Luận văn Mối quan hệ giữa khí chất và stress ở học sinh trung học phổ thông

pdf 149 trang vuhoa 25/08/2022 8800
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Mối quan hệ giữa khí chất và stress ở học sinh trung học phổ thông", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_moi_quan_he_giua_khi_chat_va_stress_o_hoc_sinh_trun.pdf

Nội dung text: Luận văn Mối quan hệ giữa khí chất và stress ở học sinh trung học phổ thông

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ĐỒNG THỊ YẾN MỐI QUAN HỆ GIỮA KHÍ CHẤT VÀ STRESS Ở HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Hà Nội – 2013 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ĐỒNG THỊ YẾN MỐI QUAN HỆ GIỮA KHÍ CHẤT VÀ STRESS Ở HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Chuyên ngành : Tâm Lý Học Mã số : 60 31 04 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ Hà Nội - 2013 2
  3. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT SD Độ lệch chuẩn ĐTB Điểm trung bình r Hệ số tương quan p Mức ý nghĩa % Tỷ lệ phần trăm THPT Trung học phổ thông SL Số lượng 4
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 10 1. Lý do chọn đề tài 10 2. Mục đích nghiên cứu. 11 3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu 12 4. Giả thuyết nghiên cứu 12 5. Nhiệm vụ nghiên cứu. 12 6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu. 12 7. Phƣơng pháp nghiên cứu. 13 CHƢƠNG 1 14 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHÍ CHẤT- STRESS 14 VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA KHÍ CHẤT VÀ STRESS 14 1. 1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu khí chất và stress 14 1.1.1. Sơ lược các nghiên cứu về khí chất 14 1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu khí chất ở nước ngoài 14 1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu khí chất ở Việt Nam 16 1.1.2. Sơ lược các nghiên cứu về stress 16 1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu stress ở nước ngoài 16 1.2.2. Các công trình nghiên cứu stress ở Việt Nam 21 1.2. Lý luận về khí chất và stress 24 1.2.1. Lý luận về khí chất 24 1.2.1.1. Khái niệm khí chất 24 1.2.1.2. Những thuộc tính cơ bản của khí chất 25 1.2.1.3. Các kiểu khí chất và đặc điểm của các kiểu khí chất 26 1.2.1.4. Cơ sở hình thành khí chất 30 1.2.2. Lý luận về stress 32 5
  5. 1.2.2.1. Khái niệm stress 32 1.2.2.2. Những mặt biểu hiện cơ bản chung khi bị stress 35 1.2.2.3. Các nguyên nhân gây nên stress ở học sinh THPT. 36 1.2.3. Mối quan hệ giữa khí chất và stress 38 1.2.3.1. Khái niệm mối quan hệ 38 1.2.3.2. Mối quan hệ giữa khí chất và stress 39 1.2.4. Quan hệ giữa khí chất và stress ở học sinh THPT 41 1.2.4.1. Khái niệm học sinh THPT 41 1.2.4.2. Đặc điểm tâm- sinh lý học sinh THPT 41 1.2.4.3. Biểu hiện quan hệ giữa khí chất và stress ở học sinh THPT 45 Tiểu kết chƣơng I 47 CHƢƠNG 2: TỔ CHỨC VÀ PHUƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 48 2.1. Vài nét về địa bàn và khách thể nghiên cứu 48 2.1.1. Vài nét chung về địa bàn tỉnh Hải Dương 48 2.1.2. Vài nét chung về các truờng THPT ở tỉnh Hải Dương 48 2.1.2.1. Trường THPT chuyên Nguyễn Trãi 48 2.1.2.2. Trường THPT Gia Lộc 50 2.1.3. Vài nét về khách thể nghiên cứu 50 2.2. Tổ chức nghiên cứu 51 2.2.1. Nội dung nghiên cứu 51 2.2.1.1. Nghiên cứu lý luận 51 2.2.1.2. Nghiên cứu thực tiễn 52 2.2.2. Tiến trình nghiên cứu 52 2.2.2.1. Giai đoạn nghiên cứu lý luận 52 2.2.2.2. Giai đoạn khảo sát thực trạng 52 2.2.2.3. Giai đoạn nghiên cứu trường hợp điển hình 54 6
