Luận văn Mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan an ninh điều tra và viện kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan an ninh điều tra và viện kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_moi_quan_he_phoi_hop_giua_co_quan_an_ninh_dieu_tra.pdf
Nội dung text: Luận văn Mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan an ninh điều tra và viện kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ THỊ HƯỜNG MỐI QUAN HỆ PHỐI HỢP GIỮA CƠ QUAN AN NINH ĐIỀU TRA VÀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG ĐIỀU TRA, XỬ LÝ CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM AN NINH QUỐC GIA Chuyên ngành : Luật Hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học : TS. Phạm Việt Trường HÀ NỘI - NĂM 2011
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ MỐI QUAN 10 HỆ PHỐI HỢP GIỮA CƠ QUAN AN NINH ĐIỀU TRA VÀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG ĐIỀU TRA, XỬ LÝ CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM AN NINH QUỐC GIA 1.1. Khái niệm, tính tất yếu, đặc điểm của mối quan hệ phối 10 hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia 1.1.1. Khái niệm 10 1.1.2. Tính tất yếu của mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An 15 ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia 1.1.3. Đặc điểm của mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An 18 ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia 1.2. Đặc điểm các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia có liên 27 quan đến mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân 1.2.1. Đặc điểm hoạt động phạm tội 27 1.2.2. Đặc điểm đối tượng phạm tội 30
- Chương 2: THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ PHỐI HỢP 32 GIỮA CƠ QUAN AN NINH ĐIỀU TRA VÀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG ĐIỀU TRA, XỬ LÝ CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM AN NINH QUỐC GIA TỪ NĂM 2004 ĐẾN NAY 2.1. Tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan An 32 ninh điều tra trong Công an nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân 2.1.1. Tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan An 32 ninh điều tra trong Công an nhân dân 2.1.2. Tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát 36 nhân dân 2.2. Thực trạng mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh 49 điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia 2.2.1. Quan hệ phối hợp trong khởi tố, điều tra, xử lý vụ án 49 xâm phạm an ninh quốc gia 2.2.2. Nhận xét chung 82 Chương 3: DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU 85 QUẢ MỐI QUAN HỆ PHỐI HỢP GIỮA CƠ QUAN AN NINH ĐIỀU TRA VÀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG ĐIỀU TRA, XỬ LÝ CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM AN NINH QUỐC GIA 3.1. Dự báo 85 3.1.1. Dự báo tình hình tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia 85 3.1.2. Yêu cầu nội dung cải cách tư pháp trong hoạt động điều 88 tra, thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra có ảnh hưởng đến mối quan hệ phối hợp
- 3.1.3. Dự báo về những thuận lợi, khó khăn trong quá trình 92 thực hiện mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả mối quan hệ phối hợp giữa 96 Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia 3.2.1. Nâng cao nhận thức và trách nhiệm cho các chủ thể (đặc 96 biệt là đội ngũ Điều tra viên và Kiểm sát viên) về mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia 3.2.2. Tăng cường chỉ đạo quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An 107 ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia 3.2.3. Nâng cao hiệu quả quan hệ phối hợp trong tiếp nhận, xử 112 lý tin báo, tố giác tội phạm và thống nhất quan điểm, chủ trương trong khởi tố vụ án, khởi tố bị can 3.2.4. Phân định rõ trách nhiệm giữa Cơ quan An ninh điều tra 116 và Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ 3.2.5. Chủ động thực hiện quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An 117 ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình lựa chọn hình thức xử lý vụ án xâm phạm an ninh quốc gia 3.2.6. Hoàn thiện các quy định của pháp luật có liên quan đến 120 mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia KẾT LUẬN 126 TÀI LIỆU THAM KHẢO 129 PHỤ LỤC
