Luận văn Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam

pdf 88 trang vuhoa 25/08/2022 9220
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_mot_so_van_de_ly_luan_va_thuc_tien_ve_hinh_phat_tu.pdf

Nội dung text: Luận văn Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam

  1. 'I ĐẠI HỌC QUOC GIA HA NỌI KHOA LUẢT• TRÀN THU HUYÈN MỘT SÓ VẤN ĐÈ LÝ LUẬN VÀ THựC TIỄN VẺ HÌNH PHAT• TỬ HÌNH TRONG LUẢT• HÌNH s ư • VIẼT • NAM CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH sự MÂ SỐ : 60.38.40 LUẬN VĂN THẠC sĩ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DÂN KHOA HỌC: TS. PHẠM VĂN LỢl ĐAI HỌC QUỐC GIA HÀ NÔI TRUNG TÂM THÔNG TIN THƯ VIÊN V - I D / b HÀ NỘI -2006
  2. Trần Thu Huyền Cao học khóa 9 - Khoa Luật - ĐHQCỈ Hà Nội M Ụ C L Ụ C Trang LỜI CAM ĐOAN 1 MỤC LỤC 2 DANH MỤC CÁC BẢNG 5 MỞ ĐẦƯ 6 Chương 1 MỘT SỐ VÁN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH TRONG LUẬT HÌNH sụ VIỆT NAM 10 1.1. Khái niệm hình phạt từ h ìn h 10 1.2. Bàn chất, đặc điểm của hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt N am 12 1.2.1. Bàn chất của hình phạt tử hình 12 1.2.2. Đặc điểm của hình phạt tử hình 15 1.3. Mực đích, ý nghĩa của hình phạt tử hình 20 1.3.1. Mục đích của hình phạt tử hình 20 1.3.2. Ý nghĩa của hình phạt tử hình 23 Chương 2. CÁC QUY ĐỊNH VỀ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH TRONG PHÁP LUẬT HÌNH sự VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THÉ GIỚI 24 2.1. Các quy định về hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Viêt Nam qua các thời k ỳ 24 2.1.1. Các quy định về hình phạt tử hình trước năm 1945 24 2.1.2. Các quy định về hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam từ khi Cách mạng tháng Tám thành công đến trước khi có Bộ luật hình sự năm 1985 28 2.1.3. Quy định về hình phạt tử hình trong Bộ luật hình 32 2 Luận văn tốt nghiệp
  3. Trần Thu Huyền Cao học khóa 9 - Khoa Luật - ĐHQG Hà Nội Sự năm 1985 2.1.4. Các quy định về hình phạt tử hình ữong Bộ luật hình sự năm 1999 36 2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt tử hình (thực tiễn xét xử) ở nước ta trong thời gian qua 49 2.3. Quy định về hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới 61 Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẢM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TỬ HÌNH TRONG THựC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN 67 3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về việc quy định hình phạt tử hình trong pháp ỉuật hình sự và áp dụng hình phạt tử hình trên thực tiễ n 67 3.2. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về hình phạt tử hình 71 3.2.1.Giảm số điều luật về tội danh có quy định hình phạt tử hình 74 3.2.2. Mở rộng phạm vi đối tượng không áp dụng hình phạt tử hình 76 3.2.3.Thực hiện việc phân hóa trách nhiệm hình sự sâu hơn nữa đối với những điều luật quy định hình phạt tử hình 76 3.2.4.Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực lập pháp hình s ự 77 3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt tử hình trong hoạt động xét xử tại Tòa án 78 3 Luận văn tốt nghiệp
  4. Trần Thu Huyền Cao học khóa 9 - Khoa Luật — ĐHQG Hà Nội 3.3.1.Xây dựng và ban hành văn bán hướng dần về việc áp dụng thống nhất những quy định của pháp luật hình sự về hình phạt tử h ìn h 78 3.3.2.Quản lý, tổ chức tập huấn, học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ năng lực nghiệp vụ cho đội ngũ thẩm phán và và những người tiến hành tố tụng 80 3.3.3.Tuyên truyền phổ biến, giáo dục những quy định pháp luật về hinh phạt tử hình 80 KẾT LUẬN 81 TÀI LIỆU THAM KHẢO 83 4 Luận văn tốt nghiệp
  5. Trần Thu Huyền Cao học khóa 9 — Khoa Luật - ĐHQG Hà Nội DANH MỤCm CÁC BẢNG Ký hiệu bàng Nội dung bảng Bảng 2.1 Sô người bị kêt án tử hình (từ năm 1992 đên 31/5/2005) Bảng 2.2 Một số điều luật quy định hình phạt tử hình được áp dụng nhiều trong thực tiễn xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm (từ 1993 -2 0 0 2 ) 5 Luận văn tốt nghiệp
