Luận văn Mối quan hệ giữa quyền con người và quyền công dân
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Mối quan hệ giữa quyền con người và quyền công dân", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_moi_quan_he_giua_quyen_con_nguoi_va_quyen_cong_dan.pdf
Nội dung text: Luận văn Mối quan hệ giữa quyền con người và quyền công dân
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐINH THỊ THU TRANG MỐI QUAN HỆ GIỮA QUYỀN CON NGƢỜI VÀ QUYỀN CÔNG DÂN Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và Pháp luật Mã số: 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. NGUYỄN ĐĂNG DUNG HÀ NỘI - 2013
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Đinh Thị Thu Trang
- MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài 1 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn 2 3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài 3 4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài 4 5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài 5 6. Điểm mới của đề tài 5 7. Nội dung nghiên cứu 5 8. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 5 9. Kết cấu của luận văn 6 Chƣơng 1: LỊCH SỬ TƢ TƢỞNG NHẬN THỨC VỀ QUYỀN CON NGƢỜI, QUYỀN CÔNG DÂN 7 1.1. Các giai đoạn phát triển quyền con người, quyền công dân qua các chế độ xã hội 7 1.2. Lịch sử quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam 15 1.2.1. Lý thuyết về quyền con người 20 1.2.2. Lý thuyết về quyền công dân 23 Chƣơng 2: MỐI QUAN HỆ GIỮA QUYỀN CON NGƢỜI VÀ QUYỀN CÔNG DÂN 29 2.1. Quyền con người và một số phạm trù có liên quan 29 2.2. Tính thống nhất biện chứng giữa quyền con người quyền công dân 33 2.3. Sự khác biệt giữa quyền con người và quyền công dân 45
- Chƣơng 3: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ PHƢƠNG HƢỚNG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI – QUYỀN CÔNG DÂN 58 3.1. Thực trạng cơ chế pháp lý bảo vệ quyền con người, quyền công dân ở nước ta hiện nay 58 3.2. Một số phương hướng và giải pháp đề ra nhằm bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, quyền công dân ở nước ta hiện nay 68 3.2.1. Nâng cao nhận thức, năng lực của người dân và các cơ quan nhà nước trong việc thụ hưởng quyền 68 3.2.2. Hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật bảo vệ quyền con người, quyền công dân 71 3.2.3. Phát triển kinh tế gắn liền với đẩy mạnh các chính sách xã hội 74 3.2.4. Tăng cường hợp tác quốc tế trong giải quyết vấn đề quyền con người, quyền công dân 76 3.2.5. Quyền con người và quyền công dân trong Hiến pháp 1992 sửa đổi 78 KẾT LUẬN 84 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 85
- MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài Phạm trù quyền con người qua suốt chiều dài lịch sử đã tốn không ít giấy mực của các học giả trên toàn thế giới. Quyền con người, hay còn gọi là “nhân quyền” - từ đồng nghĩa theo Đại từ điển Tiếng Việt là một từ hàm chứa nhiều ý nghĩa to lớn; nó chứa đựng rất nhiều mồ hôi, nước mắt và có cả những giọt máu đấu tranh giành quyền lợi chính đáng của cộng đồng nhân loại trong đó. Quyền con người được nhìn nhận như là các quyền tự nhiên của con người trong xã hội, có thể hiểu đó là những quyền của con người ở trạng thái tự nhiên và sơ khai nhất. Đó là các quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm mà mọi thể chế, nhà nước cần phải thừa nhận. Quyền con người đã dần được thừa nhận ở mỗi quốc gia và trên toàn thế giới là một khái niệm toàn cầu mang tính chất quốc tế, được ghi nhận trong nhiều văn kiện – công trình nghiên cứu về quyền con người. Đây cũng là đề tài thường nhật được bàn đến dưới nhiều góc độ: triết học, luật học, sử học, chính trị học, ngôn ngữ học Từ xưa, quyền con người xuất hiện đã luôn gắn bó với từng cá thể con người cụ thể vừa với tư cách là một cá nhân vừa với tư cách là thành viên của một xã hội nhất định. Vì thế, quyền con người vừa có tính chất cá