Luận văn Một số biện pháp nhằm hoàn thiện chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Một số biện pháp nhằm hoàn thiện chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
luan_van_mot_so_bien_phap_nham_hoan_thien_chinh_sach_thue_th.doc
Nội dung text: Luận văn Một số biện pháp nhằm hoàn thiện chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay
- Chuyên đề tốt nghiệp CHƯƠNG 1 : LÝ LUẬN CHUNG VỀ THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP 1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THUẾ 1.1.1. Khái niệm Thuế ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước. Nó là một công cụ tài chính để tạo lập nguồn thu nhằm duy trì hoạt động của bộ máy hành chính Nhà nước và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Trải qua quá trình phát triển và hoàn thiện lâu dài, tính đến hiện nay có rất nhiều quan niệm về thuế với những góc độ nhìn nhận khác nhau. - Các nhà kinh điển cho rằng: “ Thuế là cái mà Nhà nước thu của dân nhưng không bù lại” và “thuế cấu thành nên phần thu của Chính phủ, nó được lấy ra từ sản phẩm của đất đai và lao động trong nước, xét cho cùng thì thuế được lấy ra từ tư bản hay thu nhập của người chịu thuế ”(Lênin toàn tập - tập 15) - Theo quan điểm luật pháp: Thuế là khoản đóng góp theo quy định của pháp luật mà Nhà nước bắt buộc mọi tổ chức và cá nhân phải có nghĩa vụ nộp vào cho ngân sách Nhà nước. - Trên góc độ phân phối thu nhập: Thuế là hình thức phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân nhằm hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước (quỹ ngân sách Nhà nước) để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng của Nhà nước. - Có rất nhiều khái niệm khác nhau về thuế, song có khái niệm chung nhất về thuế như sau: Thuế là một phần thu nhập mà các cá nhân hoặc tổ chức đóng góp bắt buộc cho Nhà nước để phục vụ nhu cầu và nhiệm vụ của Nhà nước, thuế thể hiện mối quan hệ kinh tế cơ bản giữa Nhà nước với các tổ chức kinh tế và tầng lớp dân cư. Thuế mang bản chất giai cấp của Nhà nước. Sự khác nhau của Nhà nước được thể hiện qua nội dung của việc thu thuế như : thu thuế của ai là chủ yếu, thu như thế nào, thu làm gì....Thuế còn thể hiện tính chất xã hội rộng rãi bởi thuế thu đối với toàn dân, thuế liên quan đến mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội. Mọi người dân trong xã hội có nghĩa vụ đóng thuế đồng thời cũng có quyền kiểm tra xem Nhà nước đã sử dụng các khoản đóng góp đó có hợp lý không? Thuế là công cụ rất có hiệu lực để Nhà nước sử dụng để quản lý xã hội và điều tiết nền kinh tế quốc dân. Thông qua các chính sách thuế, Nhà nước sẽ tạo hành lang, môi trường để các tổ chức, cá nhân được bình đẳng phát triển. Điều đó cho thấy việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống thuế ngày càng khoa học, đơn giản, dễ hiểu là vấn đề rất quan trọng và cần thiết. 1.1.2. Bản chất của thuế Để làm rõ hơn bản chất của thuế, chúng ta cần tìm hiểu những đặc điểm của thuế. SV: Dương Thị Phương Nhàn 1 Lớp : TCDN D- K42
- Chuyên đề tốt nghiệp Thứ nhất: Tính cưỡng chế và tính pháp lý cao Đặc điểm này được thể chế hoá trong hiến pháp của mỗi quốc gia. Trong các quốc gia, việc đóng thuế cho Nhà nước được coi là một trong những nghĩa vụ bắt buộc của các tổ chức kinh tế và công dân cho Nhà nước. Các tổ chức kinh tế và công dân thực hiện nghĩa vụ thuế theo các luật thuế cụ thể được cơ quan quyền lực tối cao ở quốc gia đó quy định phù hợp với các hoạt động và thu nhập của từng tổ chức kinh tế và công dân. Tổ chức hoặc cá nhân nào không thực hiện đúng nghĩa vụ thuế của mình, tức là