  6. Trần Thu Huyền Cao học khóa 9 - Khoa Luật — ĐHQG Hà Nội M Ở Đ À U 1. Tính cấp thiết của đề tài Hình phạt tử hình là hình phạt nghiêm khẳc nhất trong hệ thống hình phạt của pháp luật hình sự Việt Nam, được áp dụng đối với những tội phạm đặc biệt nguy hiểm. Trong lịch sừ pháp luật hình sự Việt Nam, hình phạt từ hình cùng với các hình phạt khác trong pháp luật hình sự đã góp phần quan trọng trong công tác đấu tranh phòng, chổng tội phạm, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế xã hội của đất nước qua các thời kỳ. Trong hệ thống pháp luật hình sự thực định, hình phạt tử hình được quy định cụ thể tại Điều 28, Điều 35 Phần chung và tại 29 điều luật quy định về các tội phạm cụ thể trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự năm 1999. Tuy nhiên, trong tình hình mới, đặc biệt là sự phát triển nhanh của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, yêu cầu phát huy dân chủ, tôn trọng và bảo đảm quyền con người cũng như xu hướng hội nhập quốc tế sâu rộng thì một số quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 nói chung, các quy định về hình phạt tử hình nói riêng không còn phù hợp với tình hình mới. Chính vì vậy, ngày 02/01/2002, Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới. Trong đó Bộ chính trị xác định “Xây dựng đề án thay đổi việc tổ chức thi hành hình phạt lử hình và nghiên cứu hạn chế hình phạt từ hình trong Bộ luật hình là sự” một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới. Thực tiễn tổng kết hoạt động xét xử về áp dụng hình phạt tử hình và công tác thi hành hình phạt tử hình trong thời gian qua cho thấy mặc dù pháp luật đã có những thay đổi theo hướng hạn chế các hình phạt tử hình trong Bộ 6 Luận văn tốt nghiệp
  7. Trần Thu Huyền Cao học khóa 9 - Khoa Luật - ĐHQG Hà Nội luật hình sự nhưng mỗi năm vẫn có hàng trăm người bị Tòa án kết án tử hình và bị đưa ra thi hành, con số này năm sau cao hơn năm trước. So với pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới, hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam vẫn còn mở rộng đối với nhiều loại tội phạm. Cơ chế tổ chức, trình tự, thủ tục thi hành hình phạt tử hình đã từng bước được hoàn thiện nhưng vẫn còn những vướng mắc, bất cập cần khẩn trương khắc phục như; vấn đề tạm hoãn thi hành án; tình trạng các bản án tử hình chậm được thi hành có trường hợp kéo dài tới hàng năm gây khó khăn cho việc giam giữ, quản lý. Hình thức thi hành hình phạt tử hình bằng cách bắn đã có tiến bộ nhưng vẫn còn gây ra sự đau đớn về thể xác và cũng tạo ra một số tiêu cực về tâm lý cho cán bộ, chiến sĩ trực tiếp thi hành hình phạt cũng như vấn đề người nhà xin đưa thi thể người bị thi hành về chôn cất v.v Trong khi đóVỚI sự phát triển về mọi mặt đời sống của xã hội loài người cùng với xu hướng chung của một số nước trên thế giới là thu hẹp dần phạm vi áp dụng và loại bỏ hình phạt tử hình; việc thi hành hình phạt tử hình đã áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại nhằm đảm bảo tính nhân đạo nhất đối với người bị thi hành hình phạt này. Dưới góc độ khoa học pháp lý, trong thời gian qua đã có một số đề tài khoa học, luận án, các bài viết đã được nghiên cứu và đề cấp ở những góc độ, phương diện khác nhau như: Đề tài khoa học cấp Nhà nước năm 2000 - 58 - 189 “Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tồ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới” (cơ quan chủ trì Bộ Tư pháp); Đề tài khoa học cấp Bộ năm 1991 số 91-98-050 “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn nâng cao hiệu quả hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam” (cơ quan chủ trì Bộ Tư pháp); Đề tài khoa học cấp bộ năm 2003: "Một số vấn đề về hình phạt tử hình và thi hành hình phạt tử hình - thực trạng và giải pháp" (cơ quan chủ trì Bộ Tư pháp); Luận án thạc sĩ: Hình phạt ừong Luật hình sự Việt Nam 7 Luận văn tốt nghiệp