nhân lại vừa mang trong mình hơi thở của lợi ích cộng đồng, lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc. Bên cạnh đó, mang tính toàn diện thì quyền con người phải là những đặc quyền cần thiết của mỗi cá nhân không có sự phân biệt hay kỳ thị về tôn giáo, dân tộc, giới tính. Tự bản thân các đặc quyền tự nhiên của con người chưa thể được gọi là quyền mà cần có yếu tố quyết định đó là yếu tố pháp lý. Khi được chấp nhận, điều chỉnh, cưỡng chế hoặc ngăn cấm thì những đặc quyền nói trên mới trở thành quyền con người. Từ những phân tích trên, có thể hiểu khái quát về quyền con người là: Quyền con người là khả năng tự nhiên, 1
- khách quan của con người, với tư cách là con người và với tư cách là thành viên xã hội, con người được đảm bảo bằng pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế về quyền con người trong các quan hệ vật chất, văn hóa và tinh thần, các nhu cầu về tự do và phát triển. Còn quyền công dân là các quyền con người được mỗi quốc gia thừa nhận và thể chế hóa vào pháp luật làm cơ sở pháp lý điều chỉnh công dân của quốc gia mình trong mối quan hệ với các đối tượng khác trong xã hội. Quyền công dân có đặc điểm gắn với từng hệ thống nhà nước và pháp luật nhất định, mang đặc thù và tính chất của hệ thống đó. Quyền công dân là khả năng công dân được thực hiện những hành vi nhất định theo ý chí, theo nguyện vọng, nhận thức, khả năng lựa chọn của chính mình mà pháp luật không cấm nhằm đáp ứng nhu cầu, lợi ích của chính công dân đó. Hay nói khác đi, đó chính là những việc mà công dân - tự khả năng của mình, bằng khả năng của mình thực hiện một việc cụ thể nào đó ngoại trừ những việc mà pháp luật cấm không được thực hiện. Quyền con người và quyền công dân có mối quan hệ gắn bó mật thiết nhau, không hoàn toàn đồng nhất với nhau nhưng cũng không phủ nhận nhau. Mối quan hệ giữa quyền con người và quyền công dân là mối quan hệ biện chứng vừa có điểm thống nhất lại vừa có nét khác biệt. Đi sâu phân tích tính thống nhất và sự khác biệt giữa quyền con người và quyền công dân để có cơ chế pháp lý tốt nhất bảo vệ và thực thi các quyền này trên thực tế là vấn đề cấp thiết đặt ra trong bối cảnh hội nhập hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn Vấn đề quyền con người và quyền công dân trong hơn ba thập kỷ gần đây nhận được nhiều quan tâm của học giả trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Nhiều cơ quan, tổ chức ở nước ta cũng đã có các công trình nghiên cứu, tìm hiểu về quyền con người, quyền công dân cả ở mức độ tổng 2
- quan lẫn cụ thể trong từng lĩnh vực. Về quyền con người và mối quan hệ với quyền công dân đã có một số công trình như: Quyền con người, quyền công dân trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, Trung tâm Thông tin Tư liệu trực thuộc Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 1993; Phạm Khiêm Ích, Trần Văn Hảo, Quyền con người trong thế giới hiện đại, Viện Thông tin khoa học xã hội, 1995; Phạm Văn Khánh, Góp phần tìm hiểu quyền con người, NXB Khoa học xã hội, 2006; Nguyễn Đăng Dung, Tính nhân bản của hiến pháp và bản tính của các cơ quan nhà nước, NXB Tư pháp, 2004; Nguyễn Văn Động, Các quyền hiến định về xã hội của công dân Việt Nam, NXB Tư pháp, 2004; Nguyễn Văn Động, Các quyền hiến định về chính trị của công dân Việt Nam, NXB Tư pháp 2006; Trung tâm nghiên cứu quyền con người, Những nội dung cơ bản về quyền con người, NXB Tư pháp 2007; Các công trình trên nghiên cứu về quyền con người, quyền công dân ở mức độ tổng quan có, trong từng lĩnh vực cụ thể có. Nhìn chung, các đề tài nghiên cứu về quyền con người, quyền công dân mới chỉ dừng lại nghiên cứu về quyền con người hoặc một khía cạnh của quyền con người có liên quan với các phạm trù khác, chưa có nhiều đề tài đi sâu nghiên cứu mối quan hệ giữa quyền con người và quyền công dân. 3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài Mục đích nghiên cứu của đề tài - Sơ lược về lịch sử tư tưởng, nhận thức về quyền con người, quyền công dân. Làm rõ khái niệm về quyền con người, tính chất, đặc điểm của quyền con người - Làm rõ khái niệm quyền công dân, đặc điểm, tính chất quyền. Khái niệm quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong hiến pháp. 3
- - Nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa quyền con người và quyền công dân thể hiện ở tính thống nhất và khác biệt giữa chúng. - Thực trạng vấn đề bảo vệ quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam và một số phương hướng, giải pháp thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, quyền công dân ở nước ta hiện nay. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Để đạt được những mục đích đã đề ra ở trên, trong quá trình nghiên cứu, luận văn cần giải quyết được các vấn đề sau: - Nghiên cứu làm rõ chiều dài lịch sử tư tưởng nhận thức về quyền con người, quyền công dân qua các thời kỳ. - Nêu, phân tích được những khái niệm, đặc điểm, tính chất của quyền con người và quyền công dân. - Nêu, phân tích mối quan hệ biện chứng gần gũi mật thiết giữa quyền con người và quyền công dân. Chỉ rõ quyền con người và quyền công dân không hoàn toàn đồng nhất với nhau mà có tính thống nhất và cũng có những điểm khác biệt. - Nêu, phân tích thực trạng bảo vệ quyền con người, quyền công dân ở nước ta hiện nay, từ đó đề ra được những giải pháp phù hợp để việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người hiệu quả nhất. 4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Quyền con người và quyền công dân là hai phạm trù lớn đã tốn nhiều giấy mực của nhiều học giả trên thế giới, các vấn đề xoay quanh hai phạm trù này cũng rất đa dạng nhận được nhiều sự quan tâm. Với sự giới hạn của chương trình, thời gian, năng lực và khả năng tài chính, đề tài chỉ tập trung và dừng lại ở phạm vi nghiên cứu về mối quan hệ giữa quyền con người và quyền công dân, cơ chế pháp lý bảo vệ quyền con người và quyền công dân trong pháp luật Việt Nam. 4
- 5. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài Để phù hợp với đề tài đã chọn, nội dung cần nghiên cứu, thời gian cho phép, năng lực tài chính, luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu tập hợp và phân tích văn bản. Bên cạnh đó, dựa trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, có thêm một số phương pháp được sử dụng trong quá trình nghiên cứu: phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, điều tra xã hội học. 6. Điểm mới của đề tài - Nghiên cứu một cách có hệ thống từ khái niệm, đặc điểm, tính chất của quyền con người và quyền công dân cũng như mối liên hệ khăng khít không thể tách rời giữa quyền con người, quyền công dân tại Việt Nam. - Phát hiện những khó khăn và thách thức còn tồn tại trong thực trạng bảo vệ quyền con người, quyền công dân tại Việt Nam, tìm ra nguyên nhân của thực trạng đó. Đề xuất phương hướng và một số giải pháp nhằm bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, quyền công dân có hiệu quả trên thực tế. 7. Nội dung nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu các nội dung sau: - Lịch sử tư tưởng về quyền con người, quyền công dân - Khái niệm, đặc điểm quyền con người - Khái niệm, đặc điểm quyền công dân - Mối quan hệ biện chứng giữa quyền con người và quyền công dân - Những khó khăn và thách thức trong bảo vệ, thúc đẩy quyền con người, quyền công dân. - Một số giải pháp đề ra để việc bảo vệ, thúc đẩy quyền con người, quyền công dân hiệu quả cao trên thực tế. 8. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Về mặt lý luận: Nội dung và kết quả nghiên cứu của luận văn có thể 5