  6. 2.3. Các phƣơng pháp nghiên cứu 54 2.3.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu 54 2.3.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn 54 2.3.2.1. Phương pháp quan sát 54 2.3.2.2. Phương pháp trắc nghiệm 55 2.3.2.3. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi (anket) 57 2.3.2.4. Phương pháp phỏng vấn sâu 58 2.3.2.5. Phương pháp xử lý kết quả nghiên cứu bằng thống kê toán học 58 2.3.2.6. Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình 59 Tiểu kết chƣơng 2 59 CHƢƠNG 3 60 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN 60 3.1. Thực trạng về kiểu khí chất ở học sinh THPT thuộc địa bàn tỉnh Hải Dƣơng 60 3.2. Thực trạng về stress ở học sinh THPT thuộc địa bàn tỉnh Hải Dƣơng 61 3.2.1. Thực trạng về mức độ stress của học sinh THPT 61 3.2.1.1. Thực trạng về mức độ stress của học sinh THPT trên mẫu chung 61 3.2.1.2. Thực trạng về mức độ stress của học sinh THPT xét qua các tiêu chí 63 3.2.2. Thực trạng về biểu hiện của stress ở học sinh THPT trên địa bàn tỉnh Hải Dương 67 3.2.2.1. Những biểu hiện về thể chất ở học sinh THPT bị stress 67 3.2.2.2. Những biểu hiện về tâm lý ở học sinh bị stress 70 3.2.3. Thực trạng về nguyên nhân gây ra stress ở học sinh THPT trên địa bàn tỉnh Hải Dương 73 3.2.3.1. Nhóm nguyên nhân từ phía bản thân học sinh THPT 73 7
  7. 3.2.3.2. Nhóm nguyên nhân từ phía gia đình 76 3.2.3.3. Nhóm nguyên nhân từ phía quan hệ xã hội 79 3.2.4. Thực trạng về cách ứng phó đối với stress ở học sinh THPT trên địa bàn tỉnh Hải Dương. 82 3.3. Thực trạng về mối quan hệ giữa khí chất và stress ở học sinh THPT trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng 84 3.3.1. Mối quan hệ giữa khí chất với stress ở học sinh trên mẫu chung 84 3.3.2. Mối quan hệ giữa khí chất với từng mức độ stress ở học sinh THPT 86 3.3.3. Mối quan hệ giữa khí chất với các biểu hiện về thể chất và tâm lý ở học sinh THPT 89 3.3.3.1. Mối quan hệ giữa khí chất với các biểu hiện về thể chất ở học sinh THPT 89 3.3.3.2. Mối quan hệ giữa khí chất với các biểu hiện về tâm lý ở học sinh THPT 91 3.3.4. Mối quan hệ giữa khí chất với cách ứng phó làm giảm thiểu stress ở học sinh THPT trên địa bàn tỉnh Hải Dương 94 3.4. Nghiên cứu trƣờng hợp điển hình 96 3.4.1. Tiểu sử 96 3.4.2. Tiếp xúc ban đầu 97 3.4.3. Khám tâm lý 97 3.4.3.1. Quan sát thái độ chung, tướng mạo và khí sắc: 97 3.4.3.2. Cách ứng xử và các biểu hiện phi ngôn ngữ: 97 3.4.3.3. Quan hệ với người thân (bố mẹ): 98 3.4.3.4. Ngôn ngữ 98 3.4.3.5. Viết 98 8
  8. 3.4.3.6. Cá tính 98 3.4.3.7. Hỏi chuyện 98 3.4.3.8. Tiền sử 99 3.4.4. Trắc nghiệm 100 3.4.5. Thăm tận nhà 100 3.4.6. Chẩn đoán 101 3.4.7. Đề xuất các biện pháp giảm thiểu stress 101 Tiểu kết chƣơng 3 103 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 104 1. Kết luận 104 2. Kiến nghị 106 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 109 9
  9. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong cuộc sống, bất cứ ai cũng phải đối mặt với những thử thách xuất phát từ những điều kiện môi trường bên ngoài, từ những nhu cầu và khả năng đáp ứng bên trong của cá nhân. Đó là những vấn đề của cuộc sống mà chúng ta buộc phải giải quyết để tồn tại và phát triển. Xã hội càng phát triển, con người càng phải đối mặt với những chứng bệnh của thời đại như trầm cảm, rối loạn cảm xúc, stress Những chứng bệnh này ngày càng phổ biến và ảnh hưởng tới chất lượng, hiệu quả công việc, cuộc sống. Stress là vấn đề của con người ở mọi thời đại và dường như đó là một phần tất yếu không thể tránh được trong cuộc sống của mỗi người. Không như người lớn bị nhiều sức ép về đời sống kinh tế hay áp lực gia đình, nhưng cũng có vô vàn lý do làm cho đối tượng thanh thiếu niên- đặc biệt là học sinh trung học phổ thông bị stress. Stress là trạng thái căng thẳng về mặt tâm lý mà con người cảm nhận được trong quá trình hoạt động cũng như trong các tình huống khác nhau của cuộc sống. Stress chịu sự chi phối, ảnh hưởng của nhiều yếu tố như: điều kiện tự nhiên, môi trường, gia đình xã hội và những yếu tố nằm bên trong chủ thể Trong đó, khí chất được xem là một trong những yếu tố có ảnh hưởng và chi phối nhất định đến tình trạng stress của mỗi cá nhân. Thực tế cho thấy, học sinh THPT dễ bị những tác nhân gây stress tấn công. Bởi trước hết ở độ tuổi này ở các em có đặc điểm tâm sinh lý đặc biệt, những thay đổi lứa tuổi dậy thì gây ra không ít những vướng mắc ở các em. Hơn nữa, đây là giai đoạn các em đang phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, thách thức trong cuộc sống như: định hướng nghề nghiệp, áp lực thi cử, mối quan hệ bạn bè, bạo lực học đường, mâu thuẫn gay gắt giữa nhu cầu tự 10