  8. Trần Thu Huyền Cao học khóa 9 - Khoa Luật - ĐHQG Hà Nội - Lê Văn Hường Mặc dù vậy, mồi công trình lại tiếp cận vấn đề dưới các giác độ, mục đích và thời điểm nghiên cứu khác nhau. Do vậy, việc nghiên cứu hình phạt tử hình trong bối cảnh hiện nay nhàm thể chế hoá Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị phù hợp với xu hướng phát triển nền kinh tế thị trường, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, hội nhập quốc tế sâu rộng này là cần thiết. Chính vì lẽ đó, học viên đã chọn đề tài“Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam” làm luận văn Thạc sĩ luật học nhằm đóng góp một số ý kiến giải quyết các vướng mắc về mặt lý luận và thực tiễn về hình phạt từ hình. 2. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hình phạt từ hình cũng như thực trạng việc áp dụng các quy định về hình phạt từ hình trong pháp luật hình sự Việt Nam để từ đó đưa ra được một số đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về hình phạt tử hình. Để đạt được mục đích đó, luận văn có cácnhiệm vụ chủ yếu sau đây: - Phân tích những vấn đề lý luận về hình phạt từ hình trong luật hình sự Việt Nam, bao gồm: khái niệm, bàn chất, đặc điểm, mục đích, ý nghĩa của hình phạt tử hình. - Phân tích, làm sáng tỏ các quy định về hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam và một số nước ừên thế giới. - Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của việc áp dụng hình phạt tử hình trong thực tiễn xét xử của Tòa án. Đổi tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về hình phạt tử hình trên cơ sở các quy định của pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng hình phạt tử hình dưới góc độ luật hình sự. 8 Luận văn tẻt nghiệp
  9. Trần Thu Huyền Cao học khóa 9 - Khoa Luật - ĐHQG Hà Nội 3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn được nghiên cứu và thực hiện trên cơ sở quán triệt sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách hình sự của Nhà nước ta nói chung và đối với hình phạt tử hình nói riêng. Để hoàn thành các mục đích và nhiệm vụ của luận văn, tác giả đã dựa trên cơ sở phương pháp luật là phép biện chứng duy vật, sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê hình sự, so sánh pháp luật 4. Kết cấu của luận văn: Luận văn ngoài lời mờ đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo được cơ cấu gồm 3 chương: - Chương 1 : Một số vấn đề lý luận về hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam. - Chương 2: Các quy định về hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam và một số nước trên thế giới. - Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của việc áp dụng hình phạt tử hình trong thực tiễn xét xử của Tòa án. Trong quá trình thực hiện, luận văn này chắc chắn sẽ không tránh khòi những thiếu sót nhất định, vì vậy tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp từ phía người đọc. 9 Luận văn tốt nghiệp
  10. Trần Thu H u y ề n___ Cao học khóa 9 - Khoa Luật - ĐHQG Hà Nội Chưcmg 1 MỘT« SỐ VÁN ĐÊ LÝ LUẬN • VÊ HÌNH PHẠT t TỬ HÌNH TRONG LUẬT HÌNH sự VIỆT NAM 1.1. Khái niệm hình phạt tử hình. Tội phạm và hình phạt có thể nói là những chế định quan trọng nhất của luật hình sự. Khi quy định một hành vi nguy hiểm cho xã hội nào đó là tội phạm thì đồng thời Nhà nước cũng quy định hình phạt tương ứng với nó. Hình phạt là hậu quả pháp lý của tội phạm. “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quyết định trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án để tước bỏ hay hạn chế quyền, tự do của người bị kết án theo các quy định của pháp luật hình sự” [19, ư. 675], Loại và mức hình phạt được quy định với một tội phạm phụ thuộc vào tính chất của hành vi phạm tội và chính sách hình sự của nhà nước đó trong từng giai đoạn khác