Luận văn Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu trong luật hình sự Việt Nam

pdf 39 trang vuhoa 25/08/2022 6300
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu trong luật hình sự Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_mat_khach_quan_cua_cac_toi_xam_pham_so_huu_trong_lu.pdf

Nội dung text: Luận văn Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu trong luật hình sự Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG NGỌC DINH MẶT KHÁCH QUAN CỦA CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG NGỌC DINH MẶT KHÁCH QUAN CỦA CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. ĐỖ ĐỨC HỒNG HÀ HÀ NỘI - 2016
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Hoàng Ngọc Dinh
  4. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự PGS : Phó giáo sư PLHS : Pháp luật hình sự QĐHP : Quyết định hình phạt Nxb : Nhà xuất bản TAND : Tòa án nhân dân TNHS : Trách nhiệm hình sự VKSND : Viện kiểm sát nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  5. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ MẶT KHÁCH QUAN CỦA CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 10 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu 10 1.1.1. Khái niệm mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu 10 1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu 17 1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của những quy định về mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu 20 1.2.1. Từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước năm 1985 21 1.2.2. Từ khi Bộ luật hình sự 1985 ra đời cho đến nay 25 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VỀ MẶT KHÁCH QUAN CỦA CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG Error! Bookmark not defined. 2.1. Thực trạng quy định về mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành Error! Bookmark not defined. 2.1.1. Thực trạng quy định về hành vi nguy hiểm cho xã hội của các tội xâm phạm sở hữu Error! Bookmark not defined. 2.1.2. Thực trạng quy định về hậu quả nguy hiểm cho xã hội của các tội xâm phạm sở hữu Error! Bookmark not defined. 2.1.3. Thực trạng quy định về mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của các tội xâm phạm sở hữu Error! Bookmark not defined.
  6. 2.1.4. Thực trạng quy định về các dấu hiệu khác thuộc mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu Error! Bookmark not defined. 2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định về mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành Error! Bookmark not defined. 2.2.1. Thực tiễn áp dụng các quy định về hành vi nguy hiểm cho xã hội của các tội xâm phạm sở hữu Error! Bookmark not defined. 2.2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định về hậu quả nguy hiểm cho xã hội của các tội xâm phạm sở hữu Error! Bookmark not defined. 2.2.3. Thực tiễn áp dụng các quy định về mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của các tội xâm phạm sở hữu Error! Bookmark not defined. 2.2.4. Thực tiễn áp dụng các quy định về các dấu hiệu khác thuộc mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu Error! Bookmark not defined. CHƢƠNG 3: Error! Bookmark not defined. HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VỀ MẶT KHÁCH QUAN CỦA CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHÁC BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC QUY ĐỊNH NÀY Error! Bookmark not defined. 3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện quy định về mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự Việt Nam và bảo đảm áp dụng đúng các quy định này Error! Bookmark not defined. 3.2. Hoàn thiện quy định về mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự Việt Nam Error! Bookmark not defined. 3.3. Một số giải pháp khác bảo đảm áp dụng đúng quy định về mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự Việt Nam Error! Bookmark not defined. KẾT LUẬN Error! Bookmark not defined. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 27