  10. chủ cao với khả năng bất cập và vẫn phụ thuộc vào gia đình (cha, mẹ) Những đặc điểm đó khiến học sinh THPT dễ nhạy cảm với những thay đổi và trong những hoàn cảnh nhất định các em dễ chịu tác động của các tác nhân gây stress. Khi không vượt qua được các tác động của stress thì học sinh THPT dễ rơi vào trạng thái rối loạn cảm xúc, mức độ nặng hơn có thể là rối nhiễu hành vi. Điều này ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động học tập cũng như cuộc sống hàng ngày của các em. Theo số liệu thống kê mới đây nhất của khoa Tâm thần- bệnh viện Nhi trung ương :“Trong số gần 200 trẻ em và thiếu niên dưới 18 tuổi đến khám mỗi tuần thì phần đông mắc các bệnh lý tâm thần liên quan đến stress.”[1, Tr 3]. Qua quá trình trực tiếp tiếp xúc, trao đổi với học sinh THPT, chúng tôi nhận thấy rằng một trong những nguyên nhân gây ra stress ở các em có liên quan đến kiểu khí chất. Như vậy, nếu xác định được sự ảnh hưởng của từng kiểu khí chất đến tình trạng stress diễn ra như thế nào, chúng ta có thể đưa ra biện pháp tác động phsù hợp, góp phần rèn luyện khí chất, hạn chế tình trạng stress, từ đó giúp các em có thể phát triển nhân cách một cách toàn diện. Hiện nay có rất nhiều công trình nghiên cứu về stress: nguyên nhân, cơ chế, cách ứng phó với stress Tuy nhiên, xét về mặt lý luận và thực tiễn chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về sự ảnh hưởng của kiểu khí chất đến stress, đặc biệt là nghiên cứu ở lứa tuổi học sinh THPT. Do đó, việc đi sâu nghiên cứu về vấn đề trên là một trong những yêu cầu cấp thiết hiện nay. Chính vì những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Mối quan hệ giữa khí chất và stress ở học sinh trƣờng THPT” để nghiên cứu. 2. Mục đích nghiên cứu. Tìm hiểu về khí chất, stress và mối quan hệ giữa khí chất và stress ở học sinh THPT tỉnh Hải Dương. Từ đó đề xuất một số kiến nghị về phòng ngừa và giúp giảm thiểu stress ở học sinh THPT. 11
  11. 3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu Nghiên cứu trên 450 học sinh THPT ở 2 trường THPT Gia Lộc, THPT chuyên Nguyễn Trãi thuộc địa bàn Tỉnh Hải Dương. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Mối quan hệ tác động qua lại giữa khí chất và stress ở học sinh THPT. 4. Giả thuyết nghiên cứu Khí chất có mối quan hệ nhất định với stress ở học sinh THPT thuộc địa bàn tỉnh Hải Dương. Những học sinh có kiểu khí chất ưu tư và nóng nảy có xu hướng bị stress cao hơn những học sinh có các kiểu khí chất khác. Hai kiểu khí chất ưu tư và nóng nảy sẽ ảnh hưởng khác nhau đối với các loại stress. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu. 5.1. Nghiên cứu lý luận. Hệ thống hóa các khái niệm, văn bản có liên quan đến đề tài nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài, định hướng cho việc nghiên cứu thực tiễn. 5.2. Nghiên cứu thực tiễn. Khảo sát thực trạng kiểu khí chất, stress và mối quan hệ giữa khí chất và stress ở học sinh THPT thuộc địa bàn tỉnh Hải Dương. Từ đó đề xuất một số kiến nghị về phòng ngừa và giúp giảm thiểu stress ở học sinh THPT. 6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu. Chúng tôi chỉ tiến hành nghiên cứu mối quan hệ giữa khí chất và stress ở một số vấn đề như: mức độ, biểu hiện, nguyên nhân và cách ứng phó với stress ở học sinh THPT. Đề tài được triển khai nghiên cứu trên 450 học sinh THPT thuộc địa bàn tỉnh Hải Dương (thuộc 2 khối lớp: lớp 10 và 12). 12