- được khai thác, sử dụng trong công tác nghiên cứu lý luận về quyền con người, quyền công dân và có thể làm tài liệu tham khảo cho việc tìm hiểu về quyền con người, quyền công dân và mối liên hệ giữa chúng ở nước ta - Về mặt thực tiễn: Các cơ quan hành pháp, các tổ chức nhân quyền trong nước, các cán bộ công quyền có thể khai thác, vận dụng những kết quả nghiên cứu của luận văn để tập huấn, nâng cao chất lượng, hiệu quả trong công tác bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam. 9. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có bố cục như sau: Chương 1: Lịch sử tư tưởng nhận thức về quyền con người, quyền công dân Chương 2: Mối quan hệ giữa quyền con người và quyền công dân Chương 3: Thực trạng và một số phương hướng bảo vệ quyền con người, quyền công dân. 6
- Chƣơng 1 LỊCH SỬ TƢ TƢỞNG NHẬN THỨC VỀ QUYỀN CON NGƢỜI, QUYỀN CÔNG DÂN 1.1. Các giai đoạn phát triển quyền con ngƣời, quyền công dân qua các chế độ xã hội Ở bất cứ thời kỳ nào, nhân loại cũng luôn dành sự quan tâm tới vấn đề mang cả ý nghĩa về mặt lý luận cũng như thực tiễn: vấn đề quyền con người và quyền công dân. Sự phát triển của quyền con người, quyền công dân qua từng giai đoạn lịch sử là dấu ấn rõ nét ghi lại kết quả của các cuộc đấu tranh giai cấp, cách mạng, xã hội. Vì cho dù xét trên khía cạnh nào thì quyền con người, quyền công dân cũng ít nhiều thể hiện lợi ích của các tầng lớp trong xã hội, và một khi đã liên quan tới lợi ích thì sẽ khó mà không xảy ra những xung đột từ đó dẫn tới đấu tranh vì nó. Ăng ghen đã nói: “Lịch sử không làm gì hết, nó không có tính phong phú vô cùng tận nào cả, nó không chiến đấu ở những trận nào cả. Không phải lịch sử mà chính là con người, con người thực sự, con người sống mới là kẻ làm ra tất cả những cái đó” [4, t2, tr141]. Như vậy, lịch sử chỉ đóng vai trò chứng kiến, ghi lại sự phát triển của quyền con người, quyền công dân qua từng giai đoạn như nó đã làm đối với các sự vật hiện tượng khác vậy. Câu hỏi đặt ra là: Lịch sử đã ghi lại từng thời kỳ phát triển của quyền con người, quyền công dân, vậy những tư tưởng này xuất hiện từ khi nào và các giai đoạn phát triển của nó ra sao?. Theo một số học giả, những tư tưởng về quyền con người, quyền công dân xuất hiện và được ghi dấu ấn đầu tiên cùng với sự xuất hiện của văn minh cổ đại. Văn kiện được chú ý nhất và được đánh giá là chứa đựng các tư tưởng thành văn rõ nét về quyền con người, quyền công dân là Bộ luật Hammurabi 7
- do nhà vua Hammurabi xứ BaBylon ban hành (thời điểm vào khoảng năm 1780 trcn). Nhà vua xứ này đã thể hiện tấm lòng thương dân của một vị vua anh minh khi thiết lập ra đạo luật để xác định ranh giới quyền của thần dân vương quốc mình sử dụng nó như một công cụ để “ngăn ngừa những kẻ mạnh áp bức kẻ yếu” [11,tr226] Có thể nói đây là văn kiện đầu tiên thể hiện những tư tưởng về quyền con người, quyền công dân phản ánh cái nhìn của giai cấp thống trị đối với tầng lớp thấp quyền hơn, tuy rằng mới chỉ mang tính sơ khai. Sau bộ luật Hammurabi, nhân loại có thêm nhiều văn bản pháp luật khác đề cập tới những giá trị cơ bản của quyền con người, quyền công dân. Dù được thể hiện ở văn bản nào và là ý chí của nhà tư tưởng nào đi nữa thì quyền con người, quyền công dân cũng luôn gắn bó mật thiết với lập trưởng, lợi ích của giai cấp thống trị. Xét cho cùng thì vẫn là vấn đề lợi ích, ở chế độ nào thì giai cấp thống trị cũng luôn tìm mọi phương cách để xác lập quyền và lợi ích của mình đối với tầng lớp bị trị và điều đó khiến chúng có nhiều cách giải thích khác nhau về quyền con người, quyền công dân để hợp thức hóa và xác lập địa vị của mình. Ở xã hội chiếm hữu nô lệ, người nô lệ là giai cấp bị trị với quyền và lợi ích luôn bị chi phối bởi tầng lớp thống trị của chế độ này là giai cấp chủ nô. Đúng với quy luật của lịch sử, tầng lớp bóc lột khi bị đẩy vào đường cùng thì đấu tranh là hành động tất yếu xảy ra, và những cuộc khởi nghĩa giành lại những quyền chính đáng đã bị giai cấp thống trị tước mất nổ ra. Xã hội chiếm hữu nô lệ - đại diện cho chế độ xã hội phân chia giai cấp đầu tiên đã bị sụp đổ bởi sự đấu tranh giành lại quyền làm người, quyền tự do. Sự kiện này đánh dấu mốc rằng con người đã dần nhận thức được quyền của mình trong xã hội và bắt đầu đứng lên bảo vệ chúng với ý thức gìn giữ giá trị quyền cơ bản chứ không chỉ mang ý nghĩa đấu tranh vì những lợi ích kinh tế trực tiếp trong đời sống. 8