họ đã vi phạm pháp luật của quốc gia đó. Đặc điểm này phân biệt sự khác nhau giữa thuế với các khoản đóng góp mang tính tự nguyện cho ngân sách Nhà nước và thuế đối với các khoản vay mượn của Chính phủ. Thuế là biện pháp tài chính mang tính chất bắt buộc của Nhà nước, nhưng sự bắt buộc đó luôn được xác lập dựa trên nền tảng của các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và quan hệ kinh tế thế giới. Thứ hai: Thuế là khoản đóng góp không mang tính hoàn trả trực tiếp Khác với các khoản vay, Nhà nước thu thuế từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân nhưng không phải hoàn trả lại trực tiếp cho người nộp thuế sau một khoảng thời gian với một khoản tiền mà họ đã nộp vào Ngân sách Nhà nước. Số tiền thuế thu được, Nhà nước sẽ sử dụng cho các chi tiêu công cộng, phục vụ cho nhu cầu của Nhà nước và của mọi cá nhân trong xã hội. Mọi cá nhân, người có nộp thuế cho Nhà nước cũng như người không nộp thuế, người nộp nhiều cũng như người nộp ít, đều bình đẳng trong việc nhận được các phúc lợi công cộng từ phía Nhà nước. Số thuế mà các đối tượng phải nộp vào cho Nhà nước, được tính toán không dựa trên khối lượng lợi ích công cộng họ nhận được mà dựa trên những hoạt động cụ thể và thu nhập của họ. Đặc điểm này cũng phân biệt giữa thuế với phí và lệ phí. 1.1.3. Phân loại thuế và yếu tố cấu thành của một sắc thuế 1.1.3.1. Phân loại thuế • Phân loại thuế dưới góc độ người nộp thuế và người chịu thuế : (Người nộp thuế là các cá nhân, tổ chức (thể nhân hay pháp nhân) trực tiếp đứng ra nộp thuế cho Nhà nước, người chịu thuế là người có thu nhập bị giảm đi do nộp thuế cho Nhà nước) + Thuế trực thu : Thuế trực thu là thuế mà người nộp thuế cũng đồng thời là người chịu thuế. Điển hình của thuế trực thu là thuế Thu nhập doanh nghiệp, thuế Thu nhập cá nhân, thuế Tài sản...Căn cứ vào mức thuế được quy định trong biểu thuế người nộp thuế tính một phần thu nhập của mình để trực tiếp nộp cho Nhà nước. + Thuế gián thu: Là thuế mà người nộp thuế không phải là người chịu thuế. Điển hình của thuế gián thu là thuế Doanh thu, thuế Giá trị gia tăng, SV: Dương Thị Phương Nhàn 2 Lớp : TCDN D- K42
- Chuyên đề tốt nghiệp thuế Xuất khẩu, Nhập khẩu... Đối với loại thuế này, đối tượng nộp thuế là các tổ chức sản xuất hoặc kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và người chịu thuế là người tiêu dùng. Thuế gián thu điều tiết một phần thu nhập của người tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ nên thuế được tính vào cơ cấu giá của hàng hóa, dịch vụ mà người mua phải trả. Như vậy, thuế gián thu tạo điều kiện cho người chịu thuế lựa chọn các loại hàng hóa, dịch vụ trước khi quyết định tiêu dùng, đảm bảo tính tự nguyện khi chịu thuế. • Phân loại theo đối tượng thuế: + Đối tượng thuế là giá trị hàng hoá: Thuế TTĐB, thuế GTGT, Thuế nhập khẩu, thuế xuất khẩu. +Đối tượng thuế là thu nhập: Thuế TNCN, thuế TNDN +Đối tượng thuế là hoạt động (thuế đánh vào hoạt động): thuế Môn bài đối với hoạt động kinh doanh, thuế Tài nguyên đối với hoạt động khai thác tài nguyên. 1.1.3.2. Các yếu tố cấu thành nên một sắc thuế và những vấn đề chính của một chính sách thuế • Các yếu tố cấu thành nên một sắc thuế chính là thể hiện nội dung cơ bản của sắc thuế đó, bao gồm: - Tên gọi của sắc thuế : mỗi sắc thuế có một tên gọi riêng. Thông thường tên gọi của mỗi sắc thuế thể hiện đối tượng tác động của sắc thuế hoặc mục tiêu của việc áp dụng sắc thuế đó. Ví dụ, thuế “Giá trị gia tăng” cho ta thấy loại thuế này tính trên phần giá trị tăng thêm (giá trị gia tăng) của hàng hoá và dịch vụ, thuế “Thu nhập doanh