  12. 7. Phƣơng pháp nghiên cứu. 7.1. Phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu. Phân tích những tài liệu có liên quan đến đề tài, trên cơ sở đó xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài. 7.2. Phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn 7.2.1. Phương pháp quan sát Quan sát những biểu hiện về hành vi, cũng như những biểu hiện về mặt cảm xúc được bộc lộ ra bên ngoài của học sinh THPT. 7.2.2. Phương pháp trắc nghiệm Sử dụng test trắc nghiệm khí chất của H.J. Eysenk để phân loại các kiểu khí chất khác nhau ở học sinh THPT. Sử dụng trắc nghiệm nghiên cứu mức độ stress của hai nhà tâm lý học Nga là T.D. Azarnưk và I.M. Tưrtưsnhicov, trắc nghiệm này đã được Khoa tâm lý học ĐHKHXH và NV chuẩn hoá và thích ứng vào điều kiện Việt Nam. 7.2.3. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi (anket) Điều tra học sinh thuộc hai trường THPT Gia Lộc, THPT chuyên Nguyễn Trãi thuộc tỉnh Hải Dương về mối quan hệ giữa khí chất và stress. 7.2.4. Phương pháp phỏng vấn sâu Nhằm định tính, kiểm tra kết quả nghiên cứu thu được từ phương pháp điều tra bằng bảng hỏi. 7.2.5. Phương pháp xử lý kết quả nghiên cứu bằng thống kê toán học Các số liệu thu thập được xử lý trên chương trình SPSS 16.0 và các công thức toán học để xử lý số liệu nghiên cứu. 7.2.6. Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình Lựa chọn những trường hợp điển hình để đi sâu phân tích làm rõ được mối quan hệ giữa khí chất và stress. 13
  13. CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHÍ CHẤT- STRESS VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA KHÍ CHẤT VÀ STRESS 1. 1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu khí chất và stress 1.1.1. Sơ lược các nghiên cứu về khí chất 1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu khí chất ở nước ngoài Ở Phương Đông , những người Ấn Độ cổ đại theo chủ nghĩa khổ hạnh từ chối hoạt động thể lực, tính lực đã nêu nên một số quy luật trong sự khác nhau cá biệt của những người tách khỏi sự vận động. Họ cố gắng “tới gần thượng đế” bằng cách nằm hoặc đứng bất động hàng ngày trong bãi lầy đồng thời ngẫm nghĩ về “cái tôi” của mình. Họ cho rằng những người trong cuộc sống hàng ngày luôn nóng nảy, dễ xúc cảm thì hoàn toàn không thể chịu được sự cố tình từ bỏ cảm xúc trong lúc im lặng không vận động (tức cái gọi là “chủ nghĩa khổ hạnh bên trong”). Còn những người rơi vào trạng thái xúc cảm (ý bệnh hysterin) là những người giữ được thăng bằng để chịu đựng hơn “chủ nghĩa khổ hạnh bên trong” như vậy. [18] Ở phương Tây, ngay ở Hi Lạp cổ đại, để chỉ những đặc điểm cá biệt của cá nhân, người ta đưa ra thuật ngữ “khí chất” (temperament). Lịch sử còn ghi nhận lại tên tuổi Hypocrat (377 – 460 TCN) – một bác sỹ, đồng thời là một nhà triết học – người đã phát hiện ra các loại khí chất. Những công trình nghiên cứu chứng minh rằng Hypocrat đã chỉ có một tư tưởng là có bốn chất lỏng (máu, chất nhầy, mật vàng và nước mật đen) trong cơ thể người ta và tỉ lệ khác nhau của các chất đó quyết định hành vi của con người. Một bác sỹ La Mã là Galen (130 – 250 TCN) đã hoàn thành kỹ thuật của Hypocrat và phân loại thành bốn loại tương ứng với bốn khí chất. Các bác sỹ Hy Lạp – La Mã cổ đại đều cho rằng mỗi một kiểu khí chất đều phụ thuộc vào tỷ lệ giữa máu, chất nhầy và mật trong cơ thể người ta. 14
  14. Năm 1863, nhà sinh học và tâm lý học Nga I. M. Xetrênốv đã viết công trình "Những phản xạ của não". Trong công trình này, Xetrênốv đã đưa ra tư tưởng về tính phản xạ tâm lý và sự điều chỉnh tâm lý của hoạt động. Tư tưởng này của ông được nhà sinh lý học vĩ đại người Nga I. P. Pavlov phát triển trong xây dựng học thuyết về hoạt động thần kinh cấp cao. Trong học thuyết của mình, Pavlov đã đưa ra những giải thích khoa học về bản chất của khí chất. Bằng phương pháp phản xạ có điều kiện I. P. Pavlov đã khám phá ra những quy luật của hoạt động thần kinh cấp cao (gồm hai quá trình căn bản đó là hưng phấn và ức chế và những thuộc tính của hai quá trình thần kinh gồm có 3 thuộc tính cơ bản đó là: cường độ, cân bằng và linh hoạt. Theo I. P. Pavlov đặc điểm của các hoạt động thần kinh với 3 thuộc tính bao giờ cũng có hai trạng thái đối lập nhau đó là: Mạnh – yếu, cân