Luận văn Luận tội của kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự từ thực tiễn Thành phố Hải Phòng
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Luận tội của kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự từ thực tiễn Thành phố Hải Phòng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_luan_toi_cua_kiem_sat_vien_tai_phien_toa_hinh_su_tu.pdf
Nội dung text: Luận văn Luận tội của kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự từ thực tiễn Thành phố Hải Phòng
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐỖ THỊ DIỄM HẰNG LUẬN TỘI CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG Chuyên ngành : Luật Hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60. 38. 01. 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn HÀ NỘI, 2016
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam kết luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của tôi. Các tài liệu, tư liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn dẫn rõ ràng, các kết quả nghiên cứu là quá trình lao động trung thực của tôi. Hà Nội, Ngày 25 tháng 07 năm 2016 TÁC GIẢ LUẬN VĂN Đỗ Thị Diễm Hằng
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ LUẬN TỘI CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ 9 1.1. Khái niệm, đặc điểm luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự 9 1.2. Phân biệt luận tội với cáo trạng 12 1.3. Cơ sở và ý nghĩa của hoạt động luận tội 14 1.4. Nội dung hoạt động luận tội 19 Chương 2: HOẠT ĐỘNG LUẬN TỘI CỦA KIỂM SÁT VIÊN TỪ THỰC TIỄN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG 35 2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội có tác động đến tình hình tội phạm và hoạt động luận tội trên địa bàn thành phố Hải Phòng 35 2.2. Thực trạng hoạt động luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng 40 Chương 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM HOẠT ĐỘNG LUẬN TỘI CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM TỪ THỰC TIỄN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG 55 3.1. Yêu cầu tăng cường biện pháp bảo đảm hoạt động luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm 55 3.2. Giải pháp tăng cường triển khai các biện pháp thực hiện quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động luận tội của Kiểm sát viên 56 3.3. Giải pháp khác 62 KẾT LUẬN 70 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. So sánh mức độ gia tăng của tội phạm trên địa bàn thành phố Hải Phòng giai đoạn 2011 - 2015 (số lượng vụ án, số lượng bị cáo đã xét xử, số lượng bị cáo đình chỉ xét xử) 37 Bảng 2.2. Số lượng vụ án Tòa án cấp sơ thẩm tại thành phố Hải Phòng đã xét xử bị kháng cáo, kháng nghị (2011 - 2015) 43
- DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự HĐXX Hội đồng xét xử KSND Kiểm sát nhân dân KSV Kiểm sát viên TAND Tòa án nhân dân TTHS Tố tụng hình sự VAHS Vụ án hình sự VKS Viện kiểm sát VKSND Viện Kiểm sát nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa THQCT Thực hành quyền công tố KSXX Kiểm sát xét xử
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng về một số nhiệm vụ trọng tâm trong công tác tư pháp định hướng: “Viện kiểm sát nhân dân các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, đảm bảo tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác, Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa ”[6]. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng về chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 tiếp tục nhấn mạnh: " Đổi mới việc tổ chức phỉên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhỉệm của người tỉến hành tổ tụng và người tham gia tố tụng theo hướng đảm bảo tính công khai, dân chủ, nghiêm mình; nâng cao tính tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp ,"[7]. Theo đó, nhằm thể chế hoá các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, trong thời gian qua pháp luật nước ta nói chung và pháp luật hình sự, tố tụng hình sự nói riêng đã có nhiều chuyển biến và thay đổi tích cực. Trong đó phải kể đến sự ra đời của Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 và gần đây nhất là Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Trong tổ chức bộ máy nhà nước, Viện kiểm sát nhân dân hoạt động độc lập và chịu trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ: bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất [24]. Viện kiểm sát nhân dân có chức năng thực 1
- hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam [33, Đ.2]. Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội cũng như không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái luật. Hiện nay theo quy định của pháp luật ở nước ta, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan duy nhất có chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố Nhà nước, trình bày quan điểm về việc xử lý đối với bị cáo và quan điểm về việc giải quyết đối với vụ án thông qua hoạt động luận tội - hoạt động khẳng định rõ nét nhất vai trò công tố của Viện kiểm sát tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Mặc dù, trong thời gian qua, hoạt động luận tội của Viện kiểm sát trên địa bàn thành phố Hải phòng đã có nhiều chuyển biến tích cực nhưng thực tiễn phiên tòa cho thấy vẫn còn nhiều trường hợp KSV kết tội bị cáo còn khiên cưỡng, giữ nguyên quan điểm truy tố, không tranh luận lại được hết quan điểm của bị cáo và luật sư bào chữa khiến bị cáo và luật sư không "tâm phục khẩu phục" với quyết định truy tố của VKS. Nguyên nhân sâu xa của bất cập trên một phần chính là do Kiểm sát viên đã chưa làm tròn hết vai trò của mình, chưa thực hiện tốt hoạt động tranh tụng tại phiên tòa nói chung và hoạt động luận tội tại phiên tòa nói riêng. Cụ thể phần luận tội của Kiểm sát viên chưa đủ sức thuyết phục, chưa lập luận được hết các vấn đề để làm căn cứ buộc tội bị cáo, còn nhiều "khe hở" để luật sư bào chữa "vin" vào 2
- làm lý do yêu cầu Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung gây ảnh hưởng đến vị thế và chức năng của Viện kiểm sát tại phiên tòa. Do đó, việc nghiên cứu để làm sáng tỏ về lý luận hoạt động luận tội, đánh giá thực trạng thực hiện hoạt động luận tội của Kiểm sát viên hiện nay từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân tại thành phố Hải Phòng nhằm tìm ra giải pháp để nâng cao chất lượng của hoạt động luận tội đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp là việc làm hết sức cần thiết. Vì vậy, với các lý do trên, tôi chọn đề tài "Luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự từ thực tiễn thành phố Hải Phòng" làm đề tài luận văn thạc sỹ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến hoạt động luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, trong đó phải kể đến các công trình như: - Dương Thanh Biểu (2007), Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm, NXB Tư pháp, Hà Nội; Trong công trình nghiên cứu khoa học của mình, tác giả đã khái quát khái niệm, căn cứ pháp luật, địa vị pháp lý, thực trạng luận tội trong thời gian qua và kỹ năng xây dựng bản luận tội, kỹ năng trình bày lời luận tội của Kiểm sát viên. Đồng thời phân biệt, chỉ ra sự khác nhau giữa bản luận tội với các văn bản pháp lý khác (bản kết luận điều tra, cáo trạng). - Trần Văn Độ (2004), Bản chất của tranh tụng tại phiên tòa, Tạp chí Khoa học pháp luật số 04, Hà Nội; Tác giả khẳng định nội dung tranh tụng tại phiên tòa được thực hiện cả trong giai đoạn bắt đầu, trong xét hỏi và trong tranh luận. Tùy theo địa vị tố tụng mà người tham gia tố tụng thực hiện nội dung tranh luận khác nhau. Ví dụ: nội dung của tranh tụng trong giai đoạn tranh luận tại phiên tòa bao gồm 3
- việc các bên tham gia tố tụng đề nghị áp dụng luật để bảo vệ quan điểm của mình trong giải quyết vụ án theo chức năng, nhiệm vụ được giao. Cụ thể: trong phiên tòa hình sự, đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng pháp luật hình sự để bảo vệ cáo trạng, bảo vệ việc buộc tội; người bào chữa đề nghị áp dụng pháp luật hình sự để gỡ tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo - Nguyễn Đức Mai (2009), Đặc điểm của mô hình tranh tụng và phương hướng hoàn thiện mô hình tổ tụng hình sự ở Việt Nam, Tạp chí Tòa án nhân dân số 23, Hà Nội; Tác giả khái quát về một số mô hình tố tụng trên thế giới, căn cứ vào các dấu hiệu chung nhất có thể phân thủ tục xét xử các vụ án hình sự ở các nước trên thế giới thành hai hệ tố tụng cơ bản: Tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn (xét hỏi). Cả hai hệ tố tụng này đều có mục đích cơ bản là tim ra sự thật và hoạt động theo nguyên tắc "kẻ có tội