- Xã hội chiếm hữu nô lệ sụp đổ là thành quả đấu tranh của tầng lớp bị trị mà không thiếu được sự kết hợp từ quá trình đào thải của xã hội khi một chế độ không còn phù hợp. Tưởng chừng như “con người nô lệ” sẽ được tận hưởng những giá trị quyền mà mình đáng được có nhưng không, xã hội mới – xã hội phong kiến cũng đi tiếp con đường mà xã hội chiếm hữu nô lệ để lại. Trong xã hội phong kiến cũng phân chia giai cấp thống trị và bị trị rõ rệt, và tất nhiên quyền và lợi ích được nhắc đến và bảo vệ là của tầng lớp nắm quyền trong xã hội. Người nông dân cũng bị đàn áp và là tầng lớp “vô quyền” như người nô lệ trong xã hội chiếm hữu nô lệ trước đó, có chăng chỉ khác nhau về tên gọi và các hình thức bóc lột mà thôi. Với tính chất của chế độ xã hội như vậy, tư tưởng về quyền con người, quyền công dân, quyền tự do của con người – công dân trong xã hội khó mà được thể hiện rộng rãi và chính thống. Chỉ có một số ít những văn kiện pháp lý thời kỳ này tồn tại được và để lại giá trị nghiên cứu tới thời điểm ngày nay, trong số đó không thể không nhắc tới Hiến chương Magra Carta do vua John của nước Anh ban hành năm 1215. Bản Hiến Chương được các nhà nghiên cứu về quyền con người, quyền công dân đánh giá cao về giá trị nhân văn sâu sắc. Khi có những quy định bảo vệ quyền của tầng lớp yếu trong xã hội một cách rõ nét. Dưới sự bóc lột, chèn ép của tầng lớp chuyên chế, giai cấp bị trị một lần nữa đứng dậy đấu tranh giành lại những đặc quyền mà đáng lý ra con người nào cũng được hưởng chứ không phải chỉ dành riêng cho tầng lớp “bề trên” như hiện tại. Giai cấp tư sản với sự khôn khéo của mình đứng lên với khẩu hiệu sẽ đem lại tự do bình đẳng cho mọi người trong xã hội để kêu gọi được người dân trong xã hội phong kiến lật đổ chế độ chuyên chế hiện tại. Với vũ khí là cam kết đem lại là một xã hội dân chủ, tự do, bình đẳng; mọi người được sống, được hưởng những quyền và lợi ích chính đáng, giai cấp tư sản đã giành được niềm tin của người dân. Thời kỳ này, nhiều tư tưởng 9
- về quyền con người, quyền công dân được đề cập và nhắc đến như những học thuyết thực sự. Trong các thế kỷ XVII – XVIII, nhiều nhà triết học mà tiêu biểu là Thomas Hobbes (1558 – 1679), John Locke (1632 – 1704), Thomas Paine (1731 – 1809), Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770 – 1831), Henry David Thoreau (1817 – 1862) đã đưa ra những luận giải về rất nhiều vấn đề lý luận cơ bản của quyền con người, đặc biệt là về các quyền tự nhiên và quyền pháp lý, mà vẫn còn có ý nghĩa quan trọng với việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người trong thời đại ngày nay. Các nhà tư tưởng học trên hướng sự nghiên cứu của mình tới quan điểm con người tự nhiên, ở đó con người có quyền sống, quyền bình đẳng, quyền tự do, quyền được chiếm hữu tài sản Quyền của con người theo quan điểm này là những quyền tự nhiên nhất có từ khi con người sinh ra nhưng nó cũng mang cả ý nghĩa về mặt pháp lý và được coi là nền tảng của quyền lực nhà nước. Giai cấp tư sản đã đạt được điều mà nó muốn là lật đổ chế độ chuyên chế phong kiến dưới sự giúp sức to lớn của tầng lớp bị trị trong xã hội. Khi đã đạt được mục đích thì ít nhiều giai cấp tư sản cũng cần thực hiện những cam kết về quyền cho giai cấp bị bóc lột. Vì lẽ đó, các quyền con người, quyền công dân đã được ghi nhận và thể hiện tập trung ở chế định về quyền – địa vị pháp lý – vị trí xã hội của công dân trong Hiến pháp và pháp luật của nhà nước. Với hành động này thì dù biết rằng giai cấp thống trị nào cũng chỉ chăm chăm xác lập, bảo vệ quyền lợi của giai cấp mình nhưng cũng không thể phủ nhận giai cấp tư sản đã ghi một dấu mốc khá quan trọng trong lịch sử: đưa quyền con người, quyền công dân tiến lên một nấc thang mới đó là được thừa nhận trong văn kiện có giá trị pháp lý lớn nhất của quốc gia: Hiến pháp và luật. Điểm sáng nổi bật của giai cấp tư sản nắm quyền đó là đã xác lập và thừa nhận quyền con người, quyền công dân tại hai bản Tuyên ngôn quan 10