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Từ khi giành được độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho đến nay, Nhà nước luôn quan tâm đến việc xây dựng và phát triển nền kinh tế đất nước, đồng thời chú ý xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật để bảo vệ nền độc lập, dân chủ của đất nước, trong đó rất quan tâm, chú trọng đến vấn đề bảo vệ các quyền của con người, của công dân và pháp luật hình sự nhằm xử lý các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ, quyền sở hữu của công dân. Trong mỗi giai đoạn phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước ta đều có các chủ trương, đường lối, chính sách cụ thể nhằm bảo vệ nền độc lập, dân chủ, bảo vệ chế độ, an ninh chính trị quốc gia và phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của đất nước trong đó có vấn đề bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của từng thời kỳ. Trước diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm hiện nay. Trong thời gian qua, Nhà nước ta đã đề ra nhiều biện pháp nhằm đấu tranh đẩy lùi các loại tội phạm, đặc biệt là các tội xâm phạm sở hữu. Qua đó, tình hình tội phạm và trật tự trị an ở nước ta cơ bản được giữ vững và từng bước được khống chế. Mặc dù đã có sự phối hợp đồng bộ của cả hệ thống chính quyền và các cơ quan tư pháp, các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm nhưng tỷ lệ tội phạm xâm phạm sở hữu vẫn ở mức cao so với các loại tội phạm khác. Định tội danh, quyết định hình phạt là hoạt động trọng tâm, cốt lõi trong quá trình bảo vệ pháp luật. Nếu việc dịnh tội danh và quyết định hình phạt đúng sẽ mang lại những hiệu quả tích cực, ngược lại định tội danh và quyết định hình phạt sai sẽ để lại nhiều hậu quả tiêu cực về mặt xã hội, giảm 1
  8. lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan tư pháp nói riêng và các cơ quan chính quyền nói chung. Mặc dù trong thời gian qua, đã có những đóng góp đáng kể vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm xâm phạm sở hữu thông qua hoạt động xét xử, định tội danh và quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu nhưng không hẳn hoạt động xét xử, định tội danh và quyết định hình phạt nói chung, định tội danh và quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu nói riêng đã hoàn thiện và đạt kết quả cao nhất. Thực tế cho thấy, trong thời gian qua việc định tội danh và quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu của Tòa án các cấp còn tồn tại nhiều vi phạm, sai lầm; định tội danh và quyết định hình phạt còn có sự tùy tiện, thiếu thống nhất, làm ảnh chung tới kết quả đấu tranh phòng, chống tội phạm, làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân và ảnh hưởng tới hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, tội xâm phạm sở hữu nói riêng. Yêu cầu cấp thiết đề ra là các chính sách hình sự luôn phải có sự thay đổi, phát triển phù hợp, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của đất nước và bảo đảm tôn trọng giá trị con người và các quyền công dân của họ không bị xâm phạm. Chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong đấu tranh với các tội phạm nói chung, các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ, quyền sở hữu của công dân nói riêng nó có ý nghĩa quan trọng, góp phần bảo đảm giữ vững nền an ninh - chính trị quốc gia, tạo điều kiện ổn định trật tự xã hội và sự phát triển bền vững của đất nước, ngăn ngừa các nguy cơ bất ổn, khủng hoảng về an ninh, chính trị và sự phá hoại của các thế lực thù địch; nhất là trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa (XHCN) của dân, do dân, vì dân, đòi hỏi phải có một nền dân chủ cao, trong đó mọi quyền và lợi ích hợp pháp của công dân phải được tôn trọng và bảo đảm thực thi, không bị xâm phạm. Để 2
  9. luật hình sự ngày càng làm tốt hơn nhiệm vụ của mình, việc hoàn thiện Bộ luật hình sự (BLHS) là một đòi hỏi tất yếu khách quan. BLHS năm 1999 hiện hành tuy đã có những bước phát triển vượt bậc so với văn bản Pháp luật hình sự trước nó, nhưng do sự thay đổi nhanh chóng của kinh tế - xã hội, sự hội nhập quốc tế mạnh mẽ, đòi hỏi gắt gao của cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền nên không tránh khỏi những bất cập hạn chế, thiếu sót cần sớm được hoàn thiện. Đối với các tội xâm phạm sở hữu, thực tiễn đấu tranh đã đặt ra nhiều vấn đề về làm rõ những đặc trưng pháp lý của các tội danh, phạm vi của các tội xâm phạm sở hữu – và đặc biệt trong đó, nghiên cứu mặt khách quan của các tội phạm này chiếm một vị trí quan trọng. Tuy nhiên, quá trình đấu tranh gặp không ít khó khăn vì hiểu sai lệch bản chất về hành vi, hậu quả cũng như mối quan hệ nhân quả giữa