nghiệp” tính trên tổng các khoản thu nhập của doanh nghiệp, thuế “Tiêu thụ đặc biệt” đánh vào hàng hóa và dịch vụ đặc biệt, thuế “Xuất, nhập khẩu” tác động vào các hàng hóa xuất, nhập khẩu qua biên giới. - Đối tượng nộp thuế : Là tổ chức kinh tế hoặc cá nhân có trách nhiệm phải kê khai và thực hiện nghĩa vụ nộp thuế và ngân sách Nhà nước theo các quy định cụ thể trong mỗi sắc thuế. Đối tượng nộp thuế thể hiện phạm vi áp dụng của một chính sách thuế cụ thể. Trong hệ thống chính sách thuế của nước ta hiện nay, có những sắc thuế có phạm vi rất rộng như thuế Giá trị gia tăng, Thuế Môn bài; nhưng cũng có những sắc thuế có phạm vi áp dụng hẹp như thuế Chuyển quyền sử dụng đất, Thuế Xuất, nhập khẩu.Có những đối tượng nộp thuế chỉ kê khai và nộp một loại thuế, song cũng có những đối tượng, trong một thời gian phải nộp nhiều loại thuế khác nhau (thuế Giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhập khẩu), điều đó hoàn toàn tuỳ thuộc vào tính chất hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. - Cơ sở thuế: Là đối tượng tác động của một chính sách thuế. Tuỳ theo mục đích và tính chất của từng sắc thuế, cơ sở thuế có thể là cac khoản thu nhập nhận được trong một thời gian nhất định của một tổ chức kinh tế hoặc một cá nhân, tổng giá trị tài sản do tổ chức kinh tế hoặc cá nhân đó SV: Dương Thị Phương Nhàn 3 Lớp : TCDN D- K42
- Chuyên đề tốt nghiệp nắm giữ, tổng trị giá một lô hàng hóa hoặc một lượng giá trị nhất định của hàng hóa, dịch vụ.... - Thuế suất: Là yếu tố quan trọng nhất của một sắc thuế. Có thể nói thuế suất là linh hồn của một sắc thuế. Nó phản ánh mức độ điều tiết trên một cơ sở thuế. Do đó, thuế suất thể hiện quan điểm của Nhà nước về yêu cầu động viên nhằm khuyến khích hay không khuyến khích sự phát triển của một ngành nghề, một loại sản phẩm cụ thể nào đó. Thuế suất là mức thu được ấn định trên một cơ sở thuế bằng những phương pháp tính toán thích hợp. • Những vấn đề chính của một chính sách thuế Có thể hiểu chính sách thuế là một hệ thống các biện pháp của từng Nhà nước trong lĩnh vực thuế được tiến hành vì lợi ích của giai cấp thống trị. Nó là bộ phận quan trọng nhất trong chính sách kinh tế của Nhà nước. Chính sách thuế được thể hiện ở việc tổ chức đánh thuế, phương thức thu thuế, thuế suất, ưu đãi về thuế...Thông qua chính sách thuế mà Nhà nước tác động tới quá trình sản xuất xã hội, tới phân phối, tới tiêu dùng của các tầng lớp dân cư và tác động tới các hoạt động khác của xã hội. Tuy nhiên, khi lựa chọn một chính sách thuế đòi hỏi những nhà đặt ra chính sách phải phân tích những ảnh hưởng khác nhau của công cụ thuế, để trên cơ sở đó có thể lựa chọn được một chính sách thuế cao hoặc thấp đều có ảnh hưởng tới giá cả hoặc cơ cấu đầu tư và ảnh hưởng của nó phụ thuộc vào phản ứng của công chúng đối với những thay đổi về thuế. Do vậy khi lựa chọn chính sách thuế cần phân tích các yếu tố cấu thành của Thuế như: đối tượng chịu thuế, người nộp thuế, mức thuế suất, các ưu đãi về thuế và mối quan hệ giữa các yếu tố đó trong chính sách thuế. Ưu đãi về thuế: Những quy định của Nhà nước cho phép những người chịu thuế được hưởng thuế suất có lợi hơn những người chịu thuế khác trong cùng điều kiện, gọi là ưu đãi về thuế. Ưu đãi về thuế được coi như là một phần trong chính sách khuyến khích phát triển của Nhà nước trong từng thời kỳ nhất định. Cùng với các chính sách khuyến khích khác của Nhà nước đối với phát triển kinh tế xã hội nói chung, chính sách ưu đãi về thuế có tác động tích cực tới hoạt động đầu tư để phát triển sản xuất, kích thích tiêu dùng, đảm bảo công bằng xã