phải bị trừng phạt, người vô tội phải được tự do”. Điểm khác biệt giữa chúng là ở sự giả định về cách thức tốt nhất để tìm ra sự thật. - Võ Thị Hồng Luyến (2011), Một số vấn đề về hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm, Tạp chí Kiểm sát số 1; Dựa trên việc phân tích mục đích, phạm vi, vai trò của hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà xét xử hình sự sơ thẩm, tác giả đưa ra khái niệm về “hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà xét xử hình sự sơ thẩm” là: Toàn bộ hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên khi khai mạc phiên tòa cho đến khi kết thúc phần tranh luận nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan, làm rõ tất cả các tình tiết của vụ án, bảo vệ quan điểm của Viện kiếm sát trong bản cáo trạng, thuyết phục Hội đồng xét xử ra các quyết định theo ý kiến đề nghị cùa mình giúp cho Hội đồng xét xử ra một bàn án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. 4
- - Trần Duy Bình (2011), Thực trạng và một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp, Tạp chí Kiểm sát số 8; Trong bài viết của mình, tác giả Trần Duy Bình đã nêu lên thực trạng tranh tụng của Kiểm sát viên - chủ thể thực hiện chức năng buộc tội tại phiên tòa, trong đó tác giả có nhắc đến luận tội và đối đáp trong tranh luận của Kiểm sát viên chưa chặt chẽ và còn lúng túng trước các tình huống phát sinh tại phiên tòa; còn tình trạng đề xuất mức án chưa sát với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm. Ngoài ra, do trình độ, năng lực của một số Kiểm sát viên còn hạn chế; việc nghiên cứu hồ sơ, chứng cứ một số vụ án chưa kỹ, chưa toàn diện, còn có biểu hiện chủ quan, đơn giản trong nghiên cứu. Cá biệt có vụ án không nắm chắc, nghiên cứu không sâu, không bảo vệ được quan điểm của VKS; còn lúng túng khi xử lý các tình huống phát sinh hoặc những nội dung có sự thay đổi. Việc xét hỏi và tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa hiện nay vẫn là khâu yếu ở cấp sơ thẩm (nhất là ở cấp huyện). Một số Kiểm sát viên còn thiếu kinh nghiệm nên khi dự kiến, chuẩn bị nội dung xét hỏi, tranh luận chưa sát, khi tranh luận thiếu sắc bén, tính thuyết phục không cao, có lúc còn bị động khi phát biểu quan điểm tại phiên tòa dẫn đến chất lượng thực hành quyền công tố tại phiên tòa bị hạn chế. - Nguyễn Văn Khoát (2012), Hoạt động luận tội trong tố tụng hình sự Việt Nam, luận văn thạc sĩ Luật học, thành phố Hồ Chí Minh; Ngoài ra, còn nhiều công trình của nhiều tác giả khác đã được đăng trên các báo và tạp chí chuyên ngành, các báo cáo tổng kết công tác, các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ, các chuyên đề của Viện kiểm sát nhân dân tối cao qua các năm, các đề tài khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ 5
- Tuy nhiên, có thể nhận thấy hầu hết các công trình nghiên cứu trên đều chủ yếu tập trung phân tích hoạt động tranh tụng trong đó có bao gồm hoạt động luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự chứ không đi sâu phân tích riêng về hoạt động luận tội, đặc biệt chưa có công trình nào nghiên cứu về hoạt động luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự từ thực tiễn thành phố Hải Phòng và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện hoạt động này của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân nói chung và Kiểm sát viên tại thành phố Hải Phòng nói riêng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện lý luận cơ bản, các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về luận tội và thực trạng luận tội của Kiểm sát viên tại phiên toà hình sự từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng, luận văn đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hoạt động luận tội của Kiểm sát viên khi thực hành quyền cồng tố tại các phiên tòa hình sự sơ thẩm. Để thực hiện được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài gồm có: Một là, phân tích và làm rõ cơ sở lý luận, pháp lý về luận tội và hoạt động luận tội quy định trong pháp luật tố tụng hình sự hiện hành ở nước ta. Hai là, phân tích thực trạng chất lượng luận tội của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân hai cấp tại thành phố Hải Phòng từ năm 2011 đến năm 2015, từ đó rút ra kết quả đã đạt được, những tồn tại hạn chế cần khắc phục và những nguyên nhân của những kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế làm cơ sở cho việc đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao kỹ năng luận tội, chất lượng luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa hỉnh sự sơ thẩm theo yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay. 6