nhau. Điều 28 Bộ luật hinh sự năm 1999 đã quy định một hệ thống hình phạt từ nhẹ nhất là cảnh cáo đến nặng nhất là tử hình. Tuy khác nhau về mức độ cưỡng chế nghiêm khắc nhưng các hình phạt đều có cùng tính chất là một loại biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất trong số các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước. Khi bị áp dụng, hình phạt có thể tước bỏ hoặc hạn chế một số quyền và lợi ích của người bị kết án như quyền tự do, quyền chính trị, quyền sở hữu và thậm chí cả quyền sống. Trong hệ thống các hình phạt, tử hình được coi là loại hình phạt đặc biệt và nghiêm khắc nhất. Nhưng hình phạt này không phải để nhằm mục đích cải tạo và giáo dục bàn thân người phạm tội mà có mục đích trừng bị, tước bỏ quyền sống của họ, loại bỏ hoàn toàn khả năng phạm tội mới từ phía họ. Hình phạt này được áp dụng đối với tội phạm như là biện pháp cuối cùng, cao nhất, triệt để nhất để trừng trị người phạm tội. 10 Luận văn tốt nghiệp
  11. Trần Thu Huyền Cao học khóa 9 — Khoa Luật - ĐHQG Hà Nội Hình phạt tử hình được quy định trong luật từ rất xa xưa. Người ta có thể tìm thấy hình phạt tử hình được quy định trong Bộ luật Hammurabi của Babylon khoảng năm 1750 trước Công nguyên. Sau khi đế chế La Mã sụp đổ đánh dấu cho sự bắt đầu cùa thời kỳ hiện đại, hình phạt từ hình được áp dụng phổ biến ở Châu Âu và các nước khác trên thế giới [2], Hình phạt tử hình cũng được quy định trong luật hình sự của nước ta từ rất sớm. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm cụ thể về hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự nước ta. Trong Bộ luật hình sự năm 1999 hình phạt tử hình được quy định tại Điều 35: “Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đổi với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Không áp dụng hình phạt từ hình đối với người chưa thành niên phạm tội, đổi với phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xừ. Không thi hành án tử hình đổi với phụ nữ cổ thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Trong trường hợp này hình phạt tử hình chuyển thành tù chung thân. Trong trường hợp người bị kết án tử hình được ân giảm, thì hình phạt từ hình chuyển thành tù chung thân” Như vậy, “tử hình phải được coi là một hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng irong những trường hợp mà hành vi phạm tội cỏ tinh chất nghiêm trọng đặc biệt cho xã hội, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, tập trung nhiều tình tiết tăng nặng đặc biệt, nhân thân người phạm tội rất xẩu không thể cài tạo, giảo dục được, họ mất khả năng tái hòa nhập với xã hội, đồng thời đáp ứng yêu cầu phòng ngừa chung khi thật cần thiết” [18, tr. 302], 11 Luận văn tốt nghiệp
  12. Trần Thu Huyền Cao học khóa 9 - Khoa Luật - ĐHQG Hà Nội 1.2. Bản chất, đặc điểm của hình phạt tử hình trong pháp luật hình sư• Viêt • Nam. 1.2.1. Bản chất của hình phạt tử hình: Theo học thuyết Mác-Lênin, pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp. Bản chất của pháp luật nói chung và hệ thống hình phạt nói riêng ở mỗi một quốc gia sẽ tương ứng với hình thái kinh tế - xã hội của quốc gia đó. Nằm trong hệ thống các hình phạt, hình phạt tử hình cũng do các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, hệ tư tưởng, đạo đức, lối sống của hình thái kinh tế đó quyết định. Nó phụ thuộc vào sự thay đổi của các hình thái kinh tế xã hội, sự thay đồi trong quan điểm, chính sách hình sự của giai cấp thống trị. Ngoài ra, hình phạt tử hình cũng do các điều kiện xã hội, quyền và lợi ích kinh tế, chính trị và các lợi ích khác của giai cấp thống trị quyết định, đồng thời phải phù hợp với các lợi ích đó. Nói cách khác, bản chất của hình phạt tử hình thể hiện ở tính giai cấp, tính xã hội của nó. Tính giai cấp của hình phạt tử hình thể hiện ở chỗ nó là sự phản ánh ý chí nhà nước, quan điểm cùa giai cấp thống trị. Nhờ nắm