hội, và thực hiện các mục tiêu khác của Nhà nước. Nhà nước khuyến khích về thuế thường được ban hành dưới những hình thức như: giảm thuế suất, miễn thuế cho một số thu nhập nhất định nào đó và những khấu trừ đặc biệt từ thu nhập chịu thuế. Trong từng giai đoạn nhất định, các quốc gia khác nhau đều có thái độ khác nhau với khuyến khích về thuế. Với các nước đang phát triển thường đặt ra những khuyến khích với mục đích thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, bằng việc áp dụng thuế suất thấp đối với các hoạt động của các tổ chức có vốn đầu tư nước ngoài so với các tổ chức trong nước. Còn các quốc gia đã phát triển thường không có những khuyến khích cho đầu tư nước ngoài vào nước họ, SV: Dương Thị Phương Nhàn 4 Lớp : TCDN D- K42
- Chuyên đề tốt nghiệp nhưng họ lại áp dụng những khuyến khích đầu tư trong nước bằng việc áp dụng mức thuế suất thấp đối với một số ngành, một số lĩnh vực mà Nhà nước cần khuyến khích phát triển để thu hút đầu tư về ngành đó.Ví dụ miễn trừ thuế cho hoạt động nghiên cứu khoa học và áp dụng công nghệ mới, mĩên trừ thuế trong nông nghiệp. Tóm lại, ở các quốc gia khác nhau, Nhà nước sử dụng các hình thức ưu đãi khác nhau tuỳ theo lĩnh vực ưu tiên và đòi hỏi thực tế của nứôc đó trong từng thời kỳ nhất định. Bên cạnh những ưu điểm, việc sử dụng ưu đãi về thuế cũng có những hạn chế nhất định như nó làm cho hệ thống thuế thêm phần phức tạp, thu hẹp diện chịu thuế, và giảm thuế, gây khó khăn cho công tác quản lý thuế và trên một giác độ nhất định còn hạn chế sự cạnh tranh và phát triển sản xuất của các doanh nghiệp. Nên việc áp dụng các ưu đãi về thuế phải rất linh hoạt, khi mục đích chính sách đã đạt được thì Nhà nước phải chấm dứt ngay việc sử dụng các ưu đãi về thuế. Với các nước đang phát triển, cần phải xây dựng hệ thống ưu đãi về thuế phù hợp để vừa thu hút được vốn đầu tư nước ngoài mà vẫn khuyến khích được đầu tư trong nước. 1.2. THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP 1.2.1. Khái niệm và đặc điểm Thuế thu nhập công ty trên thế giới hay thuế TNDN ở Việt Nam là một sắc thuế thuộc loại thuế thu nhập, nó được hầu hết các quốc gia trên thế giới sử dụng vì tính hiệu quả và khả năng bao quát nguồn thu. Mỗi nước với những đặc điểm kinh tế- chính trị - xã hội khác nhau mà quan niệm và cách thức áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp là khác nhau. Tuy nhiên, có thể đưa ra một khái niệm được pháp luật Việt Nam và nhiều nước khác thừa nhận : Thuế thu nhập doanh nghiệp là loại thuế trực thu đánh vào phần thu nhập sau khi đã trừ đi các chi phí liên quan đến thu nhập đó. Ngoài những đặc điểm chung của thuế là có tính cưỡng chế và tính pháp lý cao, là khoản đóng góp không mang tính hoàn trả trực tiếp. Thuế thu nhập doanh nghiệp còn có một số đặc điểm riêng cụ thể là: - Thuế TNDN là loại thuế trực thu : Vì đối tượng nộp thuế và đối tượng chịu thuế TNDN là một, tức là không có sự chuyển giao gánh nặng thuế từ người nộp thuế sang người chịu thuế. - Là loại thuế đánh vào lợi nhuận của các cơ sở sản xuất kinh doanh: Bởi vậy, mức động viên của NSNN đối với loại thuế này phụ thuộc rất lớn vào hiệu quả kinh doanh cũng như quy mô lợi nhuận của doanh nghiệp, Doanh nghiệp có thu nhập chịu thuế cao sẽ phải nộp thuế nhiều, ngược lại những doanh nghiệp có thu nhập thấp hoặc gặp khó khăn sẽ phải nộp thuế ít thậm chí được giảm thuế, miễn thuế. - Chỉ đánh vào phần thu nhập còn lại sau khi đã trừ đi chi phí liên quan để tạo ra thu nhập đó. SV: Dương Thị Phương Nhàn 5 Lớp : TCDN D- K42
