Luận văn Kỹ năng giao tiếp đối với dân của cảnh sát khu vực quận Thanh Xuân, Hà Nội
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Kỹ năng giao tiếp đối với dân của cảnh sát khu vực quận Thanh Xuân, Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_ky_nang_giao_tiep_doi_voi_dan_cua_canh_sat_khu_vuc.pdf
Nội dung text: Luận văn Kỹ năng giao tiếp đối với dân của cảnh sát khu vực quận Thanh Xuân, Hà Nội
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI CHU ÂN THỊNH KỸ NĂNG GIAO TIẾP ĐỐI VỚI DÂN CỦA CẢNH SÁT KHU VỰC QUẬN THANH XUÂN, HÀ NỘI Chuyên ngành: Tâm lý học Mã số: 60.31.04.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐẶNG THỊ VÂN HÀ NỘI - 2016
- LỜI CẢM ƠN! Để hoàn thành khóa cao học tâm lý học khóa 2014 – 2016, ngoài những nỗ lực, cố gắng của bản thân tôi còn nhận được sự quan tâm, động viên hỗ trợ từ rất nhiều người, Tôi xin chân thành cảm ơn đến: Em xin bày tỏ long biết ơn sâu sắc đến các thầy cô giáo trong Khoa Tâm lý học – Học viện Khoa học xã hội, đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình học tập và làm luận văn tốt nghiệp. Em xin bày tỏ sự biết ơn và lòng kính trọng đến cô TS Đặng Thị Vân, đã tận tình, tận tâm hướng dẫn em trong suốt quá trình em thực hiện đề tài này. Cũng qua đây cho tôi gửi lời cảm ơn đến các chiến sỹ cảnh sát khu vực quận Thanh Xuân, Hà Nội đã giúp đỡ tôi trong thời gian lấy số liệu nghiên cứu khảo sát để hoàn thành luận văn này. Gia đình và bạn bè tôi đã hỗ trợ, động viên tôi trong suốt quá trình tham dự khóa cao học và thực hiện đề tài luận văn này! Hà Nội, ngày 30 tháng 07 năm 2016 Tác giả Chu Ân Thịnh
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đề tài: “Kỹ năng giao tiếp đối với dân của cảnh sát khu vực quận Thanh Xuân, Hà Nội” là công trình nghiên cứu khoa học do tôi thực hiện. Các số liệu và kết quả nêu trong luận văn này là hoàn toàn trung thực và chưa được công bố trong công trình nghiên cứu nào khác. Tác giả luận văn Chu Ân Thịnh
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1:CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KỸ NĂNG GIAO TIẾP VỚI NHÂN DÂN CỦA CẢNH SẢT KHU VỰC QUẬN THANH XUÂN 11 1.1. Một số khái niệm cơ bản 11 1.2. Đặc điểm tâm lý của CSKV trong hoạt động giao tiếp với dân 23 1.3. Một số loại kỹ năng giao tiếp với dân chủ yếu cần được hình thành ở cảnh sát khu vực 28 Chƣơng 2: TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU 36 2.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu và công tác triển khai liên quan đến nhiệm vụ của Cảnh sát khu vực 36 2.2. Đặc điểm về khách thể nghiên cứu 39 2.3. Các phương pháp nghiên cứu 40 2.4.Tiến trình nghiên cứu 42 Chƣơng 3:KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KỸ NĂNG GIAO TIẾP VỚI DÂN CỦA CẢNH SÁT KHU VỰC QUẬN THANH XUÂN 44 3.1. Thực trạng về kỹ năng giao tiếp với dân của Cảnh sát khu vực Quận Thanh Xuân 44 3.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng giao tiếp với dân của Cảnh sát khu vực Quận Thanh Xuân 69 3.3. Một số biện pháp chủ yếu rèn luyện kỹ năng giao tiếp với dân cho Cảnh sát khu vực Quận Thanh Xuân 73 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
- DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 3.1: Thực trạng kỹ năng giao tiếp của cảnh sát khu vực quận Thanh Xuân 44 Bảng 3.2: Kỹ năng thiết lập mối quan hệ trong giao tiếp của CSKV Quận TX 47 Bảng 3.3: Kỹ năng cân bằng nhu cầu cá nhân với đối tượng giao tiếp của cảnh sát khu vực quận Thanh Xuân 48 Bảng 3.4: Kỹ năng nghe đối tượng giao tiếp của cảnh sát khu vực quận Thanh Xuân 50 Bảng 3.5: Kỹ năng tự kiềm chế trong giao tiếp của cảnh sát khu vực quận Thanh Xuân 52 Bảng 3.6: Kỹ năng tự chủ cảm xúc, hành vi của cảnh sát khu vực quận Thanh Xuân 54 Bảng 3.7: Kỹ năng diễn đạt đễ hiểu, cụ thể của cảnh sát khu vực quận Thanh Xuân 56 Bảng 3.8: Kỹ năng linh hoạt, mềm dẻo của cảnh sát khu vực quận Thanh Xuân 58 Bảng 3.9: Kỹ năng thuyết phục đối tượng giao tiếp của cảnh sát khu vực quận Thanh Xuân 60 Bảng 3.10: Kỹ năng chủ động, điều khiển quá trình giao tiếp của cảnh sát khu vực Quận Thanh Xuân 61 Bảng 3.11: Kỹ năng biểu hiện sự nhạy cảm trong giao tiếp của cảnh sát khu vực quận Thanh Xuân 63 Bảng 3.12: Sự khác biệt về kỹ năng giao tiếp theo thời gian công tác 65 Bảng 3.13: Sự khác biệt về kỹ năng giao tiếp theo trình độ 66 Bảng 3.14. Kỹ năng giao tiếp của CSKV quận Thanh Xuân qua đánh giá của người dân 68 Bảng 3.15: Các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng giao tiếp của CSKV quận Thanh Xuân 70 Bảng 3.16: Các biện pháp rèn luyện kỹ năng giao tiếp với dân cho CSKV 73
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu C.Mác từng nhận định rằng: “Hoạt động trong sự giao tiếp trực tiếp với người khác đã trở thành cơ quan biểu hiện cuộc sống của tôi và là một trong những phương thức lĩnh hội kinh nghiệm sống của loài người” [3]. Qua đó có thể thấy rằng, giao tiếp có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân. Cơ quan Công an nói chung, cơ quan Cảnh sát nói riêng là một trong những cơ quan quan trọng của Nhà nước. Thông qua việc thực hiện pháp luật của Nhà nước, lực lượng Cảnh sát thể hiện bản chất giai cấp, tính nhân dân của mình trong hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Trước thực tiễn muôn vàn những diễn biến và tác động tiêu cực, để không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động nghề nghiệp của mình, “làm cho dân tin, dân yêu, dân ủng hộ” thì lực lượng Công an nói chung và lực lượng Cảnh sát nói riêng đã và đang không ngừng chỉnh đốn, xây dựng lực lượng thực sự trong sạch, vững mạnh. Mỗi cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát dù ở vị trí công tác nào cũng phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức Cách mạnh theo 6 điều Bác Hồ dạy, gắn bó mật thiết với nhân dân, nêu cao tinh thần, ý thức phục vụ nhân dân để chiến đấu và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện hách dịch, sách nhiễu, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Bên cạnh đó, lực lượng cũng luôn đoàn kết, tổ chức và tuyên truyền nhân dân đề cao tinh thần cảnh giác, tích cực phòng chống các âm mưu và hành động chống phá của kẻ thù. Từ đó, vận động nhân dân tích cực tham gia phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng và nhân rộng các điển hình tiên tiến trong quần chúng. Có thể nói, hoạt động tiếp xúc với dân là một trong những hoạt động vô cùng quan trọng của lực lượng Công an nhân dân nói chung và lực lượng Cảnh sát khu vực nói riêng trong công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác. Hoạt động tiếp xúc với dân của lực lượng Cảnh sát không chỉ là hoạt động giao tiếp thông thường trong xã hội, mà còn là 1