- trọng trong lịch sử tư tưởng về quyền con người, quyền công dân đó là Tuyên ngôn độc lập và Hiến pháp của Mỹ năm 1776; Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1789. Hai bản tuyên ngôn này được đánh giá là những văn kiện quan trọng trong chiều dài phát triển của tư tưởng quyền con người, quyền công dân, chúng được coi là bản cương lĩnh chính trị và là hình thức pháp lý thành văn rõ rệt nhất để khẳng định và bảo vệ quyền của giai cấp tư sản. Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 là văn bản chính trị tuyên bố ly khai khỏi Anh của 13 nước thuộc địa Bắc Mỹ được tuyên bố vào tháng 7 năm 1776. Nội dung chính của bản Tuyên ngôn được xây dựng dựa trên những quan điểm và tư tưởng của một triết học gia người Anh John Locke. Theo nhà triết học này thì ba quyền cơ bản của loài người mang tính tự nhiên nhất không đối tượng nào có thể tước bỏ được đó là quyền sống, quyền tự do và quyền có tài sản. Quyền sở hữu tài sản được Jefferson nói tới trong Tuyên ngôn đó là quyền mưu cầu hạnh phúc. Tuyên bố dõng dạc trong Tuyên ngôn: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” [38,tr152] đã ghi một dấu ấn đậm trong lịch sử nghiên cứu về quyền con người, quyền công dân. Nếu ở Mỹ có cuộc cách mạng của 13 thuộc địa ở phía Bắc để tuyên bố độc lập với đế chế Anh thì không lâu sau đó ở Pháp cũng đã nổ ra cuộc cách mạng thứ hai của tầng lớp thợ thuyền, trí thức và một số thị dân đứng lên lật đổ nền quân chủ chuyên chế. Tuyên ngôn được công bố ngày 14/7/1789 bao gồm 17 điều khoản. Văn kiện này khẳng định quyền tự do bình đẳng của con người. Chủ quyền thuộc về nhân dân, quyền lực của nhà vua cùng chế độ đẳng cấp trong xã hội phong kiến bị bãi bỏ; xác lập quyền sở hữu tài sản tư nhân, quyền tự do dân chủ Các nội dung cơ bản của Tuyên ngôn đã phản 11
- ánh ý chí nguyện vọng của cộng đồng nhân dân Pháp thời kỳ này và là bước cụ thể hóa các ý tưởng của khẩu hiệu: “Tự do, bình đẳng, bác ái”. Cho tới bản Tuyên ngôn về quyền con người và quyền công dân này thì những quyền cơ bản của con người không chỉ được gọi tên chung chung như trong bản Tuyên ngôn của Mỹ năm 1776 nữa mà đã được cụ thể hóa thành các quyền nhất định, ví dụ: quyền được tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, quyền được sở hữu tài sản, được đảm bảo an ninh và chống áp bức Cho dù có thể thấy rõ điểm tiến bộ của văn kiện này so với các học thuyết khác thì nó cũng có điểm chưa làm được đó là: bản Tuyên ngôn đã chưa hề đề cập tới địa vị của người phụ nữ cũng như người nô lệ - hai đối tượng được coi là “kẻ yếu” trong xã hội. Đạo luật cao nhất của một quốc gia là Hiến pháp dù là được hình thành trong chế độ xã hội nào: các nước tư bản, các nước đang phát triển, các nước XHCN thì cũng đều có điểm chung là xây dựng chế định về quyền con người, quyền công dân. Điều này chỉ ra rằng, gia cấp thống trị bằng những cách nào đó, luôn nêu lên mục tiêu hướng tới là đảm bảo quyền con người, quyền công dân và cũng là để đảm bảo hợp thức hóa được sự thống trị của chúng. Bên cạnh đó thì quyền con người, quyền công dân cũng luôn luôn là vấn đề được tầng lớp nắm quyền quan tâm và sử dụng như một phương tiện để thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội. Không nằm ngoài quy luật như giai cấp thống trị ở các thời kỳ xã hội khác; giai cấp tư sản cũng chỉ đảm bảo quyền và lợi ích phần nhiều cho chúng. Còn quyền con người, quyền công dân đích thực và đầy đủ như chúng rêu rao thì hoàn toàn không được thừa nhận một cách toàn diện mà chỉ trong giới hạn đảm bảo đủ quyền và vị thế thống trị của giai cấp chúng mà thôi. Cụ thể là, vào cuối thế kỷ 19, giai cấp tư sản đã lộ dần bản tính tham lam của mình khi có ý đồ xâm chiếm lãnh thổ mở rộng quyền cai trị hơn nữa. Để bành trướng được thuộc địa thì không thủ đoạn nào mà giai cấp cầm 12