- MỞ ĐẦU 1. Lý do nghiên cứu đề tài Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân là những cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Quan hệ giữa hai cơ quan này trong khởi tố, điều tra, xử lý các vụ án hình sự nói chung và các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia nói riêng được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự, Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự và ngày càng được củng cố, hoàn thiện trong quá trình xây dựng pháp luật tố tụng hình sự nước ta. Cơ quan An ninh điều tra là một bộ phận cấu thành trong hệ thống tổ chức của lực lượng Công an nhân dân. Cơ quan An ninh điều tra có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn quy định trong Luật Công an nhân dân số 54/2005/QH11 được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Mặt khác, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003; Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004 và theo mục 1.2 của Thông tư số 12/2004/TT-BCA (V19) do Bộ trưởng Bộ Công an ban hành ngày 23/9/2004 hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004 trong Công an nhân dân thì Cơ quan An ninh điều tra là một trong những cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền điều tra các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia, các vụ án phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh, các tội phạm được quy định tại các Điều 180, 181, 221, 222, 223, 230, 231, 232, 236, 263, 264, 274 và Điều 275 của Bộ luật Hình sự số 15/1999/QH10 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 21/12/1999 (được sửa đổi, bổ sung trong Luật số 37/2009/QH12 - Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự được Quốc hội thông qua ngày 19/6/2009 - sau đây gọi tắt là Bộ luật Hình sự). Để thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của mình, Cơ quan An 1
- ninh điều tra thường xuyên phải phối hợp với nhiều cơ quan, ban ngành, trong đó mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra với Viện kiểm sát nhân dân là mối quan hệ mang tính đặc trưng và xuyên suốt quá trình điều tra các vụ án thuộc thẩm quyền thụ lý, điều tra. Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động điều tra theo quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10 - sau đây gọi tắt là Hiến pháp năm 1992); Luật số 34/2002/QH10 ngày 02/4/2002 về Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân; Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo đó, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, Viện kiểm sát nhân dân cũng luôn luôn đòi hỏi phải thực hiện tốt mối quan hệ phối hợp với Cơ quan An ninh điều tra. Khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự là những giai đoạn khác nhau của quá trình tố tụng hình sự nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó giai đoạn trước là cơ sở, tiền đề, điều kiện cho việc tiến hành các công việc của giai đoạn tiếp theo. Do đó, quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân là quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, đó là quan hệ phối hợp trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Theo những nguyên tắc đó, Luật Tố tụng hình sự Việt Nam quy định có sự tác động, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của từng lực lượng. Nội dung quan hệ phối hợp trong việc giải quyết vụ án hình sự được quy định trong các văn bản pháp luật của Nhà nước và Quy chế nghiệp vụ của từng ngành (ngành Kiểm sát có Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-VKSTC ngày 02/01/2008 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao) [41]. 2
- Thực tiễn cho thấy, từ khi được thành lập cho đến nay, Cơ quan An ninh điều tra các cấp đã có quan hệ khá tốt với Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, qua đó thu được nhiều kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, góp phần quan trọng vào quá trình khởi tố, điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia, đảm bảo đúng pháp luật thì vẫn còn một số tồn tại cần khắc phục nhằm góp phần nâng cao hiệu quả quan hệ phối hợp giữa hai cơ quan này, nhất là trong chỉ đạo thực hiện quan hệ, trong việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, trong khởi tố vụ án, khởi tố bị can; trong áp dụng, thay thế, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn; trong việc điều tra, thu thập chứng cứ của vụ án (khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản, hỏi cung bị can và một số hoạt động thu thập chứng cứ khác ); trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung, phục hồi điều tra; trong xây dựng, hoàn thiện hồ sơ vụ án, đề nghị xử lý vụ án và các bị can trong vụ án Xét về mặt lý luận, vấn đề quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra với các cơ quan khác có liên quan trong quá trình điều tra, xử lý vụ án xâm phạm an ninh quốc gia, nhất là quan hệ giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân đã được xây dựng gắn với đặc thù công tác của từng ngành, song vẫn có một số vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, không ngừng hoàn thiện theo hướng đi sâu vào các quan hệ cụ thể. Hiện nay, vấn đề quan hệ phối hợp giữa các lực lượng trong quá trình điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia mới chỉ được tiếp cận nghiên cứu mang tính liệt kê những mối quan hệ phối hợp mà chưa đi vào nghiên cứu một cách chuyên sâu về nội dung từng mối quan hệ phối hợp, đặc biệt là mối quan hệ giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân. Ngoài ra, nghiên cứu những quy định của pháp luật liên quan đến mối quan hệ trong điều tra nói chung và mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân nói riêng cho thấy vẫn còn những bất 3