- 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận, quy định của pháp luật và thực trạng thực hiện các quy định liên quan đến hoạt động luận tội của Kiểm sát viên trên địa bàn thành phố Hải Phòng. Về phạm vi nghiên cứu, Luận văn không nghiên cứu thực trạng luận tội của Viện kiểm sát quân sự trên địa bàn thành phố Hải Phòng mà chỉ nghiên cứu hoạt động này của Viện kiểm sát nhân dân hai cấp tại thành phố Hải Phòng trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2015. Mặt khác, BLTTHS năm 2015 đã được ban hành, nhưng theo Nghị quyết 144/2016/QH13 về việc lùi hiệu lực thi hành của BLTTHS số 101/2015/QH13 từ ngày 01 tháng 7 năm 2016 đến ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 có hiệu lực thi hành , khi phân tích quy định về luận tội của Viện kiểm sát trong BLTTHS năm 2003 tác giả còn đối chiếu với BLTTHS năm 2015 và chỉ ra những điểm đã được khắc phục. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê qua khảo sát thực tế, phương pháp phỏng vấn trực tiếp các Kiểm sát viên có nhiều năm công tác trong ngành, để thu thập và đúc rút thành kinh nghiệm phục vụ cho việc hoàn thành luận văn. 6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài Kết quả nghiên cứu luận văn góp phần làm phong phú công tác nghiên cứu lý luận về hoạt động luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ 7
- thẩm, đồng thời tạo nguồn tài liệu tham khảo phục vụ cho quá trình nghiên cứu, giảng dạy, học tập của các cán bộ, giáo viên và sinh viên chuyên ngành Luật nói chung và các cán bộ, Chuyên viên đào tạo về nghiệp vụ kiểm sát nói riêng. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung Luận được trình bày thành ba chương cụ thể như sau: - Chương 1: Khái quát về luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự. - Chương 2: Thực trạng hoạt động luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng. - Chương 3: Giải pháp tăng cường biện pháp bảo đảm hoạt động luận tội tại phiên tòa hình sự sơ thẩm từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng. 8
- Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ LUẬN TỘI CỦA KIỂM SÁT VIÊN TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự Luận tội là thuật ngữ pháp lý được sử dụng trong lĩnh vực tố tụng hình sự ở trình tự xét xử sơ thẩm. Dưới những góc độ nghiên cứu khác nhau mà cách hiểu về "luận tội" cũng khác nhau. Theo nghĩa chung nhất, luận tội là "phân tích, cân nhắc để xét tội” [38, tr.596]. Theo nghĩa pháp lý đơn thuần, "luận tội là phân tích tội trạng, đề nghị kết tội bị cáo" [37, tr.189]. Theo giáo trình Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự của Học viện tư pháp: "Luận tội là một trong những hoạt động thực hành quyền công tố, là sự buộc tội chính thức của Viện kiểm sát đối với bị cáo, thể hiện quan điểm của Viện kiểm sát về vụ án, kết luận tội danh, hình phạt cũng như các biện pháp xử lý khác đối với bị cáo, đồng thời thông qua đó đề xuất áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm" [9, tr. 177]. Theo tài liệu tập huấn kỹ năng viết luận tội của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng, luận tội là: "lời phát biểu của Kiểm sát viên với tư cách là đại diện cho Nhà nước buộc tội các bị cáo một cách công khai trước phiên tòa xét xử các bị cáo theo thủ tục sơ thẩm" [36]. Có thể nhận thấy, các tài liệu, công trình nghiên cứu khoa học nêu trên đều tập trung khẳng định: luận tội là sự phân tích, đánh giá của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm để qua đó cân nhắc, xét tội cho bị cáo. Dưới góc độ lý luận và góc độ pháp lý, luận tội phải căn cứ vào những chứng cứ, tài liệu, đồ vật đã được kiểm tra tại phiên tòa và ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa. Sau khi phân tích, đánh giá khách 9