trong tay quyền lực nhà nước, giai cấp thống trị đã thông qua nhà nước để thể hiện ý chí của giai cấp mình một cách tập trung, thống nhất và hợp pháp hóa thành ý chí của nhà nước, ý chí đó được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật nói chung và hình phạt tứ hình cũng nằm trong sổ những quy định đó. Nó bao giờ cũng xuất phát từ các quan điểm thống trị cơ bản trong xã hội và phải phù hợp với các quyền và lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội của giai cấp thống trị. Hình phạt tử hình là một trong những biện pháp mà giai cấp thống trị dùng để đấu tranh với tội phạm, với những giai cấp chống đối. Mục đích của hình phạt tử hình nói riêng và pháp luật nói chung là để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Và hình phạt tử hình được coi như một biện pháp cuối cùng mà giai cấp thống trị áp dụng để điều chỉnh quan hệ giữa các 12 Luận văn tốt nghiệp
  13. Trần Thu Huyền Cao học khóa 9 - Khoa ỈMỘt - DHQG Hà Nội giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Vì vậy, nó góp phần điều chình về mặt giai cấp các quan hệ xã hội nhàm hướng chúng phát triển theo theo một trật tự phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị, bào vệ và củng cố địa vị của giai cấp thống trị. Hình phạt tử hình là một trong những công cụ để thực hiện sự thống trị giai cấp. Bản chất giai cấp là thuộc tính của hình phạt tử hình, nhưng trong mỗi kiểu nhà nước, mỗi kiểu hình thái kinh tế xã hội thì các quy định về hình phạt tử hình lại có nhừng sự khác biệt. Pháp luật phong kiến là sự thể hiện y chí cùa giai cấp địa chủ phong kiến, là công cụ chuyên chính trong tay giai cấp đó. Nó ghi nhận sự bất bình đảng giữa các đảng cấp khác nhau trong xã hội và sự phụ thuộc của người nông dân vào giai cấp địa chủ, bảo vệ các hình thức áp bức, bóc lột của địa chủ phong kiến đối với nông dân. Do đó, hình phạt tử hình với các hình thức thi hành hà khắc dã man được sử dụng như một công cụ chính, cơ bàn, phổ biến để đấu tranh với tội phạm nhằm bảo vệ, phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị, giai cấp địa chủ phong kiến. Pháp luật tư sản thể hiện ý chí của giai cấp tư sàn là bằng mọi giá phải duy trì và củng cố chế độ tư hữu và sự chi phối không hạn chế của nó đối với các yếu tố xã hội, kinh tế và chính trị. Vì vậy, trong thời kỳ đầu, các Nhà nước tư sàn cũng sử dụng hỉnh phạt tử hình một cách tương đối phổ biến để đấu tranh với tội phạm, bảo vệ chế độ tư bản chủ nghĩa, bào vệ quyền và lợi ích của giai cấp tư sàn. Giống như các kiểu pháp luật khác, pháp luật xã hội chủ nghĩa cũng mang bản chất của pháp luật nói chung, Tuy nhiên, vì xuất phát từ cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa và hệ tư tưởng trong chủ nghĩa xã hội nên pháp luật xà hội chủ nghĩa có những đặc thù riêng. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước cùa dân, do dân, vì dân, vì vậy bên cạnh các biện pháp pháp luật mà điên 13 Luận văn tốt nghiệp
  14. Trần Thu Huyền___ Cao học khóa 9 - Khoa Luật - ĐHQG Hà Nội hình là hình phạt, các biện pháp kinh tế, văn hóa, xã hội cũng được áp dụng rộng rãi để đấu tranh với tội phạm. Trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, đó là các biện pháp chính, có ý nghĩa quyết định trong cuộc đấu tranh phòng chổng tội phạm với quan điểm đưa mục đích “phòng ngừa tội phạm” lên trước mục đích “chống tội phạm”. Hình phạt từ hình trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng mang tính giai cấp nhưng vì pháp luật xã hội chù nghĩa là sự thể hiện ý chí cùa giai cấp công nhân và đông đào nhân dân lao động nên nó được quy định và áp dụng với mục đích bảo vệ thành quả và lợi ích của đa số đó. Bên cạnh tính giai cấp, hình phạt tử hình còn mang bản chất xã hội. Trong xã hội hiện đại, nhất là trong xu hướng hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay hình phạt tử hình không chi phàn ánh