ tục đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên phải được tiến hành theo thủ tục đặc biệt được quy định tại chương X X X II BLTTHS năm 2003. Các quy định này nhằm mục đích đưa ra những thủ tục tố tụng sao cho phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trước cơ quan tiến hành tố tụng. Mặt khác, các quy định này còn nhằm kết hợp hài hoà giữa các biện pháp cưỡng chế và giáo dục, thuyết phục, tạo ra những điều kiện cần thiết để những người chưa thành niên sửa chữa những sai lầm, sớm trở thành người có ích trong xã hội [35,tr.34- 35]. Vậy, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên nghĩa là người đang ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi ở thời điểm các cơ quan có thẩm quyền tiến hành các hoạt động tố tụng hình sự đối với họ. Do đó, khái niệm người chưa thành niên phạm tội và khái niệm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên có những điểm khác nhau xuất phát từ thời điểm phát sinh quan hệ pháp luật mà trong đó người chưa thành niên là chủ thể. Quy định đối với người chưa thành niên phạm tội trong BLHS chỉ áp dụng đối với đối tượng là người chưa thành niên ở thời điểm họ thực hiện hành vi phạm tội. Còn những quy định thủ tục đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong BLTTHS được áp dụng đối với đối tượng là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vào thời điểm mà họ là người chưa thành niên nên cần áp dụng các biện pháp tố tụng có những điểm khác so với người đã thành niên. V í dụ: một 10
- người vào thời điểm thực hiện tội phạm là người chưa thành niên nhưng khi họ bị phát hiện và là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo của vụ án đang được giải quyết lại là người thành niên. Nếu áp đụng thủ tục đặc biệt này thì sẽ không phù hợp trong các hoạt động tố tụng nữa mà áp dụng thủ tục tố tụng bình thường tức là không bắt buộc phải có luật sư cũng như không nhất thiết phải có hội thẩm là giáo viên, hoặc cán bộ đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh khi xét xử tại phiên toà Nhưng khi quyết định hình phạt họ vẫn được quyền hưởng các quy định trong BLHS đối với người chưa thành niên. Như vậy, vào thời điểm các thủ tục tố tụng hình sự được thực hiện đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên, họ đang ở độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi. Do vậy, Điều 301 BLTTHS mới quy định: ''Thủ tục tố tụng đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên được áp dụng theo quy định của Chương này đồng thời theo quy định khác của Bộ luật này không trái với những quy định của Chương này Nghĩa là khi điều tra, truy tố, xét xử đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên không chỉ phải thực hiện các quy định chung về thủ tục tố tụng mà còn phải thực hiện theo quy định của chương X X X II BLTTHS. Tất cả những thủ tục đặc biệt này đều nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người chưa thành niên. Tuy nhiên, nếu một vụ án được bắt đầu bằng thủ tục đặc biệt đối với người chưa thành niên thì theo quan điểm của chúng tôi nên để thủ tục đó được áp dụng thực hiện trong cả quá trình giải quyết vụ án. Bởi vì, giả sử một người chưa thành niên phạm tội, khi khởi tố là người chưa thành niên, trong quá trình điều tra thời gian đầu là người chưa thành niên, được áp dụng quy định bắt buộc mời luật sư bào chữa , người tiến hành tố tụng được chọn là người hiểu biết về tâm sinh lý người chưa thành niên thế nhưng một thời gian ngắn sau đó ví dụ như 1 tháng sau vẫn đang trong quá trình tố tụng thì người đó trở thành người thành niên, lúc đó chẳng nhẽ lại thay đổi người tiến 11
- hành tố tụng và đã có quyết định mời luật sư bảo vệ cho người đó lại quyết định hủy bỏ không có luật sư nữa. Vì vậy theo chúng tôi, để áp dụng thủ tục một cách thống nhất, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đối với người chưa thành niên, và cũng thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước thì một vụ án khi đã bắt đầu bằng thủ tục đăc biệt đối với người chưa thành niên thì nên thực hiện thủ tục đó trong cả quá trình giải quyết vụ án. Như vậy, có thể hiểu: thủ tục tố tụng đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là những thủ tục đặc biệt,cần thực hiện khi tiến hành giải quyết vụ án mà người bị bắt người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi vào thời điểm tiến hành các thủ tục tố tụng nhằm giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án và bảo vệ quyền và lợi ích của họ trong suốt các hoạt động tố tụng hình sự ,[35tr.35]. 