- quyền lại không làm: áp bức bóc lột, chiến tranh vũ trang, nô dịch dân tộc bị chiếm đóng, ; với những hành động đó có thể thấy xét ở khía cạnh nào thì giai cấp tư sản cũng đã phát động những cuộc đấu tranh chống lại loài người, lúc này quan niệm về quyền con người, quyền công dân mà chúng tạo nên đã dần lung lay. Trải qua ba hình thái xã hội thì chế định về quyền con người, quyền công dân đều đã bộc lộ những khiếm khuyết, cuối cùng hình thái nhà nước lý tưởng của các giai cấp xã hội cũng đã xuất hiện – hình thái nhà nước xã hội chủ nghĩa. Sự xuất hiện của chủ nghĩa xã hội phần nào đã đáp ứng được mong đợi của các nhà tư tưởng học vì đã cải thiện được những hạn chế của các chế độ xã hội trước đó trong việc giải quyết vấn đề quyền con người, quyền công dân. Trên thực tế, chủ nghĩa xã hội cũng ghi nhận và bảo đảm được quyền con người, quyền công dân ở phạm vi rộng rãi hơn. Trong xã hội chủ nghĩa, các quyền con người và quyền công dân được thể hiện rộng rãi trong các quyền về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa; đặc biệt còn được ghi nhận trong các quyền độc lập và tự quyết của dân tộc. Chủ nghĩa xã hội đã khiến quyền con người và quyền công dân được ghi nhận rộng rãi trong các văn bản pháp lý của các quốc gia. Mỗi quốc gia có hệ thống văn bản pháp luật riêng của mình để thể hiện chủ quyền độc lập, qua đó khẳng định tư tưởng nhất định về quyền con người và quyền công dân. Về phương diện pháp lý, các nước xã hội chủ nghĩa đã có hệ thống các văn bản pháp luật quy định rộng rãi các quyền công dân; đặc biệt là trong Hiến pháp – đạo luật cao nhất của mỗi quốc gia. Các quyền con người, quyền công dân đã thể hiện tính ưu việt hơn so với cũng các quyền này trong xã hội tư bản. Ví dụ cụ thể như các quyền: quyền bầu cử được áp dụng rộng rãi cho tất cả các đối tượng công dân trong xã hội khi đáp ứng một số điều kiện cơ bản; những người lao động bình thường trong xã hội tham gia vào các cơ quan quyền lực 13
- nhà nước chiếm tỷ lệ cao hơn nhiều trong các chế độ xã hội trước đó. Tuy nhiên, cũng như các chế độ xã hội khác, chủ nghĩa xã hội cũng có những nhược điểm nhất định trong việc quy định và công nhận quyền con người, quyền công dân. Một trong những nhược điểm đó là sự hạn định của các điều kiện kinh tế - xã hội; những hạn chế của cơ chế quản lý chính trị; quyền con người, quyền công dân ở các nước xã hội chủ nghĩa vẫn mang tính hình thức. Quyền và tự do của người dân chưa được tôn trọng triệt để. Đó cũng là một trong các nguyên nhân dẫn tới sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu trong lịch sử. Chủ nghĩa xã hội ra đời dưới con mắt của giai cấp không nắm quyền thế trong tay cũng như của các nhà phân tích thì đều được coi là hình thái xã hội tiến bộ và ưu việt hơn các nhà nước trước đó. Vậy, với hình thái xã hội chủ nghĩa thì quyền con người, quyền công dân đáng lẽ sẽ có nền tảng vững chắc để phát triển cả về phương diện lý luận và thực tiễn chế không phải vẫn tồn tại những nhược điểm. Vấn đề đặt ra ở đây là sự mâu thuẫn về phương diện lý luận và thực tiễn của mục đích hoạt động mà chủ nghĩa xã hội đề ra. Chủ nghĩa xã hội với phương châm đề ra là vì con người, vì hạnh phúc và các quyền lợi chính đáng của con người mà đấu tranh và hoạt động cũng trên phương châm đó. Tuy nhiên, nhiều nhà phân tích đã chỉ ra rằng, trước đây trong nhiều thập kỷ đầu của chủ nghĩa xã hội thì khái niệm quyền con người dường như bị phủ nhận. Thời điểm này, thuyết pháp luật tự nhiên từng đưa ra quan điểm rằng con người là sản phẩm của giới tự nhiên, bản thân con người khi sinh ra đã mang các quyền tự nhiên vốn có. Xét về mặt ưu điểm thì học thuyết này đã rất tiến bộ so với các học thuyết trước đây khi công khai thừa nhận quyền tự do và các quyền lợi chính đáng khác mà con người được hưởng. Bên cạnh ưu điểm đó thì học thuyết cũng có nhược điểm đó là đã tuyệt đối hóa “tính tự nhiên” của quyền con người mà không đặt nó vào một 14