bằng – không cân bằng, linh hoạt – không linh hoạt. Ba thuộc tính: cường độ, cân bằng, linh hoạt kết hợp độc đáo với nhau tạo nên 4 kiểu thần kinh cơ bản, đó cũng là cơ sở sinh lý của hiện tượng tâm lý: khí chất – mỗi kiểu hình thần kinh tương ứng với một kiểu khí chất và có những đặc điểm tâm lý khác nhau từ đó biểu hiện ra cách ứng xử khác nhau. Trên cơ sở các dạng thần kinh này có bốn loại khí chất tương ứng: sôi nổi, linh hoạt, ưu tư và điềm tĩnh. [18]. Trong các sách giáo khoa về tâm lý học của các tác giả Xô viết như Côvaliov, K.K Platonov có các chương nói về các thuộc tính tâm lý trong đó có khí chất. Các tác giả đề cập đế một số vấn đề về khí chất như: khái niệm khí chất, phân loại khí chất, cơ sở sinh lý của khí chất. 15
  15. 1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu khí chất ở Việt Nam Mặc dù nhiều nhà nghiên cứu có những bài viết liên quan đến khí chất như tác giả Vũ Dũng với bài viết: Quan hệ xã hội - Khí chất. Trong bài viết này tác giả đã khái quát được cách phân loại khí chất dựa theo hệ thần kinh. Hay trong sách giáo khoa về tâm lý học đại cương, tâm lý học y học, tâm lý học thần kinh nhiều tác giả cũng nói về khí chất. Đó là khái niệm, những thuộc tính, đặc điểm của khí chất. Tuy nhiên, ở Việt Nam vẫn chưa có một nghiên cứu chính thức nào về khí chất cũng như mối quan hệ giữa khí chất và stress. Liệu nguyên nhân gây ra stress có sự liên quan đến các thay đổi về thể chất, cảm xúc và xã hội diễn ra ở mỗi cá nhân hay liên quan đến tính cách - tính hướng nội hay hướng ngoại ở từng người? Do vậy, việc đi sâu nghiên cứu về khí chất- những kiểu khí chất, đồng thời nghiên cứu mối quan hệ giữa khí chất và stress là điều cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Nghiên cứu không chỉ khảo sát thực trạng các kiểu khí chất và strees mà còn đưa ra những cách phòng ngừa stress phù hợp với kiểu khí chất. Đồng thời góp phần làm phong phú thêm cho những công trình nghiên cứu trong nước về vấn đề trên. 1.1.2. Sơ lược các nghiên cứu về stress 1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu stress ở nước ngoài Vấn đề stress trong đời sống của cá nhân và xã hội đã được các bác sĩ, thầy thuốc quan tâm từ khá lâu. Ngay từ cuối thế kỷ XIX một số bác sĩ đã nhận thấy rằng có mối liên hệ giữa đặc điểm tâm-sinh lý với các trạng thái bệnh của bệnh nhân. Năm 1910, William Osler đã chỉ ra mối liên hệ giữa sự nặng nhọc, căng thẳng, tính trách nhiệm của công việc với bệnh việm họng và triệu chứng đau ngực của các bệnh nhân người Do Thái. Ông mô tả "Họ sống rất náo nhiệt, say mê trong công việc và sẵn sàng hy sinh cho gia đình. Chính 16
  16. đặc điểm hoạt động và lối sống này đã làm cho năng lượng thần kinh suy giảm nhanh chóng, hậu quả là họ bị lâm vào trạng thái stress và căng thẳng" [6, tr 52] Walter Cannon nhà sinh lý học đầu tiên đã mô tả một cách khoa học về phản ứng của con người và động vật đối với các tình huống nguy hiểm. Ông thấy rằng có sự hoạt hoá theo qui trình từ hệ thần kinh giao cảm đến các tuyến nội tiết, nhằm chuẩn bị cho cơ thể ứng phó (chống trả hoặc bỏ chạy) với tác nhân nguy hiểm. Ông đã gọi đáp ứng này của cơ thể với stress là đáp ứng kép (chống trả hoặc bỏ chạy) “fight–flight‟‟. Ông gọi trung tâm của đáp ứng nguyên thủy này là trung tâm stress và nó nằm ở vùng dưới đồi của não bộ. Trung tâm này kiểm soát hệ thần kinh giao cảm và hoạt hóa tuyến yên. Kết quả nghiên cứu của Cannon, đặc biệt là khái niệm “fight–flight” đã là động lực quan trọng thúc đẩy nhiều công trình nghiên cứu sau này [4, tr. 6]. Hans Selye được coi là người đầu tiên đặt nền tảng khoa học cho việc nghiên cứu về stress. Bằng các kết quả nghiên cứu thực nghiệm về stress trên động vật, ông đã khẳng định cơ thể có hệ thống các đáp ứng nhằm thích nghi và cân bằng với hoàn cảnh mới. Ông gọi các đáp ứng này là “Hội chứng thích nghi chung” GAS (General Adaptation Syndronme). Theo ông các đáp ứng này là những phản ứng không đặc hiệu, ổn định và sẵn có, giúp cơ thể thích nghi với tác nhân từ môi trường. GAS chỉ đạo hoạt động của hệ thần kinh và nội tiết cho phép cơ thể chống lại những kích thích có hại và được chia làm ba giai đoạn: báo động, kiệt sức và chống đỡ.[9, tr 3]. H. Selye giới thiệu toàn bộ lý thuyết của mình và khái niệm stress được đưa vào khoa học một cách chính thức vào năm 1946. H. Selye đã xem stress như là đáp ứng đối với tác động bên ngoài. Tác động bên ngoài vào cơ thể được ông biểu thị bằng thuật ngữ “stressor”. Những công trình tiếp theo H. 17