- Chuyên đề tốt nghiệp - Về nguyên tắc, thuế có tính chất luỹ tiến. Tuy nhiên, do những điều kiện cụ thể mà một số nước trong đó có Việt Nam áp dụng thuế suất thống nhất. 1.2.2. Vai trò của thuế Thu nhập doanh nghiệp Bản chất của thuế TNDN là thuế đánh vào lợi nhuận của doanh nghiệp. Điều này gây ra nhiều tranh luận của các nhà kinh doanh trên thế giới về sự tồn tại của sắc thuế này. Cùng một khoản thu nhập từ vốn nhưng khoản thu nhập có được từ vốn góp vào các công ty cổ phần sẽ phải chịu điều tiết bởi hai khoản thuế là thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân. Trong khi đó cũng khoản thuế này nếu đầu tư vào khu vực phi doanh nghiệp thì thu nhập từ vốn chỉ phải chịu thuế thu nhập cá nhân. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường ở nhiều nước đặc biệt là các nước đang phát triển như nước ta thì sự tồn tại của thuế thu nhập doanh nghiệp là tất yếu khách quan bởi những vai trò sau đây của nó: Thứ nhất: Thuế thu nhập doanh nghiệp là nguồn thu quan trọng của NSNN. Điều này được thể hiện bởi phạm vi áp dụng thuế TNDN là rất rộng. Nó khai thác nguồn thu từ các đối tượng nộp thuế có tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đem lại thu nhập ở mọi lĩnh vực, trên mọi địa bàn. Mặt khác, cùng với xu hướng tăng trưởng kinh tế, quy mô của các hoạt động kinh doanh này ngày càng được mở rộng, hiệu quả kinh doanh ngày càng cao, tích luỹ từ nội bộ doanh nghiệp ngày càng nhiều sẽ tạo nguồn thu về thuế thu nhập doanh nghiệp cho ngân sách quốc gia ngày càng lớn. Thứ hai : Thuế TNDN là công cụ quan trọng của Nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế thông qua hệ thống thuế suất ưu đãi và các chế độ miễn, giảm góp phần định hướng cho các nhà đầu tư trong nhiều ngành, lĩnh vực mà Nhà nước cần khuyến khích đầu tư nhằm đảm bảo cơ cấu kinh tế hợp lý theo ngành và theo địa bàn. Thuế thu nhập doanh nghiệp còn góp phần thúc đẩy SXKD phát triển thông qua các hình thức hỗ trợ về thuế đối với các cơ sở mới thành lập hoặc các cơ sở gặp khó khăn trong kinh doanh. 1.2.3. Nội dung cơ bản của thuế Thu nhập doanh nghiệp. 1.2.3.1. Xác định thu nhập chịu thuế của công ty Hiện nay, ở hầu hết các quốc gia việc xác định thu nhập chịu thuế của công ty dựa theo hai tiêu thức: thường trú và xuất xứ. • Đánh thuế dựa trên cơ sở thường trú: Đa số các nước dùng hình thức đánh thuế dựa trên cơ sở thường trú, đặc trưng của hình thức này là : đối tượng nộp thuế được chia thành đối tượng thường trú và đối tượng không thường trú. + Đối tượng thường trú ở một nước bị đánh thuế trên mọi nguồn thu nhập bao gồm thu nhâp phát sinh tại nước đó và thu nhập ở nước ngoài. + Đối tượng không thường trú ở một nước chỉ bị đánh thuế trên thu nhập phát sinh tại nước đó. SV: Dương Thị Phương Nhàn 6 Lớp : TCDN D- K42
- Chuyên đề tốt nghiệp Ví dụ: công ty A không thường trú ở nước B thì phải chịu thuế thu nhập của nước B trên số thu nhập phát sinh tại nước B. Vì đối tượng thường trú bị đánh thuế khác đối tượng không thường trú, nên phân biệt rõ một công ty là thường trú hay không thường trú ở một quốc gia nào đó là rất quan trọng. Khái niệm công ty thường trú ở các nước khác nhau có sự khác nhau. ở Mĩ, Nhật, Thái Lan, Indonesia,...cho rằng công ty thường trú là công ty được thành lập và hợp nhất ở nước họ. Ở Malaysia, Singapo,....công ty thường trú là công ty mà việc quản lý và điều hành trung ương(đầu não) được thực hiện ở các nước này. Ở Anh, Đức, Úc, ... họ định nghĩa công ty thường trú là công ty được hợp nhất hoặc là được quản lý và điều hành ở nước của họ. Việc xác định một công ty được thành lập và hợp nhất ở đâu là tương đối đơn giản. Song việc nhận biết ra