- khuôn khổ pháp lý để được thừa nhận. Từ các quan điểm của thuyết tự nhiên, có thể thấy rằng chỉ khi quan niệm quyền con người là thuộc tính chính đáng và vốn có của con người được thừa nhận và bảo vệ trong xã hội pháp lý để hình thành nên quyền công dân mới là quan điểm đúng đắn trong xã hội chủ nghĩa. 1.2. Lịch sử quyền con ngƣời, quyền công dân ở Việt Nam Nước ta không phải là nơi sản sinh ra thuật ngữ nhân quyền nhưng rất giàu truyền thống nhân đạo, nhân văn và khái nhiệm nhân quyền đi liền với tinh thần nhân đạo, tình cảm yêu thương con người, tính nhân nghĩa, nhân ái. Nhân dân Việt Nam yêu chuộng hòa bình và các giá trị nhân văn, cởi mở với sự đa dạng và dung hợp trong tiếp nhận giá trị từ bên ngoài. Tư tưởng nhân quyền ở Việt Nam bắt nguồn từ tinh thần nhân đạo. Điều này đã tồn tại từ rất sớm trong lịch sử thành văn của dân tộc. Quyền con người, quyền công dân ở nước ta cũng trải qua các thời kỳ tương tự như lịch sử phát triển các quyền này trên thế giới: Từ tư tưởng nhân quyền nhen nhóm trong văn học xưa, đến tư tưởng nhân quyền được cụ thể hóa trong các tập quán và bộ luật thời phong kiến, đến tư tưởng nhân quyền cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX (thời Pháp thuộc) và tư tưởng nhân quyền từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 tới nay. Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn. Ở hiền thì lại gặp lành Ở dữ gặp ác tan tành như tro Thân em như hạt mưa sa Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày [14, tr121,122] Tư tưởng về quyền con người ở nước ta đã được thể hiện từ rất sớm qua các câu ca dao, tục ngữ. Bên cạnh các thành ngữ, ca dao, tục ngữ cũng có 15
- một số sự tích nói lên quyền tự do của con người cho dù chỉ là manh nha như sự tích về Mai An Tiêm nêu lên quyền và khát vọng tồn tại của người Việt cổ, sự tích về Tiên Dung và Chử Đồng Tử nói lên quyền tự do luyến ái của nam nữ. Nhiều truyện cổ tích, thần thoại hay truyền thuyết khác đều có nội dung ca ngợi quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc của con người. Đến thời kỳ trung đại, tư tưởng nhân quyền đã được nhắc đến trong nhiều thể loại tác phẩm và có dạng thành văn hơn so với thời kỳ trước. Các danh nhân và tác phẩm để lại của họ cũng đã mang đậm tính nhân quyền sâu sắc. Tiêu biểu thời kỳ này có thể kể đến một số tác giả nổi bật như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương Nguyễn Trãi – một anh hùng tân tộc của Việt Nam, một danh nhân văn hóa thế giới - với tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” năm 1428. Tác phẩm này đã thể hiện rõ ý chí độc lập, tự cường của dân tộc Việt cũng như việc lấy dân làm gốc. Cáo bình Ngô được nhiều học giả coi như bản “Tuyên ngôn độc lập” thứ hai của nước ta (sau bài Nam quốc sơn hà). Tác phẩm “Văn tế thập loại chúng sinh” hay còn gọi là Văn chiêu hồn (chưa rõ thời điểm sáng tác) của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du thể hiện rõ nét tính nhân ái và cái “tình trong” tác phẩm. Tấm lòng nhân ái bao la của đại thi hào chủ yếu hướng tới các thân phận bé nhỏ trong xã hội, tác giả khóc cho những người đã khuất qua đó bàn về đời sống và khổ đau của chúng sinh thời bấy giờ. Hồ Xuân Hương cũng là một văn sĩ nổi tiếng với nhiều tác phẩm thể hiện rõ quan điểm về các quyền con người thời kỳ này. Từ cuộc đời tài hoa nhưng nhiều bất hạnh của bà, bà đã có cái nhìn sâu sắc về thân phận người phụ nữ trong xã hội, về những bất công họ phải chịu đựng và các quyền chính đáng mà họ đáng được nhận. Bà sống gần gũi với những người dân lao động nghèo khổ, tiếp xúc với nhiều phụ nữ bị áp bức trong xã hội. Một 16