ý chí, nguyện vọng của giai cấp thống trị mà còn phản ánh rõ nét điều kiện chính trị, kinh tế, văn hoá của xã hội đương thời. Xét trên phương diện lý thuyết, pháp luật vừa thể hiện ý chí, nguyện vọng của giai cấp thống vừatrị cổ chức năng điều hoà các quan hệ xã hội. Chính chức năng điều hoà này đã phản ánh ở mức độ nhất định ý chí, nguyện vọng của giai cấp bị thống trị. Mặt khác, trong xã hội đương đại (không phân biệt chế độ chính trị) các quốc gia đang hướng tới xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền mà ờ đó việc quàn lý xã hội bằng pháp luật, đề cao tính tối thượng của pháp luật. Muốn vậy, pháp luật phải được đại bộ phận dân chúng chấp nhận. Điều này đòi hỏi người dân được tham gia quá trình lập pháp ngay từ khi hình thành ý tưởng lập pháp, chính sách pháp luật cho đến khi pháp luật được thông qua và tổ chức thực thi trong cuộc sống. Vì thế, xét trên các góc độ lý thuyết và cả thực tiễn thì bán chất của hình phạt tử hình trong pháp luật đương đại không chỉ mang tính giai cấp mà còn thể hiện tính xã hội sâu sắc. Ở một mức độ nhất định, hình phạt tử hình còn phản ánh ý chí và nguyện vọng của đại bộ phận dân cư trong xã hội. Nhà nước mà đại diện là giai cấp thống trị có quyền ban hành pháp luật, trong đó 14 Luận văn tốt nghiệp
  15. Trần Thu Huyền Cao học khóa 9 - Khoa Luật - ĐHQG Hà Nội CÓ quy định về hình phạt từ hình nhưng bên cạnh việc thể hiện bàn chất giai cấp, nó còn phản ánh những nhu cầu khách quan, phổ biến cùa các mối quan hệ xã hội. Vì vậy, nhà nước cũng không thề ban hành pháp luật nói chung, quy định về hình phạt tử hình nói riêng mà không tính đến những nhu cầu và tâm lý xâ hội. Khi những quy định về hình phạt tử hình không còn phù hợp với thực tiễn nữa thì nhà nước phải tiến hành sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh. 1.2.2. Đặcđiểm của hìnhphạt tử hình: Troog số các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm theo quy định của pháp luật hình sự nước ta thì hình phạt là một biện pháp cường chế của Nhà nước có tính chất đặc biệt. Đó là biện pháp cưỡng chế hình sự nghiêm khắc nhất, nó hạn chế hoặc tước bò nhừng quyền và lợi ích thiểt thân nhất của người bị kết án. Một số hình phạt nhẹ như cảnh cáo, hoặc phạt tiền tuy về hình thức có giống với một số biện pháp cường chế khác của Nhà nước nhưng với tư cách là hình phạt hình sự thì chúng có tính chất nghiêm khấc hơn hẳn vỉ đều dẫn tới hậu quả pháp lý chung là làm cho người bị kết án phải mang án tích trong một thời hạn nhất định. Cũng chính vì thế, hình phạt phải được quy định trong Bộ luật hình sự. Trong Bộ luật hình sự 1999 hiện hành, hình phạt được quy định ở cà Phần chung và Phần các tội phạm. Sự đa dạng của các loại tội phạm đòi hòi nhà nước ta cũng phải quy định một hệ thống hình phạt đa dạng và cân đổi về mức độ cưỡng chế nặng, nhẹ khác nhau giữa các loại hình phạt. Trong trường hợp nhất định, tùy vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, vào nhân thân người phạm tội và các yếu tố khác có liên quan mà mức độ nghiêm khắc của hình phạt được áp dụng khác nhau đối với người phạm tội. Mức độ nghiêm trọng của tội phạm sẽ tỷ lệ thuận với mức độ nghiêm khắc của hình p.hạt. Với những người phạm tội mà các biện pháp giáo dục, cải tạo thông thường không có tác dụng thì chỉ có sự trừng trị nghiêm khắc tương 15 Luận văn tốt nghiệp