chúng; điều này khiến thực tiễn xác định tội phạm, định tội danh và quyết định hình phạt còn chưa thống nhất và có nhiều điểm bất cập dẫn đến hiện tượng bỏ lọt tội phạm hoặc xử oan người vô tội. Xuất phát từ những lý do như đã nêu trên, người viết đã chọn đề tài “Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu trong Luật hình sự Việt Nam” với mong muốn góp phần hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật hình sự, nhằm đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của thực tiễn, đặc biệt là giai đoạn đất nước ta đang trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Mặt khách quan với tư cách là dấu hiệu pháp lý quan trọng của cấu thành tội phạm của các tội trong chương các tội xâm phạm sở hữu đã được để cập trong giáo trình về Luật hình sự tại nhiều cơ sở đào tạo luật ở nước ta. Có thể kể đến Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (tập I) của Trường đại học Luật Hà Nội (NXB Công an nhân dân). Đặc biệt là cuốn Giáo trình Luật hình sự 3
  10. Việt Nam, phần các tội phạm của Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội do GS. TSKH Lê Cảm chủ biên, đã thể hiện đậm nét những vấn đề cơ bản nhất của mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí có nghiên cứu “Đối tượng của các tội xâm phạm sở hữu”_Viện Nhà nước và pháp luật, số 2/1998, tr 50 – 57. Tiếp đó là trong những cuốn Bình luận khoa học về Bộ luật hình sự (phần các tội phạm) của Nguyễn Mai Bộ, Phùng Thế Vắc, Nguyễn Đức Mai, ThS. Phạm Thanh Bình, ThS. Nguyễn Sĩ Đại, Nxb Công an nhân dân, 2001. Ở góc độ luận văn thạc sĩ, ba công trình: “ Hành vi nguy hiểm cho xã hội với tư cách là dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của tội phạm” của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Linh, bảo vệ thành công năm 2010 tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội; tác giả Lê Phương Thùy với đề tài “Mặt khách quan của tội phạm với tư cách là một yếu tố cấu thành tội phạm”, bảo vệ thành công năm 2011 tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội và đề tài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về mặt khách quan của tội phạm trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Hoàng Nam Khánh, bảo vệ thành công năm 2014 tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội cũng đã đề cập đến mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu trong tổng thể nghiên cứu mặt khách quan của tội phạm nói chung. Liên quan đến tài liệu nghiên cứu vấn đề mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu còn được đề cập trong trong một số tài liệu chuyên khảo như: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí về "Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu"; GS. TS. Trịnh Quốc Toản, "Yếu tố chức vụ, quyền hạn trong các tội xâm phạm sở hữu"; "Một số vấn đề đồng phạm trong các tội xâm phạm sở hữu" Tuy nhiên, trong các công trình trên, các tác giả chỉ đề cập đến mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu một cách khái quát dưới góc độ luật hình sự 4
  11. hay tội phạm học. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta đã có một số công trình, tài liệu nghiên cứu cơ bản và trực diện về mặt khách quan và về các tội xâm phạm sở hữu. Tuy nhiên, do nền kinh tế - xã hội không ngừng vận động và biến đổi, thời gian qua số vụ án xâm phạm sở hữu luôn chiếm tỷ lệ cao, trong đó việc định tội danh và quyết định hình phạt của trên thực tế còn rất nhiều vi phạm, sai lầm gây bức xúc trong dư luận quần chúng, làm giảm lòng tin đối với pháp luật và chính sách của Đảng và Nhà nước. Những nghiên cứu về vấn đề mặt khách quan và các tội xâm phạm sở hữu vẫn nằm ở phạm vi lý luận, khái quát chưa chỉ rõ những tồn tại, vi phạm cụ thể ở trong những phạm vi không gian và thời gian khác nhau. Hiện nay, có thể khẳng định, chưa có công trình nào nghiên cứu về mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu một cách độc lập, có hệ thống, toàn diện từ lịch sử vấn đề đến quy định của pháp luật thực định và thực tiễn áp dụng cũng như đồng thời từ các góc độ luật hình sự để từ đó đề ra các biện pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả đấu tranh chống và phòng ngừa đối với mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu ở cấp độ luận văn thạc sỹ luật học dưới góc độ luật hình sự. Do đó, điểm mới về mặt khoa học của đề tài là lần đầu tiên trong khoa học luật hình sự đề cập đến riêng tội phạm này dưới góc độ một luận văn thạc sĩ luật học. Như vậy, tổng quan tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng định việc nghiên cứu đề tài "Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu trong Luật hình sự Việt Nam” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề về mặt khách quan của tội phạm và các yếu tố thuộc mặt khách quan của tội phạm. Bên cạnh đó 5