- quan, toàn diện, đầy đủ các chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội đó gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án, Kiểm sát viên đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung của bản cáo trạng hoặc kết luận về tội nhẹ hơn; đề nghị mức hình phạt chính, hình phạt bổ sung, biện pháp tư pháp, trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng; kiến nghị các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật. Khi Kiểm sát viên trình bày bản luận tội đồng nghĩa với việc mở ra một giai đoạn mới - giai đoạn tranh luận tại phiên tòa. Tại giai đoạn này, luận tội của Kiểm sát viên là cơ sở để bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu cũng như lập luận của mình để đối đáp lại với quan điểm của Viện kiểm sát đồng thời đưa ra đề nghị về nội dung vụ án. Chủ toạ phiên tòa không hạn chế thời gian tranh luận và tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa, bị hại, người tham gia tố tụng khác tranh luận, trình bày hết ý kiến nhưng có quyền cắt những ý kiến không liên quan đến vụ án và ý kiến lặp lại. Chủ tọa phiên tòa có quyền yêu cầu Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến của người bào chữa, người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận. Luận tội có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa. Đặc điểm của luận tội thể hiện ở chỗ: Luận tội là lời phát biểu trực tiếp của Kiểm sát viên khi tham gia phiên tòa hình sự sơ thẩm; Luận tội được Kiểm sát viên được trình bày sau khi đã kết thúc phần điều tra công khai trước Tòa, mở ra giai đoạn mới - giai đoạn tranh luận tại phiên tòa. Nếu Kiểm sát viên chưa luận tội thì chưa có cơ sở để bên bào chữa phát biểu ý kiến tranh 10
- luận. Trong phần tranh luận nếu thấy có những tình tiết vụ án chưa được hỏi, chưa được làm sáng tỏ thì Hội đồng xét xử quyết định trở lại việc xét hỏi và xét hỏi xong lại tiếp tục tranh luận; Luận tội của Kiểm sát viên là quan điểm chính thức của Viện kiểm sát trong việc buộc tội bị cáo mà không phụ thuộc vào nội dung của bản cáo trạng đã công bố trước Tòa. Trong bản luận tội, Kiểm sát viên có thể rút toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị Tòa án tuyên bố bị cáo không có tội nếu xét thấy không có căn cứ để kết tội bị cáo hoặc đề nghị Tòa án kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung của bản cáo trạng hoặc kết luận về tội nhẹ hơn; Luận tội của Kiểm sát viên là cơ sở để những người tham gia tố tụng tại phiên tòa trình bày ý kiển của mình và đặc biệt là để bị cáo, người bào chữa của bị cáo nắm bắt được quan điểm buộc tội của Viện kiểm sát, phục vụ cho việc tranh tụng, gỡ tội cho bị cáo sau này; Chỉ có Kiểm sát viên trực tiếp tham gia phiên tòa mới có quyền luận tội. Do vậy, Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải có mặt để thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa; nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa Trường hợp Kiểm sát viên bị thay đổi hoặc không thể tiếp tục thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử mà không có Kiểm sát viên dự khuyết để thay thế thì Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa. Như vậy, sự có mặt của Kiểm sát viên tại phiên tòa là bắt buộc; Thông qua việc tranh luận tại phiên tòa với bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người tham gia tố tụng khác, Kiểm sát viên có thể thay đổi ý kiến so với lời luận tội đầu tiên; Luận tội của Kiểm sát viên là cơ sở để HĐXX thảo luận và quyết định tội danh, hình phạt đối với các bị cáo cũng như quyết định các vấn đề có liên quan trong vụ án như: xử lý vật chứng, giải quyết việc bồi thường dân sự trong tố tụng hình sự, Như vậy, qua phân tích đánh giá các quan điểm về luận tội nêu trên, đồng thời phân tích các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, theo chúng tôi 11