nơi công ty đặt sự quản lý và điều hành chính là khó khăn hơn nhất là đối với công ty có phạm vi hoạt động ở nhiều nước. Trong trường hợp này các chuyên gia thuế thường tập trung vào nơi mà các quyết định được đặt ra và cũng thường là nơi hội họp của ban giám đốc. Xu hướng hiện nay người ta thiên về định nghĩa theo cách kết hợp cả hai tiêu thức : sự hợp nhất và quản lý điều hành trung ương của công ty. • Đánh thuế dựa trên xuất xứ của nguồn thu nhập Theo cách đánh thuế dựa trên nguồn phát sinh thu nhập thì chỉ những thu nhập của công ty phát sinh trên lãnh thổ do công ty kinh doanh mới chịu sự đánh thuế thu nhập. Trong bối cảnh hiện nay, với sự mở rộng các công ty đa quốc gia (công ty đăng ký tại một nước nhưng hoạt động rộng rãi ở nhiều nước) việc đánh thuế thu nhập công ty dựa trên nền móng xuất xứ không còn phù hợp, nó làm thu hẹp khả năng điều chỉnh của luật thuế thu nhập công ty. Do vậy hình thức này chỉ được áp dụng tại các nước thuộc địa, hoặc các nước thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài còn bản thân nước đó ít đầu tư ra nước ngoài khác như Hồng Kông, Macao, Bruney... Thu nhập chịu thuế thông thường theo luật các nước trên thế giới chia ra làm hai loại thuế thu nhập là thu nhập từ kinh doanh và thu nhập từ đầu tư. Thu nhập từ kinh doanh được xác định là khoản thu nhập tính được sau khi đã trừ đi mọi chi phí. Còn thu nhập từ đầu tư là tiền lãi cho vay, lợi tức cổ phần,...Trên cơ sở phân loại đó mà người ta phân biệt thuế suất riêng đối với thu nhập chịu thuế từ kinh doanh và thu nhập chịu thuế từ hoạt động đầu tư. Ngoài ra, nhiều nước còn đánh thuế trên hoa lợi từ chuyển nhượng tài sản và các thu nhập khác. ▪ Đối với thu nhập từ kinh doanh Thu nhập từ kinh doanh hay lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh được xác định bằng doanh thu từ hoạt động kinh doanh trừ đi chi phí được trừ khi tính thuế TNCT. SV: Dương Thị Phương Nhàn 7 Lớp : TCDN D- K42
- Chuyên đề tốt nghiệp +Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế là toàn bộ khoản thu về bán hàng và dịch vụ, các khoản lãi ròng thu được từ những tài sản mà công ty nắm giữ và các khoản thu nhập khác. + Chi phí được khấu trừ trong thu nhập chịu thuế, mỗi yếu tố khấu trừ đều có hiệu quả trực tiếp tới thu nhập chịu thuế. Thực chất thuế thu nhập công ty là đánh vào lợi nhuận của công ty. Tâm lý chung các công ty muốn giảm thu nhập chịu thuế bằng cách khai tăng chi phí. Do đó tất cả các quốc gia khi xây dựng chính sách thuế TNCT đều quan tâm đến các khoản chi phí được khấu trừ. Vì vậy, điều quan trọng đặt ra là cần phải có ngay quy định rõ ràng trong luật thuế những chi phí nào được khấu trừ hoặc không được khấu trừ khi kê khai thuế. Có bốn nguyên tắc đề ra khi xác định các khoản chi phí được khấu trừ trong thuế TNCT: Một là, các khoản chi phí được khấu trừ phải là những khoản chi phí có quan hệ tới doanh nghiệp hay nói cách khác các chi phí phải liên quan trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và việc tạo ra thu nhập của công ty. Hai là, các chi phí được khấu trừ phải là những chi phí thực sự đươc chi ra trong điều kiện thời gian và không gia nhất định. Ba là, các khoản chi phí được miễn trừ phải là những khoản chi phí có tính thu nhập hơn là tính vốn. Các khoản chi phí có tính vốn là những khoản chi phí có liên quan đến cơ cấu vốn. Bốn là, mức trả cho chi phí phải dựa trên cơ sở định mức hợp lý bao gồm toàn bộ các khoản chi phí về lao động, chi phí về vật tư, khấu hao TSCĐ, trả lãi vay, thuế và các chi phí hợp lý khác. Mặc dầu, có những nguyên tắc chung để xác định các