  12. đi sâu nghiên cứu về mặt khách quan và các yếu tố thuộc mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu trong Luật hình sự Việt Nam. 3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và những yếu tố thuộc mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu, những quy định của pháp luật hình sự được cụ thể hóa trong các điều luật về tội phạm và hình phạt trong Bộ luật hình sự hiện hành. Ngoài ra, luận văn còn nghiên cứu các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu trong thực tiễn xét xử và đề xuất việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự có liên quan như các chế định về tội phạm, hình phạt, cấu thành tội phạm trên cơ sở những nghiên cứu về mặt khách quan của nhóm tội xâm phạm sở hữu. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 4.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn Mục đích nghiên cứu là làm rõ những vấn đề chung về mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu và thực trạng việc quy định mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu trong luật hình sự Việt Nam: khái niệm mặt khách quan, các tội xâm phạm sở hữu, mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu, làm rõ tình hình thực tế việc quy định mặt khách quan đối với các tội xâm phạm sở hữu trong giai đoạn 2006 - 2015, đồng thời phân tích làm rõ những vi phạm, sai lầm, xung quanh việc định tội danh và quyết định hình phạt đối với nhóm tội này, từ đó chỉ ra nguyên nhân của những vi phạm, sai lầm. Thông qua đó đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu trong luật hình sự Việt Nam. Nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về nội dung, bản chất của mặt khách quan và các yếu tố thuộc mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu. Ngoài ra, luận văn còn nghiên cứu về vai trò của các yếu tố đó đối với một số 6
  13. hoạt động thực tiễn pháp lý như định tội danh, quyết định hình phạt cũng như xây dựng khái niệm khoa học về tội phạm trong luật hình sự. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu về mặt khách quan và các yếu tố thuộc mặt khách quan của tội phạm và của các tội xâm phạm sở hữu trên phương diện lý luận chung và trong các quy định của pháp luật hình sự hiện hành. Qua đó, nghiên cứu, phân tích, đánh giá cơ sở khoa học và cơ sở pháp lý của việc xây dựng các chế định khác về tội phạm, chỉ ra những điểm chưa hợp lý, chưa hoàn thiện của các quy định đó để đề xuất việc chỉnh sửa và hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật hình sự trong thực tiễn. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận của đề tài Cơ sở lý luận của đề tài này là các thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: Luật hình sự, luật Tố tụng hình sự, tội phạm học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài đăng trên tạp chí của các nhà khoa học – luật gia Việt Nam. Ngoài ra, để góp phần phân tích khoa học nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và vai trò của mặt khách quan trong thực tiễn xác định tội phạm, định tội danh và quyết định hình phạt, luận văn còn nghiên cứu nhiều văn bản pháp luật cũng như những giải thích thống nhất có tính chất chỉ đạo thực tiễn xét xử trong các văn bản thuộc lĩnh vực pháp luật hình sự do Tòa án nhân dân tối cao và các cơ quan bảo vệ pháp luật ban hành. 5.2. Phương pháp nghiên cứu đề tài Trên cơ sở phương pháp luận của: Chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng, phép biện chứng duy vật cuả chủ nghĩa Mác – Lênin để 7