  16. Trần Thu Huyền Cao học khóa 9 - Khoa Luật - ĐHQG Hà Nội xứng mới có tác dụng buộc họ phài suy nghĩ về những tội lồi mà mình đã gây ra cho xã hội đồng thời răn đe họ không phạm tội mới. Sự đa dạng của hình phạt sẽ giúp cho việc phân hoá các biện pháp xử lý thích hợp, đáp ứng mục đích không chỉ trừng trị mà quan trọng hơn là giáo dục, cải tạo người phạm tội, tạo cho họ cơ hội sửa chữa lỗi lầm hoà nhập với cộng đồng Hình phạt chỉ do Tòa án áp dụng đổi với cá nhân người phạm tội và phải tuân theo một trình tự riêng biệt. Điều này đã được Hiến pháp năm 1992 của nước ta và Luật tồ chức Tòa án quy định: chỉ có Tòa án nhân dân mới có thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, hôn nhân gia đình, lao động, hành chính. Chỉ có Tòa án mới có quyền nhân danh Nhà nước quyết định một người có phải chịu hình phạt hay không. Trong quá trình xét xử và quyết định hình phạt, Tòa án phải tuân thủ nghiêm ngặt các thủ tục được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Hình phạt cũng chỉ được áp dụng với cá nhân vì theo pháp luật hình sự Việt Nam trách nhiệm hình sự là ữách nhiệm cá nhân, nên nó chì có thể được áp dụng với bản thân người bị kết án. Hình phạt tử hình có đầy đủ các đặc điểm của một hình phạt trong hệ thống hình phạt của luật hình sự . Đặc điểm này nhằm phân biệt hình phạt với các chế tài pháp lý khác (hành chính, dân sự, kỷ luật). Tính nghiêm khắc của hệ thống hình phạt do tính chất và mức độ của hành vi vi phạm (hành vi phạm tội) quy định. Các hành vi vi phạm pháp luật khác (hành chính, dân sự, kỷ luật) do tính chất và mức độ vi phạm chưa nghiêm trọng đến mức bị coi là tội phạm nên được xử lý bằng các chế tài khác ít nghiêm khắc hơn. Hình phạt tử hình được quy định trong Bộ luật hình sự cùng với các hình phạt khác. Trong Phần chung của Bộ luật hình sự năm 1999, hình phạt tử hình được quy định là hình phạt chính tại Điều 35. Điều này nói lên tính pháp chế và hợp pháp của hình phạt tử hình theo đúng quy định của Điều 26 Bộ luật hình sự: “Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự ” 16 Luận văn tốt nghiệp
  17. Trần Thu Huyền Cao học khóa 9 - Khoa Luật - ĐHQG Hà Nội Ở Phần các tội phạm, hình phạt tử hình được quy định riêng đối với từng loại tội phạm. Cụ thể là hình phạt tử hình được quy định trong Bộ luật hình sự đối với các tội danh sau: Tội phản bội Tổ quốc (khoản 1, Điều 78); tội hoạt động nhầm lật đồ chính quyền nhân dân (khoản 1, Điều 79); tội gián điệp (khoản 1 Điều 80); tội bạo loạn (khoản 1, Điều 82); tội hoạt động phỉ (khoản 1, Điều 83); tội khủng bổ (khoản 1, Điều 84); tội phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khoản 1, Điều 85); tội giết người (khoản 1, Điều 93); tội hiếp dâm (khoản 3, Điều 111); tội hiếp dâm trẻ em (khoản 3, Điều 112); tội cướp tài sản (khoản 4, Điều 133); tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (khoản 4, Điều 139); tội buôn lậu (khoản 4, Điều 153); tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (khoản 4, Điều 157); tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả (khoản 3, Điều 180); tội sản xuất trái phép chất ma túy (khoản 4, Điều 193); tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán, trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (khoản 4, Điều 194); tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thủy (khoản 3, Điều 221); tội phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (khoản 2, Điều 231); tội tham ô tài sàn (khoản 4, Điều 278); tội nhận hối lộ (khoản 4, Điều 279); tội đưa hối lộ (khoản 4, Điều 289); tội chống mệnh lệnh (khoản 4, Điều 316); tội đầu hàng địch (khoản 3, Điều 322); tội hủy hoại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (khoản 4, Điều 334); tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược (Điều 341); tội chống loài người (Điều 342); tội phạm chiến tranh (Điều 343). Chỉ có Tòa án nhân danh Nhà nước mói có thẩm quyền quyết định áp dụng hình phạt tử hình. Điều này đã được quy định tại Điều 127 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 và được cụ thể hóa tại Điều 1 Luật tổ chức Tòa án năm 1992 đối với các hình phạt nói chung cũng như với riêng hình phạt tử hình tại Điều 26 Bộ luật hình sự nghiệp 17 ĐA HỌC Q U Ố C «W ổi TRUNG- TÂM ĨHÔNG ĨỈN THƯ VIÊN