khoản chi phí được khấu trừ, song trong thực tế có những khoản chi phí không nằm trong các nguyên tắc trên, nhưng với xu hướng phát triển cần phải xem xét khi đánh thuế TNCT. Nhiều khoản chi phí có được khấu trừ khỏi thu nhập chịu thuế hay không vẫn còn là những vấn đề tranh luận ở nhiều quốc gia. Chẳng hạn, tiền lương của công nhân được khấu trừ khỏi thu nhập chịu thuế, nhưng tiền lương của chủ sở hữu, chi phí cơ hội của dịch vụ do chủ cung cấp có được khấu trừ vào thu nhập chịu thuế hay không? Các cổ đông là những người cung cấp vốn cho công ty, vậy lợi tức cổ phần hay chi phí cơ hội của những khoản vốn đó có được khấu trừ khỏi thu nhập chịu thuế hay không? Khi đó, lãi thu được của các trái chủ lại được khấu trừ khỏi thu nhập chịu thuế. Các trường hợp thường được đưa ra bàn luận xung quanh việc nên cho khấu trừ hay không cho khấu trừ khi tính vào thu nhập chịu thuế: - Chi phí dự phòng: là khoản chi dự trù để sẵn ra nhằm phải trả trong tương lai. Hầu hết các quốc gia đều cho phép khấu trừ chi phí này trước khi tính thuế TNCT, vì những chi phí này là hết sức cần thiết trong quá trình kinh doanh của công ty. Để thoả mãn nguyên tắc chi phí được khấu trừ phải là SV: Dương Thị Phương Nhàn 8 Lớp : TCDN D- K42
- Chuyên đề tốt nghiệp chi phí thật sự được chi ra, thì chi phí dự phòng chỉ được khẩu trừ khi thoả mãn điều kiện là khoản chi này phải đặc biệt rõ ràng, dự đoán chi phí phải trả một cách chính xác và nó được tiên đoán là nhất định sẽ xẩy ra trong tương lai vì trong quá khứ đã từng có. - Nợ khó đòi: khi một công ty cho khách hàng mua chịu, thường có một số ít khách hàng không trả nợ. Các khoản tiền của khách hàng này được coi là nợ khó đòi và được coi là khoản chi phí của phương thức bán chịu. Lý do có khoản nợ khó đòi này về phía người bán nhằm mục đích tăng doanh số và lợi nhuận. Do đó mất mát vì nợ khó đòi là một khoản chi phí của bên bán chịu, một loại chi phí phát sinh nhằm mục đích làm tăng doanh thu. Tuy nhiên, chỉ cho phép khấu trừ các khoản nợ khó đòi nếu nó thực sự đã xẩy ra trong trường hợp con nợ bị phá sản và giấy tờ chứng minh cụ thể. - Chi phí trả lãi tiền vay: Đối với khoản chi phí này hiện nay có hai quan điểm. Có quan điểm cho rằng chi phí trả lãi tiền vay là chi phí mang tính thu nhập nên được phép khấu trừ. Có quan điểm cho rằng chi phí trả lãi tiền vay, đặc biệt là đối với khoản vay dài hạn thì chi phí có tính chất vốn nên không được phép khấu trừ trước khi tính thuế thu nhập công ty. - Lỗ : Công ty phải nộp thuế thu nhập khi có lợi nhuận, vậy khi có lỗ thì phải xem xét họ có được trừ lỗ hay không. Nói chung, quan điểm trừ lỗ đều được áp dụng ở các nước, lý do mà mọi người thừa nhận là trong kinh doanh phải có rủi ro vì vậy rủi ro phải được trừ. Trừ lỗ có nhiều cách: cho trừ có giới hạn năm hoặc không có giới hạn; cho trừ vào những năm trước có khống chế thời gian hoặc cho trừ vào những năm sau ... tuỳ vào trình độ quản lý và đánh giá các khoản lỗ mà các nước đã áp dụng. - Khấu hao TSCĐ, một yếu tố của chi phí, nhưng được phân bổ như thế nào trong từng năm khi tính thu nhập chịu thuế. Về nguyên tắc, tỷ lệ khấu hao TSCĐ nhằm mục đích tích luỹ và tính thuế tương ứng với vòng đời kinh tế hữu dụng của tài sản, nhưng thực tế ở nhiều quốc gia, khấu hao đưa vào chi phí để tính thuế thường không tương ứng với vòng đời hữu dụng của tài sản. Các khoản thuế phải trả, thông thường người ta chia làm hai loại: + Đối với thuế TNCT thì không được coi là chi phí khấu trừ vì nó không phải là khoản chi phí cho mục đích tìm kiếm lợi nhuận. + Đối với các khoản thuế gián thu về nguyên tắc