- cập, khó khăn cho việc thực hiện mối quan hệ phối hợp giữa hai cơ quan này trong quá trình giải quyết vụ án xâm phạm an ninh quốc gia. Vì vậy, nghiên cứu, xây dựng và không ngừng hoàn thiện cơ chế, nội dung mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia là đòi hỏi mang tính khách quan. Vì những lý do nói trên, việc nghiên cứu đề tài: "Mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia" với tư cách một luận văn Thạc sĩ luật học là một đòi hỏi cần thiết, cấp bách, có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nghiên cứu về mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra với Cơ quan Công tố, Viện kiểm sát nói chung và mối quan hệ giữa Cơ quan An ninh điều tra với Viện kiểm sát nhân dân nói riêng được hầu hết các quốc gia trên thế giới đặt ra và tiến hành nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm ở mỗi nước. Tuy nhiên, đối với Việt Nam, những công trình nghiên cứu về vấn đề này của các nước khác chỉ mang tính chất tham khảo do hệ thống pháp luật và cách thức áp dụng pháp luật của các nước đó khác với nước ta. Ở nước ta, quan hệ giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia đã được nhiều tác giả ở cả hai ngành Công an và Viện kiểm sát quan tâm nghiên cứu. Trong đó, các đề tài có nội dung liên quan nhất bao gồm: - Sách chuyên khảo “Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra với các cơ quan tham gia tố tụng hình sự” của PGS, TS Đỗ Ngọc Quang, do Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 2004. 4
- - Luận văn Thạc sĩ “Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Tiến Sơn, hoàn thành năm 2006 tại Học viện Cảnh sát nhân dân. - Luận án Tiến sĩ “Mối quan hệ giữa Cơ quan cảnh sát điều tra với Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự” của nghiên cứu sinh Đào Hữu Dân, hoàn thành năm 2006 tại Học viện Cảnh sát nhân dân. Nghiên cứu nội dung các công trình trên cho thấy, các công trình này hoặc là đề cập sâu về phương diện pháp luật; hoặc là đề cập đến quan hệ giữa Cơ quan cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự (mà không phải là Cơ quan An ninh điều tra); hoặc mới dừng lại ở phạm vi và mức độ nghiên cứu nhất định, mà không đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện, sâu sắc về mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia. Vì vậy, đề tài "Mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia" không trùng lặp với bất kỳ đề tài khoa học, luận văn, luận án nào. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục tiêu - Luận văn làm rõ những vấn đề về lý luận, thực tiễn và cơ sở pháp lý của mối quan hệ giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia. - Đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia trong thời gian tới. - Góp phần hoàn thiện lý luận về mối quan hệ phối hợp trong điều tra nói chung và mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện 5
- kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia nói riêng. 3.2. Nhiệm vụ Từ mục đích được xác định như trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau đây: - Xây dựng khái niệm, đặc điểm của mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia. - Phân tích, chỉ rõ cơ sở pháp lý của mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia. - Làm rõ đặc điểm các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia có ảnh hưởng đến mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia. - Phân tích, đánh giá thực trạng mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia từ năm 2004 đến nay; chỉ rõ những bài học kinh nghiệm cũng như những tồn tại, thiếu sót của vấn đề này. - Đưa ra các dự báo, đề xuất và các giải pháp nâng cao hiệu quả mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài nghiên cứu những vấn đề về lý luận và thực tiễn của mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra với Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia do Cơ quan An ninh điều tra thụ lý. 6