  17. Selye cho rằng stress là sự tương tác giữa tác nhân bên ngoài và phản ứng của cơ thể trước tác nhân đó. [6, tr. 55] Trong các khoa học nghiên cứu về stress hiện nay có ba hướng nghiên cứu cơ bản: tiếp cận sinh học; tiếp cận môi trường và tiếp cận tâm lý. Hướng nghiên cứu thứ nhất là tiếp cận stress dưới góc độ sinh học. Các nghiên cứu theo hướng này chỉ ra rằng; hoạt động của hệ thần kinh, hệ nội tiết, hoóc môn có ảnh hưởng rất lớn đến cảm xúc cơ thể và liên quan trực tiếp đến stress. V.V. Suvôrôva (1975) cho rằng; biểu hiện của các phản ứng cảm xúc khi bị stress thể hiện không chỉ qua các phản ứng hoóc môn mà còn thông qua các phản ứng sinh lý đặc biệt của hệ thần kinh.V.I. Rôgiơ Dêxơvenxcaia và cộng sự (1980) bằng thực nghiệm đã khẳng định rằng; khả năng làm việc giảm đi khi stress xuất hiện, sự giảm sút này ở những người có hệ thần kinh yếu xảy ra sớm hơn những người có hệ thần kinh mạnh. Khả năng làm việc khi bị stress không chỉ phụ thuộc vào độ mạnh của hệ thần kinh mà còn vào một số các yếu tố khác. Những người có hệ thần kinh mạnh có thể dễ bị stress hơn đối với tác nhân là đơn điệu và kéo dài. Những người có hệ thần kinh yếu ít bị stress hơn đối với các tác nhân đơn điệu. Điều này cho thấy; sự khác biệt về stress ở cá nhân không chỉ phụ thuộc vào tình huống, tác nhân tác động, mà còn phụ thuộc vào đặc điểm hoạt động của hệ thần kinh. Các nhà sinh lý học thường chỉ tập trung mô tả các phản ứng sinh lý trước các tác động vào chủ thể, mà không nhận thấy tầm quan trọng của những đặc điểm tâm lý và hành vi trong các phản ứng sinh học của cơ thể. Sự xuất hiện của các phản ứng chống trả hoặc bỏ chạy phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức của chủ thể đối với kích thích (có hại hay không có hại). Lý thuyết của W. B. Cannon và H. Selye về phản ứng sinh lý của cơ thể trước một tác nhân gây stress đã bị nhiều mô hình lý thuyết khác chỉ trích. Một số nhà 18
  18. nghiên cứu đã cho rằng; cách thức đối phó của chủ thể đối với những tình huống nguy hiểm, sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các phản ứng sinh lý đối với tình huống đó[21]. Tác giả đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của nhận thức và sự kiểm soát của chủ thể đối với những phản ứng sinh học xảy ra do các kích thích từ bên ngoài. Hướng nghiên cứu thứ hai coi stress như sự tác động từ môi trường. Các công trình nghiên cứu về tổn thương tâm lý của những người bị mất người thân trong chiến tranh của Lindemann (1944) và nghiên cứu những chiến binh trong chiến tranh của Grinker và Spiegal (1945) đã cho thấy: không chỉ môi trường tàn khốc của chiến tranh gây ra stress, mà ngay cả những sự kiện ít nghiêm trọng hơn cũng được tích luỹ dần lại và gây stress cho chủ thể. Hướng nghiên cứu trên đã xem stress như một sự kiện của môi trường, yêu cầu cá nhân huy động mọi tiềm năng để đáp ứng. Stress trú ngụ trong sự kiện hơn là trú ngụ bên trong cá nhân [21] Holme và Rahe (1967) nghiên cứu stress trên quan điểm môi trường, và đã chỉ ra những sự kiện gây stress như: ly hôn, kết hôn, sinh con, mắc nợ, lễ giáng sinh. Mỗi sự kiện trên được xem như là những yếu tố gây stress và đòi hỏi cơ thể thích ứng. Nhiều nghiên cứu đã sử dung công cụ SRE (danh sách các sự kiện mới nhất) của Holme và Rahe để đánh giá quan hệ giữa stress và sức khoẻ. Những nghiên cứu này có thể giải thích stress trong thời điểm hiện tại và chẩn đoán xu hướng của nó trong tương lai. Rabkin và Struening (1976) nghiên cứu trên các bệnh nhân đột tử do bệnh tim đã làm rõ tương quan giữa số lượng với mức độ tác động của các yếu tố gây stress đối với căn bệnh này. Quan niệm stress như sự kiện từ môi trường cũng bị các lý thuyết, quan điểm khác phê phán. Một số nhà nghiên cứu cho rằng; các sự kiện không gây stress giống nhau ở các cá nhân khác nhau. Mức độ stress phụ thuộc vào ý 19