- luận tội được hiểu là: hoạt động nghiệp vụ do Kiểm sát viên thực hiện dựa trên những chứng cứ, tài liệu, đồ vật đã được kiểm tra công khai tại phiên tòa và ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự và những người tham gia tố tụng khác (nếu có) tại phiên tòa, để rồi từ đó Kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát trình bày quan điểm, đường lối giải quyết vụ án, đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung của bản cáo trạng hoặc kết luận về tội nhẹ hơn; đề nghị mức hình phạt chính, hình phạt bổ sung, biện pháp tư pháp, trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng; kiến nghị các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật chung trong xã hội. 1.2. Phân biệt luận tội với cáo trạng - Về cơ sở pháp lý: + Cáo trạng là văn bản pháp lý dựa trên cơ sở kết quả của hoạt động điều tra và quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án của Viện kiểm sát. + Luận tội là văn bản pháp lý dựa trên cơ sở nội dung của bản cáo trạng và kết quả của việc xét hỏi công khai tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. - Về hình thức: + Cáo trạng xuất hiện ở giai đoạn trước khi xét hỏi. Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam thì trước khi tiến hành xét hỏi, Kiểm sát viên công bố bản cáo trạng và trình bày ý kiến bổ sung của mình trước Tòa án; ý kiến bổ sung không được làm xấu đi tình trạng của bị cáo. + Luận tội xuất hiện ở giai đoạn tranh luận - giai đoạn nối tiếp của giai đoạn xét hỏi. Sau khi kết thúc việc xét hỏi, Kiểm sát viên sẽ trình bày bản luận tội, đề nghị kết tội bị cáo theo một phần hoặc toàn bộ nội dung của bản cáo trạng hoặc tuyên bố bị cáo không phải tội. 12
- Theo đó, luận tội và cáo trạng là hai văn bản pháp lý xuất hiện ở hai giai đoạn tố tụng khác nhau của quá trình xét xử vụ án hình sự. - Về nội dung: Thứ nhất, xuất phát từ mục đích truy tố bị can ra trước Tòa án nên nội dung của cáo trạng chủ yếu chỉ hướng tới diễn biến hành vi phạm tội, các chứng cứ xác định hành vi "có tội". Trong khi xuất phát từ mục đích phân tích, đánh giá một cách khách quan, toàn diện vụ án thì nội dung của luận tội hướng tới cả chứng cứ "có tội" và chứng cứ "vô tội" của bị cáo. Thứ hai, trong cáo trạng KSV chỉ dừng lại ở việc xác định tội danh và điều, khoản, điểm của Bộ luật hình sự được áp dụng. Còn trong luận tội, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng một mức hình phạt cụ thể đối với hành vi phạm tội của bị cáo, áp dụng các biện pháp tư pháp, trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng, kiến nghị các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật. - Về chủ thể ban hành: Theo quy định của pháp luật, Viện trưởng hoặc một Phó Viện trưởng được Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân ủy quyền là người có thẩm quyền ký bản cáo trạng. Cụ thể, Phó Viện trưởng ký bản cáo trạng khi Viện trưởng vắng mặt và đã ủy quyền cho Phó Viện trưởng đó thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng và Phó Viện trưởng phải chịu trách nhiệm trước Viện trưởng Viện kiểm sát về nhiệm vụ được ủy quyền. Khi Phó Viện trưởng ký cáo trạng thì phải ghi rõ là ký thay Viện trưởng và trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra bản cáo trạng, Viện kiểm sát phải chuyển hồ sơ vụ án và bản cáo trạng đến Tòa án; giao bản cáo trạng cho bị can hoặc người đại diện của bị can và gửi bản cáo trạng cho Cơ quan điều tra và người bào chữa của bị can (nếu có). Trường hợp vụ án phức tạp thì thời hạn chuyển hồ sơ vụ án và bản 13
- cáo trạng đến Tòa án; thời hạn giao bản cáo trạng cho bị can hoặc người đại diện của bị can có thể kéo dài nhưng không quá 10 ngày. So sánh với luận tội, luận tội là văn bản nghiệp vụ mang tính cá biệt của Kiểm sát viên, thể hiện năng lực, bản lĩnh của Kiểm sát viên trong việc buộc tội bị cáo trước Tòa án. Tùy theo sự phân tích, lập luận của Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự đối với vụ án đó mà nội dung của bản luận tội đối với cùng một loại tội danh có sự khác nhau. Luận tội do Kiểm sát viên ký, lưu trong hồ sơ kiểm sát và không phải chuyển cho Tòa án. Như vậy, Cáo trạng là văn bản pháp lý, thể hiện quan điểm của Viện kiểm sát về vụ án hình sự trên cơ sở kết quả hoạt động điều tra và ra quyết định truy tố bị can ra trước toà án để xét xử. Cáo trạng là văn bản pháp lý kết thúc giai đoạn điều tra và mở đầu một giai đoạn tố tụng mới, đó là giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự. Theo quy định tại Điều 167 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 thì nội dung cáo trạng phải ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm; địa điểm xảy ra tội phạm; thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội, hậu quả của tội phạm và những tình tiết quan trọng khác; những chứng cứ xác định tội trạng của bị can, những tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhân thân của bị can và mọi tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Phần kết luận của bản cáo trạng ghi rõ tội danh và điều khoản của Bộ luật Hình sự được áp dụng [59]. 1.3. Cơ sở và ý nghĩa của hoạt động luận tội 1.3.1. Cơ sở của hoạt động luận tội - Xuất phát từ chức năng của tố tụng hình sự Tố tụng hình sự được đặc trưng bởi ba chức năng cơ bản đó là chức năng buộc tội, chức năng gỡ tội (chức năng bào chữa) và chức năng xét xử. 14