- 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về nội dung: Mối quan hệ (phối hợp và chế ước) giữa Cơ quan An ninh điều tra các cấp trong Công an nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp trong quá trình điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia theo tiến trình cải cách tư pháp. - Phạm vi về loại án: Các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia do Cơ quan An ninh điều tra các cấp thụ lý điều tra theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004. - Phạm vi về địa bàn: Nghiên cứu ở Trung ương và một số tỉnh, thành phố trọng điểm trực thuộc Trung ương (như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng). - Phạm vi về thời gian: Từ năm 2004 (khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004 có hiệu lực thi hành) đến nay. 5. Phương pháp tiếp cận vấn đề nghiên cứu 5.1. Phương pháp tiếp cận Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp tiếp cận sau: - Tiếp cận hệ thống, liên ngành; - Tiếp cận lịch sử và lôgic; - Tiếp cận định tính, định lượng; - Tiếp cận cá biệt và so sánh; - Tiếp cận thực tiễn Việt Nam và nước ngoài. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Đề tài nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong quá trình nghiên cứu, các quan điểm của Đảng, Nhà nước, các quy định của ngành Công an, Kiểm sát được sử dụng với ý nghĩa là những căn cứ lý luận và thực tiễn để giải quyết vấn đề. 7
- Các phương pháp cụ thể được sử dụng để nghiên cứu đề tài bao gồm: Phân tích, tổng hợp; thống kê; so sánh; tổng kết kinh nghiệm; chuyên gia; tọa đàm, điều tra xã hội học 6. Đóng góp mới của luận văn Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống và tương đối toàn diện về mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia. Giá trị về lý luận và thực tiễn của luận văn được thể hiện thông qua những đóng góp mới của luận văn, bao gồm: - Luận văn xây dựng khái niệm, chỉ rõ các đặc điểm của mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia. - Luận văn phân tích, luận giải cơ sở pháp lý của mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia. - Luận văn phân tích, làm rõ đặc điểm các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia có ảnh hưởng đến mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia. - Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia. - Luận văn hình thành các chỉ dẫn khoa học về mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia; đưa ra những dự báo và đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả mối quan hệ phối hợp này trong thời gian tới. 8
- Ngoài ý nghĩa góp phần nâng cao hiệu quả mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia, luận văn còn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong các cơ sở đào tạo về luật học. 7. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung lý luận về quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia. Những đề xuất, kiến nghị có tính định hướng của đề tài có thể được vận dụng trong thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra với Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia trong thời gian tới. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các giáo viên, học viên, sinh viên các trường thuộc khối Công an nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và những nhà nghiên cứu của cả hai ngành này. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận văn được cấu trúc thành 03 chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia. Chương 2: Thực trạng mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia từ năm 2004 đến nay. Chương 3: Dự báo và giải pháp nâng cao hiệu quả mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia. 9
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ MỐI QUAN HỆ PHỐI HỢP GIỮA CƠ QUAN AN NINH ĐIỀU TRA VÀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG ĐIỀU TRA, XỬ LÝ CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM AN NINH QUỐC GIA 1.1. Khái niệm, tính tất yếu, đặc điểm của mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia 1.1.1. Khái niệm Theo “Từ điển tiếng Việt” của Viện Ngôn ngữ học - Nhà xuất bản Đà Nẵng năm 2002 do tác giả Hoàng Phê chủ biên thì: “Quan hệ là sự gắn liền về mặt nào đó giữa hai hay nhiều sự vật khác nhau, khiến sự vật này có biến đổi, thì có thể tác động đến sự vật kia” [26, tr.799]. “Phối hợp là cùng hành động hoặc hoạt động hỗ trợ lẫn nhau” [26, tr.786]. Theo “Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam” trên trang website ngày 21/6/2010 thì: “Quan hệ là phạm trù triết học nói lên sự phụ thuộc lẫn nhau của các yếu tố trong một hệ thống nhất định, một trong những hình thức của sự thống nhất của các đối tượng, các thuộc tính của chúng. Quan hệ mang tính chất khách quan và phổ biến. Phạm trù quan hệ liên hệ chặt chẽ với khái niệm quy luật, thể hiện mối liên hệ bản chất của các sự vật, quy luật phát sinh và phát triển của chúng thông qua quan hệ của chúng với các sự vật khác. Khi vạch ra mối quan hệ giữa hai hoặc nhiều đối tượng, nhận thức khoa học dựa vào đặc tính khách quan của các đối tượng đó và vào thông số khách quan của đặc tính từng đối tượng. Nghiên cứu và phân loại những 10