phải khấu trừ khỏi thu nhập chịu thuế, nhưng thể hiện việc khấu trừ đó như thế nào lại tùy thuộc vào chính sách thuế và chế độ kế toán mỗi quốc gia. Chẳng hạn thuế giá trị gia tăng (VAT), nếu quan niệm VAT đầu vào là tiền thuế công ty phải trả khi mua hang, VAT đầu ra là tiền thuế công ty thu được khi bán hàng, thì VAT phải nộp ngân sách Nhà nước là một yếu tố chi phí khấu trừ khỏi thu nhập chịu thuế. Nhưng quan niệm VAT là khoản thuế tính trên hàng hóa, người tiêu dùng phải chịu khoản thuế này thì VAT đầu vào không phải là chi phí thật, VAT đầu ra sẽ là khoản thu hộ của công ty và VAT phải nộp không đưa vào chi phí khi tính thu nhập chịu thuế. SV: Dương Thị Phương Nhàn 9 Lớp : TCDN D- K42
- Chuyên đề tốt nghiệp + Một số khoản chi phí khác như chi phí quảng cáo, chi phí hội nghị, tiếp tân, tiếp khách ... định mức bao nhiêu là hợp lý chỉ mang tính chất ước lệ. Đối với thu nhập từ đầu tư - Thu nhập từ lãi cổ phần: Lãi cổ phần được chia lợi nhuận do đầu tư mua cổ phiếu của một công ty, nghĩa là lãi cổ phiếu đã bị đánh thuế một lần rồi. Vì vậy, để hạn chế việc đánh thuế trùng người ta đưa ra nhiều phương án đánh thuế: + Phương án đơn giản nhất là không đánh thuế thu nhập đối với loại thu nhập này. Trừ Hồng Kông, hầu hết các nước không áp dụng phương án này. + Phương án miễn thuế từng phần trên thu nhập dưới hình thức lợi tức cổ phần. Theo phương án này lợi tức cổ phần được chia ra hai phần, một phần chịu thuế và một phần được miễn thuế.Ví dụ, ở Đài Loan 80% lãi cổ phần nhận từ công ty khác được miễn thuế và 20% còn lại phải chịu thuế. + Tiền lãi cho vay và tiền bản quyền: ở hầu hết các nước, tiền lãi cho vay và tiền bản quyền phải chịu thuế theo thuế suất thông thường như thu nhập từ kinh doanh. Tuy nhiên, trong một số trường hợp lãi cho vay vẫn được miễn thuế nhằm khuyến khích như tiền lãi từ công trái Chính phủ hay trên một số khoản đúng quỹ tiết kiệm được Nhà nước công nhận để khuyến khích việc đầu tư vào các quỹ hay công trái đó, Ví dụ: Malaysia, Trung Quốc...Tiền bản quyền cũng được miễn giảm thuế trong một số trường hợp nhằm khuyến khích công nghệ. + Đối với khoản thu nhập từ nước ngoài: Hầu hết, các nước căn cứ vào nền tảng đánh thuế thu nhập là thướng trú hay xuất xứ để xác định là khoản thu nhập chịu thuế hay không. Ngoài ra, người ta dựa vào điều khoản các hiệp định ký kết song phương hay đa phương để xem xét. 1.2.3.2. Thuế suất Mức thuế suất thuế TNCT được xác định trên cơ sở mức thu nhập của công ty, yêu cầu tạo nguồn thu cho ngân sách và điều tiết thu nhập giữa các công ty. Thông thường ở các quốc gia, người ta sử dụng đồng thời 3 loại thuế suất là thuế suất tỷ lệ cố định, thuế suất luỹ tiến và thuế suất lũy thói trên từng đối tượng chịu thuế khác nhau để tính thuế TNCT. Tuy nhiên, ở một số nước người ta chỉ sử dụng một loại thuế suất tỷ lệ cố định. 1.2.3.3. Các ưu đãi về thuế. Rất nhiều các nước sử dụng công cụ ưu đãi thuế cho các mục đích kinh tế và xã hội khác nhau. Các nước đang phát triển thường giảm thuế đối với đầu tư nước ngoài như Malaysia, Thái Lan, Trung Quốc... Các nước phát triển thì không ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài, nhưng cũng dựng ưu đãi thuế để khuyến khích dân chúng đầu tư vào một số ngành và một số vùng nhất định nào đó hoặc vào sản xuất hàng xuất khẩu hay đầu tư nước ngoài. Cũng có những nước như Mỹ hoàn toàn không sử dụng các ưu đãi về thuế. Các ưu đãi về thuế có nhiều hình thức khác nhau. Nhưng thông thường được thể hiện qua việc giảm thuế suất (Singapo: thuế suất giảm đến 16% đối SV: Dương Thị Phương Nhàn 10 Lớp : TCDN D- K42