  19. nghĩa của sự kiện và những tiềm năng sẵn có ở mỗi cá nhân trong việc ứng phó với stress. Lazarus, Homikos và Rankin đã cho rằng quan niệm stress như một sự kiện từ môi trường là chưa hoàn chỉnh và nhấn mạnh; nhận thức sự kiện đóng vai trò trung tâm đối với stress [1, tr 4]. Như vậy, quan điểm sinh học và môi trường đều giống nhau ở chỗ; dựa vào mô hình kích thích–phản ứng (Stimulus–Response). Các quan điểm này đã không đề cập đến những yếu tố trung gian điều hoà tương tác giữa sự kiện (tác nhân) từ môi trường và các phản ứng sinh học bên trong. Hướng nghiên cứu thứ ba xem stress như quá trình tâm lý-quá trình tương tác giữa con người với môi trường, trong đó chủ thể nhận thức sự kiện từ môi trường để huy động tiềm năng của mình để ứng phó (Lazarus, 1966; Lazarus và Folkman, 1984). Ở đây, stress không chỉ “trú ngụ” trong sự kiện với vai trò tác nhân kích thích, mà còn trong cả phản ứng của cơ thể. Yếu tố nhận thức-hành vi ở đây đã đóng vai trò điều hoà giữa yếu tố kích thích và phản ứng của cơ thể. Quan điểm này nhấn mạnh mặt nhận thức-hành vi trong nghiên cứu stress và bù đắp được những thiếu sót của các quan điểm sinh học và quan điểm môi trường đối với stress đã phân tích ở trên. Yếu tố trung tâm của quan điểm tâm lý là coi stress như một quá trình tâm lý (nhận thức và hành vi) của chủ thể. Nhận thức là quá trình cá nhân tìm hiểu và đánh giá sự kiện, tác nhân từ môi trường (mức độ đe doạ, nguy hiểm). Sự kiện, tình huống chỉ có thể gây ra được stress khi chủ thể nhận thức, đánh giá là có hại hoặc thiếu nguồn lực ứng phó. Trong tình huống này chủ thể sẽ đưa ra các ứng phó cụ thể thông qua nhận thức, hành vi hoặc xúc cảm tương ứng. Quan điểm nhìn nhận stress như một quá trình tâm lý có hạn chế là đã xem nhẹ mối quan hệ giữa các phản ứng sinh học với nhận thức, hành vi, và 20
  20. xúc cảm. Như vậy, các hướng nghiên cứu trên chỉ tập trung vào một bình diện nào đó của stress và loại bỏ các bình diện khác. Điều này đã dẫn đến những nhầm lẫn trong nghiên cứu cũng như thực hành. Chúng tôi cho rằng khái niệm stress là một khái niệm đa diện, bao gồm những đáp ứng nhận thức, xúc cảm, hành vi và sinh lý của cơ thể đối với môi trường. 1.2.2. Các công trình nghiên cứu stress ở Việt Nam Người đầu tiên nghiên cứu stress dưới góc độ sinh lý và y học là giáo sư Tô Như Khuê. Những công trình của ông và cộng sự trong thời chiến tranh ( 1967- 1975) chủ yếu phục vị cho tuyển dụng, huấn luyện và nâng cao sức chiến đấu cho bộ đội và các binh chủng đặc biệt của Quân đội nhân dân Việt Nam. Sau năm 1975 đến nay, những nghiên cứu của ông về stress và cách chống stress đã được công bố trong một đề tài cấp nhà nước “Tìm hiểu tác dụng dưỡng sinh của võ thuật”. Phạm Ngọc Giao và Nguyễn Hữu Nghiêm đã nghiên cứu stress trong đời sống xã hội và cho xuất bản tác phẩn “Stress trong thời đại văn minh”. Theo hai tác giả trên, stress là một hiện tượng tâm-sinh lý hết sức phức tạp ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả công việc và cuộc sống của con người. Con người có thể ứng phó có hiệu quả với stress bằng việc điều chỉnh lối sống và luyện tập các phương pháp giải toả stress [6, tr. 11] Nguyễn Khắc Viện và Đặng Phương Kiệt là những người nghiên cứu stress theo hướng tiếp cận Tâm lý lâm sàng. Các nghiên cứu của họ được thực hiện trên trẻ em vào những năm 1990. Kết quả các công trình nghiên cứu của hai tác giả trên được tập hợp và xuất bản thành các bài giảng tại Trung tâm Nghiên cứu Tâm lý Trẻ em (NT) và tác phẩm “Tâm lý học và đời sống‟‟. Đặng Phương Kiệt là người có nhiều tâm huyết trong việc nghiên cứu, phổ biến tri thức về stress và cách thức ứng phó với stress ở Việt Nam. Ông cùng đồng nghiệp đã cho xuất bản bốn ấn phẩm về stress và cách phòng chống 21