- vấn đề quan hệ là đối tượng của logic quan hệ - một bộ phận của logic hình thức hiện đại”. Cơ quan tiến hành tố tụng là các cơ quan nhà nước được giao nhiệm vụ tiến hành những hoạt động trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự. Theo quy định tại khoản 1 Điều 33 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì các cơ quan tiến hành tố tụng gồm có: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Khi tiến hành những hoạt động tố tụng cụ thể, cơ quan tiến hành tố tụng phải thông qua những con người cụ thể. Những người đó gọi là những người tiến hành tố tụng. Với từng cơ quan tiến hành tố tụng thì có người tiến hành tố tụng tương ứng. Mỗi cơ quan này đều có những nhiệm vụ và quyền hạn nhất định trong tố tụng hình sự. Các cơ quan đó có quyền đồng thời có nghĩa vụ: “Áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và những chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo” [31, tr.12]. Ngoài ra: “Trong quá trình tiến hành tố tụng, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án có nhiệm vụ tìm ra những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa” [31, tr.20]. Như vậy, pháp luật quy định Cơ quan điều tra là một trong số các cơ quan tiến hành tố tụng, có chức năng điều tra trong tố tụng hình sự. Trong phạm vi chức năng của mình, Cơ quan điều tra có nhiệm vụ tiến hành: “Điều tra tất cả các tội phạm, áp dụng mọi biện pháp do Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, lập hồ sơ đề nghị truy tố, tìm ra nguyên nhân - điều kiện phạm tội và yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục, ngăn ngừa” [39, tr.2]. 11
- Thời hạn điều tra được pháp luật quy định tương đối dài, tạo điều kiện cho Cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động điều tra, thu thập đầy đủ các chứng cứ của vụ án, làm cơ sở cho hoạt động truy tố và xét xử sau này. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004 thì Cơ quan điều tra được tổ chức trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trong Công an nhân dân, Cơ quan điều tra bao gồm: Cơ quan Cảnh sát điều tra, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Cơ quan An ninh điều tra Công an các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Cơ quan Cảnh sát điều tra các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Viện kiểm sát nhân dân cũng là một trong số các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Điều 1 và Điều 2 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định: “Viện Kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật” [30, tr.1]. Trong phạm vi chức năng của mình, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể và các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân” [30, tr.1]. Bên cạnh đó, Viện kiểm sát còn có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan hữu quan trong việc phòng ngừa tội phạm và giáo dục pháp luật. Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân có vị trí, vai trò đặc biệt trong tố tụng hình sự, không chỉ thực hiện chức năng công tố nhà nước, truy tố, thực hiện việc buộc tội người phạm tội tại Tòa án, mà còn được giao thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội .; phát hiện kịp thời vi phạm 12
- pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng các biện pháp luật định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của các cơ quan và cá nhân này. Viện kiểm sát nhân dân có vai trò và thẩm quyền rất lớn trong hoạt động điều tra; phê chuẩn các quyết định bắt, tạm giữ, tạm giam trong giai đoạn điều tra và chịu trách nhiệm về các trường hợp oan, sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân. Do Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân đều là những cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, nên quan hệ giữa hai cơ quan là quan hệ pháp luật. Cũng theo “Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam” trên trang website ngày 21/6/2010 thì: “Quan hệ pháp luật” là quan hệ xã hội có ý nghĩa pháp lý và được các quy phạm pháp luật điều chỉnh. Những người tham gia các quan hệ xã hội đó là những người mang quyền và nghĩa vụ chủ thể. Các yếu tố cấu thành quan hệ pháp luật gồm chủ thể, nội dung và khách thể. Quan hệ pháp luật nảy sinh khi phát sinh các sự kiện pháp lý đã được luật định (hợp đồng, vi phạm pháp luật, văn bản hành chính ). Từ những phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm: Quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý vụ án xâm phạm an ninh quốc gia là quan hệ xã hội có ý nghĩa pháp lý nảy sinh khi xảy ra vụ án xâm phạm an ninh quốc gia thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan An ninh điều tra, được các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự điều chỉnh; những người tham gia quan hệ này bao gồm Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan An ninh điều tra và Điều tra viên (thuộc Cơ quan An ninh điều tra); Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Kiểm sát viên (thuộc Viện kiểm sát nhân dân) mang quyền và nghĩa vụ theo luật định trong suốt quá trình giải quyết vụ án xâm phạm an ninh quốc gia. 13
- Giải quyết vụ án xâm phạm an ninh quốc gia là một quá trình, trong đó có mối quan hệ giữa các giai đoạn: Khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Nếu xem xét dưới góc độ các chủ thể tiến hành tố tụng hình sự, có thể thấy các mối quan hệ phát sinh giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án khi các cơ quan này thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình trong quá trình giải quyết vụ án xâm phạm an ninh quốc gia. Nếu xem xét dưới góc độ của từng cơ quan tiến hành tố tụng, lại thấy xuất hiện những quan hệ nội tại, bên trong các cơ quan, như trong Cơ quan điều tra có quan hệ giữa Thủ trưởng Cơ quan điều tra với Điều tra viên, giữa các đơn vị (bộ phận) của Cơ quan điều tra trong phối hợp điều tra; giữa Cơ quan điều tra cấp trên với Cơ quan điều tra cấp dưới, giữa Cơ quan điều tra với các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; giữa Cơ quan điều tra với các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác tham gia vào việc giải quyết vụ án hình sự Các quan hệ này được hình thành một cách khách quan và tùy theo vị trí, chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan mà có tính chất, đặc điểm khác nhau. Như vậy, quá trình giải quyết vụ án hình sự đã làm nảy sinh mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, mối quan hệ trong nội bộ các cơ quan tiến hành tố tụng; mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với những người tham gia tố tụng và với các cơ quan, tổ chức có nghĩa vụ tham gia vào việc giải quyết vụ án hình sự. Trong tổng thể các mối quan hệ đó thì mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng là mối quan hệ xuyên suốt và cơ bản nhất, trên cơ sở thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan tiến hành tố tụng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Trong những năm qua, công tác phối hợp trong điều tra xử lý, truy tố, xét xử các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia và đấu tranh phòng, chống tội phạm giữa Bộ Công an với Viện kiểm sát nhân dân tối cao nói chung, giữa 14
- Cơ quan An ninh điều tra thuộc Bộ Công an với Viện kiểm sát nhân dân nói riêng đã đạt được nhiều kết quả tích cực. 1.1.2. Tính tất yếu của mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra, xử lý các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia Quan hệ phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân là quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nói chung và giải quyết vụ án xâm phạm an ninh quốc gia nói riêng, mà thực chất là sự phối hợp trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm theo những nguyên tắc do pháp luật tố tụng hình sự quy định, có sự tác động, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Nội dung hoạt động phối hợp trong việc giải quyết án được quy định trong các văn bản pháp luật của Nhà nước và các Quy chế nghiệp vụ của từng ngành. Phạm vi công tác phối hợp từ khi phát hiện tội phạm đến khi kết thúc điều tra, truy tố, xét xử hoặc quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ việc giải quyết vụ án. Thực tiễn công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra, xét xử đối với các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia trong những năm qua cho thấy: Công tác phối hợp giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân có tác động trực tiếp và rất tích cực đến kết quả giải quyết các vụ án. Vì vậy, việc tổng kết thực tiễn, rút ra những bài học kinh nghiệm trong công tác phối hợp giải quyết án giữa Cơ quan An ninh điều tra và Viện kiểm sát nhân dân là thực sự cần thiết để qua đó mỗi cơ quan tiến hành tố tụng đề xuất được những giải pháp, thống nhất cùng nhau thực hiện nhằm nâng cao chất lượng công tác điều tra và kiểm sát điều tra, xử lý các vụ án đáp ứng yêu cầu phát hiện, xử lý kịp thời, có hiệu quả đối với các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia, đáp ứng yêu cầu bảo đảm an ninh chính trị, giữ vững trật tự an toàn xã hội. 15