1.1.4. Khái quát quy định của pháp luật quốc tế và một số nước về thủ tục tô tụng đôi với người chưa thành niên phạm tội. Một hoạt động mà các nước trên toàn cầu đang nỗ lực thực hiện là tìm cách bảo đảm hệ thống tư pháp người chưa thành niên tuân thủ đúng pháp luật quốc tế và quyền con người. Kể từ năm 1989,với tốc độ ngày càng cao, các nước trên thế giới đã và đang đưa ra những nguyên tắc quốc tế và các luật và chính sách quốc gia, và kết quả là các nước đã soạn thảo lại luật về tư pháp người chưa thành niên. Các nước này gồm có Australia, Canada, Costa Rica, Niu Dilân, Uganda. Ngày càng nhiều cán bộ xã hội, cán bộ làm công tác vể quyển trẻ em, cán bộ trại giam, thẩm phán, luật sư, công an, những người làm luật và cán bộ thực tập được đào tạo để áp dụng những nguyên tắc quốc tế đó. Đầu tiên phải nói đến đó là Công ước về quyền trẻ em (Nghị quyết của Đại hội đồng 44/25) mà 191 quốc gia đã tham gia làm thành viên, là thoả ước chủ đạo chứa đựng tất cả các quyền mà các chính phủ đồng ý là trẻ em được hưởng. Điều 37 của Công ước đã nêu cụ thể rằng không có trẻ em nào phải chịu sự tra tấn, đối xử và trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay làm mất phẩm 12
- giá. Sẽ không áp dụng án tử hình hay tù chung thân mà không có khả năng phóng thích. Đồng thời Cồng ước cũng quy định trẻ em không bị tước quyển tự do một cách bất hợp pháp và tuỳ tiện. Nếu bị giam giữ, trẻ phải được cách ly với người lớn, trừ trường hợp việc giam chung với người lớn được xem là vì lợi ích tốt nhất cho trẻ. M ọi trẻ em bị tước quyền tự do phải được đối xử nhân đạo với sự tôn trọng và theo một cách có tính tới những nhu cầu của trẻ. Tính nhân đạo bao gồm quyền cho trẻ có kịp thời những hỗ trợ pháp lý và các trợ giúp khác, như các dịch vụ về y tế và tâm lý. Điều 37 cũng quy định rằng việc tước quyền tự do của trẻ em chỉ có thể được sử dụng như một biện pháp cuối cùng và trong thời hạn thích hợp ngắn nhất. Đại hội lần thứ sáu của Liên Hợp Quốc về phòng ngừa tội phạm và xử lý người phạm tội, trong Nghị quyết số 4,đã kêu gọi triển khai những quy tắc tối thiểu phổ biến cho việc thực hiện tư pháp người chưa thành niên. Với Nghị quyết số 40/33 ngày 29/11/1985, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua các quy tắc tối thiểu phổ biến về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên, còn gọi là quy tắc Bắc Kinh. Quy tắc Bắc Kinh quy định một khuôn khổ làm việc trong đó hộ thống tư pháp người chưa thành niên của mỗi quốc gia phải hoạt động và một mô hình cho các nước về sự đáp ứng nhân đạo và công bằng đối với những trẻ em có thể nhận thấy mình làm trái pháp luật. Quy tắc Bắc Kinh là một văn kiện được chia làm sáu phần, bao gồm toàn bộ các thủ tục tố tụng tư pháp trẻ em, trong đó có: những nguyên tắc chung; điều tra và truy tố; xét xử và quyết định; xử lý không giam giữ; xử lý có giam giữ; nghiên cứu và lập kế hoạch; đề ra chính sách; và đánh giá. Mặc dù mục đích là nhằm bảo vệ các quyền trẻ em trong quá trình thực hiện tư pháp, việc áp dụng Quy tắc Bắc Kinh chưa bao giờ được dự tính cung cấp một phương pháp tiếp cận toàn diện, có hệ thống và thực tế những điều kiện mà theo đó trẻ em có thể bị tước quyền tự do. Do thiếu luật quốc tế cụ thể để bảo vệ quyền cho trẻ em bị tước quyền tự do, phiên họp về ân xá quốc tế 13
- năm 1981 đã ra dự thảo các quy tắc tối thiểu phổ biến vẻ bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do. Dựa theo mô hình khi dự thảo Công ước về quyền trẻ em, các tổ chức phi chính phủ đã thuyết phục các nước thực hiện một giải pháp đề xuất Ưỷ ban phòng ngừa và kiểm soát tội phạm triển khai các quy tắc tối thiều phổ biến về xử lý người chưa thành niên bị tước quyền tự do. Sau đó, Quy tắc của liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua bằng nghị quyết số 45/113 ngày 14/12/1990. Quy tắc bảo vệ trẻ em bị tước quyền tự do và nhấn mạnh rằng việc tước quyền tự do của trẻ em là biện pháp cuối cùng. Quy tắc nêu cụ thể những điều kiện mà trẻ em có thể bị giam giữ và những điều kiện đó phải tuân thủ việc tôn trọng quyền con người của trẻ. Khác với Quy tắc Bắc Kinh- quy tắc tập trung vào việc bảo vệ trẻ em làm trái pháp luật, Hướng dẫn của Liên hợp quốc về phòng ngừa người chưa thành niên hư hỏng (còn gọi là hướng dẫn Riyadh) tập trung vào việc bảo vệ và biện pháp ngăn ngừa sớm với lưu ý đặc biệt tới trẻ em trong hoàn cảnh có nguy cơ xã hội. Hướng dẫn Riyadh khuyến khích thực hiện luật pháp chuyên biệt về tư pháp người chưa thành niên. Bên cạnh Công ước, quy tắc, hướng dẫn của quốc tế thì các nước cụ thể cũng quy định riêng cho mình những quy định về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong các quy định của pháp luật quốc gia. Cụ thể như: Thủ tục tố tụng hình sự của Australia đối với người chưa thành niên có quy định sự khác biệt so với người đã thành niên nhưng rất ít chỉ là thủ tục mang tính chính thống hơn. Cụ thể: quy định về thủ tục tố tụng trước khi xét xử đối với người chưa thành niên: "Thủ tục ở giai đoạn tiền xét xử đối với người chưa thành niên và người đã thành niên nói chung là tương tự. cảnh sát có quyền nêu câu hỏi, bắt giữ, khám xét và truy tố người chưa thành niên. Sự khác biệt chủ yếu là những thủ tục áp dụng đối với người chưa thành niên 14