  14. nghiên cứu sâu về những vấn đề tương ứng dưới các luận điểm tư tưởng về xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp, củng cố pháp chế, tính tối thượng của pháp luật và bảo vệ một cách hữu hiệu các quyền tự do của công dân bằng hệ thống tư pháp hình sự ở Việt Nam với tính chất là các giá trị xã hội cao quý nhất của loài người và của nền văn minh nhân loại đã được thừa nhận chung. Bên cạnh đó trong quá trình nghiên cứu tác giả còn sử dụng đồng bộ các phương pháp khoa học như: phương pháp phân tích, phương pháp logic, phương pháp thống kê hình sự, phương pháp tổng hợp, phương pháp đối chiếu, phương pháp so sánh, phương pháp chứng minh, v.v. Trong đó đặc biệt coi trọng các phương pháp hệ thống, lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, khảo sát thực tiễn, điều tra xã hội học để rút ra những kết luận, đề xuất phù hợp nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự có liên quan đến mặt khách quan của tội phạm. 6. Đóng góp mới của đề tài. Thông qua việc nghiên cứu về mặt khách quan của tội phạm, cụ thể là của các tội xâm phạm sở hữu một cách toàn diện và đầy đủ, đặc biệt là nghiên cứu về ý nghĩa và vai trò của các yếu tố thuộc mặt khách quan của tội phạm đối với các chế định pháp luật hình sự như tội phạm, phân loại tội phạm, hình phạt, định tội danh, quyết định hình phạt, luận văn góp phần làm sáng tỏ các nội dung thuộc mặt khách quan trên cơ sở lý luận và thực tiễn pháp lý, thông qua đó hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự. Trên cơ sở phân tích, làm sáng tỏ khái niệm về mặt khách quan và các yếu tố thuộc mặt khách quan của tội phạm cụ thể là các tội xâm phạm sở hữu về mặt lý luận, luận văn cũng góp phần đánh giá tính chính xác và căn cứ khoa học của quy định về tội phạm và hình phạt trong Bộ luật hình sự hiện hành, thông qua đó đề xuất sửa đổi và hoàn thiện những quy định này theo hướng đầy đủ và thống nhất. 8
  15. 7. Ý nghĩa của đề tài Luận văn này là tài liệu tham khảo phục vụ cho việc học tập và nghiên cứu khoa học đối với học viên chuyên ngành tư pháp hình sự. Nội dung luận văn sẽ có ý nghĩa thiết thực, bổ ích, cần thiết khi tìm hiểu về những dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm nói chung và của các tội xâm phạm sở hữu nói riêng. Những kiến nghị khoa học trong luận văn sắp tới sẽ được sử dụng trong việc pháp điển hóa luật hình sự của Nhà nước, đồng thời đóng góp có ý nghĩa thiết thực cho các cán bộ áp dụng pháp luật trong việc phát hiện kịp thời và xử lý nhanh chóng, công minh các hành vi phạm tội theo đúng quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ vững chắc các quyền tự do của công dân với phương châm “không bỏ lọt kẻ phạm tội, tránh làm oan người vô tội”. 8. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu trong Luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Thực trạng quy định về mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu trong Luật hình sự Việt Nam hiện hành và thực tiễn áp dụng Chương 3: Hoàn thiện quy định về mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu trong Luật hình sự Việt Nam và một số giải pháp khác đảo đảm áp dụng đúng các quy định này. 9
  16. CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ MẶT KHÁCH QUAN CỦA CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu 1.1.1. Khái niệm mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu Khái niệm mặt khách quan Tội phạm là hiện tượng tiêu cực tồn tại trong mọi quốc gia. Nó cũng là hành vi của con người nhưng hành vi đó có những đặc trưng riêng. Tất cả những đặc trưng cơ bản của tội phạm và những chế định liên quan đều được quy định trong pháp luật hình sự của mỗi nước. Căn cứ vào đó, chúng ta xác định được hành vi nào bị coi là tội phạm và phải chịu chế tài tương ứng do pháp luật quy định. Ở Việt Nam, tội phạm được luật hình sự quy định là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hay vô ý. Sự tồn tại của con người trong thế giới khách quan được biểu hiện bằng hoạt động đối với môi trường xung quanh và thông qua hành vi. Hành vi đó luôn chứa đựng cái “tôi” của chủ thể, đó chính là mặt chủ quan. Để nhận thức về hành vi và chủ thể thực hiện hành vi ấy, phải thông qua những diễn biến và biểu hiện bên ngoài, hay nói cách khác phải thông qua mặt khách quan. Chính vì vậy, khi nghiên cứu về tội phạm, một vấn đề được đặt ra đó là bên cạnh khái niệm được quy định trong luật thì những biểu hiện bên ngoài của tội phạm, những gì diễn ra trong thế giới khách quan, đã được con người nhận thức như thế nào, vai trò của những yếu tố đó trong tổng thể các yếu tố của cấu thành tội phạm được thể hiện ra sao? Bởi xét đến cùng, thì hành vi phạm tội là thể thống nhất giữa các yếu tố khách quan và chủ quan, giữa những diễn biến tâm lý bên trong của 10