  21. stress. Thứ nhất “Chung sống với stress” (2003); thứ hai “Stress và đời sống” (2003); thứ ba “Stress và sức khoẻ” (2003); thứ tư “Phòng chống stress” (2006). Theo ông stress là “Một lực nào đó (vật lý hay tâm lý) tác động vào hệ thống tạo ra sự căng thẳng hay làm sai lệch hệ thống, hoặc làm hỏng hệ thống đó nếu nó quá mạnh”. Như vậy, ông hiểu stress rất rộng nó liên quan tới toàn bộ hoạt động và ứng xử của con người trong cuộc sống. Năm 1997, Hội nghị khoa học về “Những rối loạn có liên quan đến stress ở trẻ em và thanh thiếu niên” đã được tổ chức tại Viện Sức khỏe Tâm thần, Bệnh viện Bạch Mai. Hội nghị đã có sự tham gia của nhiều nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác nhau. Các tham luận đã mô tả vấn đề stress ở trẻ em và thanh thiếu niên, coi đó là vấn đề hết sức nóng hổi. Nguyễn Thành Khải (2001) đã nghiên cứu stress của cán bộ quản lý ở một số cơ quan và tổ chức chính quyền địa phương. Kết quả nghiên cứu cho thấy: phần lớn (99,41%) cán bộ quản lý đều bị stress công việc, trong đó có 15,94% ở mức độ nặng (rất căng thẳng) và 83.47 % mức độ vừa (căng thẳng). Kết quả nghiên cứu còn chỉ ra nguyên nhân stress của cán bộ quản lý là: công việc căng thẳng, mâu thuẫn trong quan hệ “dọc” và “ngang”, nội bộ mất đoàn kết, môi trường làm việc không thụân lợi. Nguyễn Thu Hà và đồng nghiệp (Viện Y học Lao động và Vệ sinh môi trường) đã nghiên cứu đề tài “Điều tra stress nghề nghiệp ở nhân viên y tế” (2006). Tác giả đã điều tra trên 527 nhân viên y tế của bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Phụ Sản và Bệnh viện Hữu Nghị bằng các công cụ như: đánh giá mức độ stress theo điểm (dành cho người châu Á), trắc nghiệm lo âu của Zung, trắc nghiệm trầm cảm của Beck và điều tra bằng bảng hỏi. Kết quả điều tra cho thấy; 8.4 % bị stress ở mức cao; 33 % bị stress ở mức trung bình và 58.6 % ở mức độ thấp. Theo kết quả nghiên cứu một số yếu tố từ môi trường 22
  22. làm việc gây stress nghề nghiệp là: công việc quá tải, cường độ làm việc lớn, thời gian làm việc kéo dài, tính trách nhiệm công việc cao, sự căng thẳng khi tiếp xúc với bệnh nhân và người nhà của họ. [11, tr. 213]. Một nghiên cứu khác của Trung tâm Nghiên cứu phụ nữ (ĐHQGHN) năm 2008 khảo sát trên 200 học sinh THPT đã chỉ ra rằng 47% học sinh bị stress từ mức độ nhẹ, vừa và nặng. [22] Nhìn chung vấn đề stress dưới góc độ tâm lý học tại Việt Nam hiện nay đã và đang được chú ý nghiên cứu góp phần đem lại những cơ sở lý thuyết và kết quả thực tiễn giúp nâng cao đời sống tinh thần của người dân trong bối cảnh đất nước ta đang trong thời kỳ hội nhập và phát triển. Tuy nhiên, hầu hết các công trình nghiên cứu nói trên chưa đi sâu phân tích nguyên nhân của stress cũng như cách đối phó với stress. Đồng thời những công trình trong nước cũng chưa nghiên cứu giữa những người thuộc nhóm khí chất khác nhau thì có xu hướng như thế nào đối với stress? Đặc biệt ở đối tượng học sinh THPT- lứa tuổi với nhiều biểu hiện tâm lý phức tạp cần được quan tâm: áp lực việc học hành, thi cử, cũng như mối quan hệ bạn bè, thầy cô, cha mẹ Do vậy, việc đi sâu tìm hiểu mức độ, biểu hiện, nguyên nhân, cách ứng phó với stress của học sinh THPT trở nên cấp bách trong gia đoạn hiện nay. Liệu mức độ, biểu hiện, nguyên nhân, cách ứng phó ấy có sự liên quan đến các thay đổi về thể chất, cảm xúc và xã hội diễn ra ở mỗi cá nhân hay liên quan đến tính cách - tính hướng nội hay hướng ngoại ở từng người hay không? Nghiên cứu về vấn đề này là điều cực kỳ cần thiết để giúp học sinh THPT có thể giảm thiểu được được những ảnh hưởng tiêu cực của stress đối với việc học tập cũng như đời sống hàng ngày. 23