  18. Trần Thu Huyền___ Cao học khóa 9 - Khoa Luật - ĐHQG Hà Nội “Hình phạt tử hình do Tòa án quyết định.” Hình phạt tử hình chỉ có thể do Tòa án quyết định áp dụng cũng như miễn áp dụng nhưng phải căn cứ vào các quy định của pháp luật. Ngoài Tòa án chỉ có Chủ tịch nước mới có quyền xét ân giảm hình phạt tử hình cho một người phạm tội nào đó. Trong khi đó, theo luật hình sự Trung Quốc, trừ trường hợp do Tòa án nhân dân tối cao tuyên xừ, còn lại khi áp dụng hình phạt từ hình đổi với một người phạm tội đều phải được sự phê chuẩn của Tòa án nhân dân tối cao (Điều 48 Bộ luật hình sự Trung Quốc). Hình phạt tử hình chĩ áp dụng đối vói cá nhân người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm. Điều đó cũngcó nghĩa là chỉ khi có một tội phạm xày ra và người phạm tội có lỗi trong việc thực hiện tội phạm thì mới có khả năng bị áp dụng hình phạt tử hình. Cũng như các hình phạt khác, hình phạt tử hình chỉ có thề được áp dụng đối với chính người có hành vi phạm tội vì trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam là trách nhiệm cá nhân. Chi khi một người nào đỏ cố ý thực hiện một hành vi đặc biệt nguy hiểm cho xă hội được luật hình sự quy định là tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự với mức nghiêm khắc nhất (tử hình) thì Tòa án mới có thể quyết định áp dụng hình phạt tử hình đối với anh ta. Ngoài các đặc điểm chung của hệ thống hình phạt, thì hình phạt tử hình còn có các đặc điểm riêng (mang tính đặc thù). Trước hết đó là tính nghiêm khắc nhất của nó trong số các hình phạt của nước ta. Hình phạt tử hình là chế tài pháp lý nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt.Nghiêm khắc vì nó tước bỏ quyền được sống của người phạm tội, một loại quyền được coi là cơ bán nhất trong số các quyền của con người. Sự nghiêm khắc đó còn thể hi ện ở mục đích chính của hình phạt tử hình là trừng fri và phòng ngừa, người phạm tội bị coi là không có khả năng giáo dục, cảm hoá, cải tạo 18 Luận văn tốt nghiệp
  19. Trần Thu Huyền Cao học khóa 9 - Khoa Luật - ĐHQG Hà Nội Chính vì tính nghiêm khắc nhất đó mà hình phạt tử hình bị hạn chế áp dụng, chỉ có một sổ loại tội phạm được Bộ luật hình sự quy định cụ thể khả năng áp dụng hình phạt tử hình. Đó là những trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, nghĩa là các tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Tuy nhiên hình phạt tử hình cũng chỉ là khả năng cuối cùng khi mà Tòa án xét thấy không thể áp dụng loại hình phạt khác được quy định trong chế tài vì tính chất đặc biệt nghiêm trọng của tội phậm. Hình phạt tử hình không phải được áp dụng đối vói mọi chủ thể phạm tội. Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội, đổi với phụ nừ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử; việc thi hành hình phạt tứ hình cũng không được thực hiện đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Điều này cũng cho thấy các nhà làm luật trong khi quy định về hình phạt tử hình cũng đã chú trọng đến một nguyên tắc cơ bản của pháp luật xã hội chủ nghĩa - nguyên tẩc nhân đạo. Đây là những đối tượng mà đặc điểm tâm sinh lỹ đặc biệt có ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng nhận thức, điều khiển hành vi cũng như khà năng giáo dục, cải tạo của họ. Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định đối tượng không áp dụng hình phạt tử hình là “người chưa thành niên và phụ nữ có thai”. Tuy nhiên, đến khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999, phạm vi các đối tượng không áp dụng hình phạt từ hình đã được mở rộng thêm với “phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi”. Hậu quả pháp lý của hình phạt tử hình là tước đoạt quyền được sống của con người, loại trừ họ ra khỏi cộng đồng xã hội vĩnh viễn.Người phạm tội hoàn toàn có thể nhận thức được rằng hành vi của mình đã xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của người khác, thậm chí là tước đi bao nhiêu mạng sống của đồng loại. Việc áp dụng hình phạt từ hình là điều 19 Luận văn tốt nghiệp