  17. người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và những biểu hiện diễn ra bên ngoài mà ta có thể nhận biết trực tiếp bằng các giác quan. Mặt khách quan và chủ quan của tội phạm có liên hệ chặt chẽ với nhau, bên cạnh việc nghiên cứu mặt chủ quan, thì việc nghiên cứu mặt khách quan của tội phạm với tư cách là một yếu tố cấu thành tội phạm là cần thiết vì tội phạm thể hiện một cách rõ nét nhất các yếu tố của nó thông qua mặt khách quan, những diễn biến bên ngoài mà con người nhận thức được không phụ thuộc vào ý thức của chủ thể. Bất kỳ tội phạm nào xảy ra trong thực tế khách quan cũng đều có những biểu hiện diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài mà con người có thể nhận biết trực tiếp được. [19; tr 185] Mặt khách quan là một yếu tố quan trọng của tội phạm, tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm do tất cả các yếu tố của cấu thành tội phạm quyết định nhưng nếu phân tích từng yếu tố ta thấy chỉ khi nào người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thì thái độ chủ quan của họ mới có ý nghĩa về hình sự, khách thể mới bị xâm phạm hoặc bị đe dọa xâm phạm. Hiện nay, có nhiều cách diễn đạt khác nhau về mặt khách quan của tội phạm: Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan [26, tr.91]. Theo đó, những biểu hiện diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài mà con người có thể trực tiếp nhận biết được là: Hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng như mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả; các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội (công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội ) Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của sự xâm hại nguy hiểm đáng kể cho xã hội đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự, 11
  18. tức là sự thể hiện cách xử sự có tính chất tội phạm trong thực tế khách quan [19,tr.344]. Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm đối lập với mặt chủ quan là mặt bên trong của tội phạm, nhưng nó không nằm ngoài tội phạm mà nó là một mặt của cấu thành tội phạm, nó là những biểu hiện khách quan mà bằng những giác quan của con người chúng ta có thể nhận biết được như: nhìn thấy được, nghe thấy được Hay tương tự như vậy: Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài của tội phạm Là một trong bốn yếu tố của tội phạm, một mặt trong thể thống nhất với mặt chủ quan của hành vi phạm tội. Những biểu hiện của mặt khách quan của tội phạm là hành vi, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả đó cũng như các điều kiện bên ngoài khác như công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm Trong đó, biểu hiện hành vi khách quan là biểu hiện cơ bản nhất của mặt khách quan được phản ánh trong tất cả các cấu thành tội phạm. Những biểu hiện khác chỉ được phản ánh trong một số cấu thành tội phạm [40, tr.77- 78]. Như vậy, mặc dù có nhiều cách diễn đạt khác nhau về định nghĩa mặt khách quan của tội phạm, nhưng nhìn chung quan điểm về mặt khách quan của tội phạm là đồng nhất giữa các nhà nghiên cứu: Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan hay nói cách khác đó là sự thể hiện cách xử sự có tính chất tội phạm trong thực tế khách quan. Các tội xâm phạm sở hữu 12
  19. Quan hệ sở hữu là một loại quan hệ giữa người với người trong quá trình chiếm hữu những của cải vật chất trong xã hội. Nó ra đời cùng với các hoạt động kinh tế và được luật hóa thành “quyền sở hữu” khi xuất hiện Nhà nước và pháp luật. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, đặc biệt là Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật dân sự 2005 thì quyền sở hữu là quyền cơ bản của công dân, bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản. Các quyền này được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. [55, tr 145] Điều 182 Bộ luật dân sự quy định: "Quyền chiếm hữu là quyền của chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, chi phối tài sản thuộc sở hữu của mình. Người không phải là chủ sở hữu cũng có quyền chiếm hữu tài sản trong trường hợp được chủ sở hữu chuyển giao hoặc do pháp luật quy định" [52]. Điều 192 Bộ luật dân sự cũng quy định: "Quyền sử dụng là quyền của chủ sở hữu khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. " [52]. Đối với những