- Theo PGS.TS. Nguyễn Thái Phúc, chức năng buộc tội là chức năng có vai trò rất quan trọng, quyết định sự tồn tại của chức năng bào chữa và chức năng xét xử. Chức năng buộc tội nhất là trong hình thức buộc tội nhân danh Nhà nước, có vai trò động lực của tố tụng hình sự. Nó được coi là trục chính thu hút hoạt động của tất cả những người tham gia phiên tòa. Như chúng ta đã biết xuất phát từ nguyên tắc công tố nên vụ án hình sự được bắt đầu bằng việc khởi tố vụ án của cơ quan có thẩm quyền, đặc biệt là từ khi có quyết định buộc tội (quyết định khởi tố bị can). Kể từ thời điểm này đánh dấu sự tham gia tố tụng của các chủ thể và họ đều bị chi phối bởi quyết định buộc tội. Đồng thời mục đích tham gia tố tụng của các chủ thể cũng bắt đầu từ sự buộc tội, từ chức năng buộc tội. Như vậy, trong hệ thống các chức năng tố tụng hình sự cơ bản thì chức năng buộc tội được coi là chức năng đóng vai trò chủ đạo, quyết định. Không có sự buộc tội thì không thể có tố tụng hình sự, tố tụng hình sự sẽ trở thành không có mục đích và đối tượng. Khẳng định trên không có nghĩa là chức năng bào chữa và chức năng xét xử đóng vai trò thứ yếu, chức năng phụ. Rõ ràng cả ba chức năng buộc tội, chức năng bào chữa, chức năng xét xử đều là những chức năng cơ bản, chức năng nào cũng quan trọng và không được phép đặt chức năng này lên trên chức năng khác. Tuy nhiên, trong ba chức năng đó thì chức năng buộc tội là động lực đầu tiên làm xuất hiện các chức năng tố tụng khác, là đòn bẩy đưa bộ máy tố tụng vào hoạt động. Chức năng buộc tội là chức năng bắt buộc, mang tính quy luật, không có chức năng buộc tội thì không có chức năng bào chữa và tất nhiên cũng không có chức năng xét xử. Thực hiện tốt chức năng buộc tội chính là điều kiện quan trọng để đảm bảo cho việc xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. 15
- Nội dung chức năng buộc tội bao gồm những hoạt động tố tụng nhằm phát hiện người đã thực hiện hành vi phạm tội, tội phạm đã thực hiện, những tình tiết thể hiện tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, chứng minh lỗi của những người đã thực hiện tội phạm, động cơ mục đích cũng như những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Theo đó, nội dung của chức năng buộc tội chính là nội dung các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể buộc tội theo quy định của pháp luật. Chức năng buộc tội tồn tại từ giai đoạn điều tra và sẽ kéo dài cho đến khi bản án hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Nội dung cơ bản của chức năng buộc tội trong giai đoạn điều tra trước hết đó là tất cả những gì Cơ quan điều tra (thủ trưởng Cơ quan điều tra và Điều tra viên) thực hiện để trực tiếp tìm tòi, phát hiện chứng cứ buộc tội thông qua các hoạt động điều tra, cũng như việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng nhằm ngăn chặn hành vi phạm tội. Ngoài ra, nội dung buộc tội trong giai đoạn điều tra còn được thể hiện thông qua việc tìm kiếm chứng cứ, đề xuất các yêu cầu như: đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, đề nghị áp dụng biện pháp đảm bảo bồi thường, khiếu nại các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng của người bị hại, đặc biệt là trong các vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại. Tất cả hoạt động trên đây nhằm mục đích chuẩn bị các căn cứ và các điều kiện cho sự buộc tội tại phiên tòa. Ở giai đoạn xét xử chức năng buộc tội được thực hiện thông qua hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát, cụ thể là hoạt động luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Tuy nhiên cần phân biệt khái niệm buộc tội và khái niệm công tố là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Công tố là một trong những hình thức khác nhau của chức năng buộc tội, là hình thức chủ đạo diễn ra trong điều kiện đặc thù là tại phiên tòa xét xử hình 16