người không phải là chủ sở hữu cũng có quyền sử dụng tài sản trong các trường hợp được chủ sở hữu chuyển giao quyền sử dụng hoặc do pháp luật quy định. Quyền định đoạt được quy định tại Điều 195 Bộ luật dân sự là "quyền của chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu tài sản của mình cho người khác hoặc từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản" [52], như chủ sở hữu có quyền tự mình bán, trao đổi, cho tặng, cho vay để thừa kế, từ bỏ hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác đối với quyền sở hữu. Ba quyền trên hợp thành quyền sở hữu đối với tài sản - Đây là quyền quan trọng được pháp luật bảo vệ, được Nhà nước ta tôn trọng và bảo vệ, Điều 51 Hiến pháp 2013 quy định: 13
  20. Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Quyền sở hữu ở đây là sở hữu về tài sản chứ không phải là sở hữu công nghiệp hay sở hữu trí tuệ. Các tội xâm phạm sở hữu là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản hoặc xâm phạm vào một trong ba quyền nói trên. Theo đó, ta có khái niệm sau: Các tội xâm phạm sở hữu là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định tại chương XIV Bộ luật hình sự, có lỗi, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và cá nhân. Các tội xâm phạm sở hữu quy định trong chương XIV Bộ luật hình sự 1999 là các tội được sát nhập từ các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa quy định tại chương IV và các tội xâm phạm sở hữu công dân quy định tại chương VI Bộ luật hình sự 1985. Với 13 tội danh phản ánh đúng bản chất của tên chương là các tội xâm phạm sở hữu. Căn cứ vào tính chất và đặc điểm của hành vi phạm tội, có thể phân chia các tội xâm phạm sở hữu thành hai loại: Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt từ Điều 133 đến Điều 140 và các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt, từ Điều 141 đến Điều 145 Bộ luật hình sự. - Nhóm các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt bao gồm: Tội cướp tài sản - Điều 133; Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản - Điều 134; Tội cưỡng đoạt tài sản - Điều 135; Tội cướp giật tài sản - Điều 136; Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản - Điều 137; Tội trộm cắp tài sản - Điều 138; Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản - Điều 139; Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản - Điều 140. 14
  21. - Nhóm các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt bao gồm: Tội chiếm giữ trái phép tài sản – Điều 141; Tội sử dụng trái phép tài sản – Điều 142; Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản – Điều 143; Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước – Điều 144; Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản – Điều 145. Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu - Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt: Đặc trưng ở dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả tác hại. Bằng hành vi chiếm đoạt với các thủ đoạn khác nhau, các tội này có cùng đặc điểm là xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác và cùng được thực hiện bằng hành động. [30; tr. 30] Hành vi chiếm đoạt tài sản: được hiểu là người phạm tội cố ý chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản đang thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác thành tài sản của mình. Hành vi chiếm đoạt được thực hiện bằng nhiều phương pháp, thủ đoạn khác nhau nhưng tất cả mọi hành vi chiếm đoạt đều thực hiện bằng phương pháp chủ động tích cực (phương pháp hành động), biến tài sản của người khác thành tài sản của mình. Theo đó, đặc điểm của hành vi chiếm đoạt là bằng hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc những hành vi khác làm cho chủ sở hữu bị tê liệt về ý chí (không nhận biết được sự việc xảy ra) hoặc làm tê liệt khả năng chống cự (biết sự việc xảy ra nhưng không có khả năng phản kháng) làm cho chủ sở hữu mất đi khả năng thực hiện quyền sở hữu của mình. Xét về mặt pháp lý, đây là hành vi chiếm đoạt bất hợp pháp nên dù rằng chủ sở hữu mất đi khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng hay định đoạt của mình nhưng họ không mất đi quyền sở hữu đối với tài sản. Hành vi chiếm đoạt bắt đầu và kết thúc tùy thuộc vào tính chất tài sản và thủ đoạn chiếm đoạt. Nếu trong quá trình thực hiện hành vi chiếm đoạt, nếu người phạm tội thay đổi từ 15