- một trong những hoạt động nghiệp vụ mang tính sâu sắc. Thông qua hoạt động giao tiếp với dân, lực lượng Cảnh sát không chỉ thu thập được những thông tin tư liệu, dư luận về những vấn đề liên quan đến an ninh trật tự để có biện pháp giải quyết kịp thời, mà còn giúp họ nhận biết được thái độ của dân đối với các chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong các lĩnh vực khác nhau. Mặt khác, nó còn là cầu nối giúp mối quan hệ giữa lực lượng Cảnh sát với nhân dân ngày một bền chặt hơn. Từ đó góp phần củng cố lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đối với ngành Công an. Từ lý luận và thực tiễn nêu trên cho thấy, giao tiếp nói chung và giao tiếp với nhân dân nói riêng của lực lượng Cảnh sát khu vực có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công cuộc giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, họ thực sự có kỹ năng giao tiếp cần thiết để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình hay chưa cần phải được nghiên cứu cụ thể, qua đó đề xuất những biện pháp nhằm bồi dưỡng, nâng cao hiệu quả hoạt động giao tiếp với nhân dân cho lực lượng Cảnh sát khu vực là vấn đề vô cùng cần thiết. Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Kỹ năng giao tiếp với nhân dân của lực lượng Cảnh sát khu vực Quận Thanh Xuân” 2. Tình hình nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp Giao tiếp có một vai trò vô cùng quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân. Thông qua giao tiếp, cá nhân có thể chia sẻ và lĩnh hội được những thông tin hữu ích cho cá nhân mình. Đồng thời đó cũng là cơ hội để mỗi cá nhân có thể bộc lộ được tình cảm, cảm xúc của mình dành cho những người xung quanh. Tuy nhiên, để có được hiệu quả trong giao tiếp thì đòi hỏi mỗi cá nhân cần phải có kỹ năng giao tiếp. Trong tâm lý học, nhà nghiên cứu Socrate (470- 399) là người đầu tiên có tư tưởng về kỹ năng giao tiếp, ông đã đề ra phương pháp kích biện (khuyến khích người khác nói) trong tranh luận và đối thoại. Cho đến nay, vẫn có rất nhiều nhà nghiên cứu bàn về vấn đề kỹ năng giao tiếp. Những công trình nghiên cứu này thường đi theo các hướng nghiên cứu sau: 2
- 2.1. Nghiên cứu kỹ thuật của kỹ năng giao tiếp Đại diện cho hướng nghiên cứu này có một số tác giả như: V.A.Krutelxki, E.X.Cudin, A.G.Kovaliov, S.Henrry (1981), Trần Trọng Thuỷ, Đào Thị Oanh, Nguyễn Thị Thanh Bình, Nhìn chung, những nhà nghiên cứu đi theo hướng nghiên cứu này đều xem kỹ năng là những phương thức thực hiện hành động phù hợp với mục đích và điều kiện hành động mà còn người đã nắm vững. Nghĩa là, khi con người đã nắm được cách hành động thì tức là họ đã có kỹ thuật và có kỹ năng hành động. Khi nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp, có nhiều tác giả cho rằng, muốn thực hiện được hành động giao tiếp, con người cần phải có những tri thức về hành động giao tiếp đó. Nghĩa là hiểu được mục đích giao tiếp, cách thức thực hiện, phương tiện giao tiếp, điều kiện hành động và sử dụng chúng vào các tình huống giao tiếp. Xuất phát từ việc xem kỹ năng giao tiếp là mặt kỹ thuật của hành động giao tiếp, một số tác giả cho rằng, việc nắm bắt được kỹ thuật hành động giao tiếp thông qua việc học tập và rèn luyện sẽ giúp cá nhân đạt hiệu quả trong giao tiếp. Nhìn chung, những công trình nghiên cứu theo hướng nghiên cứu này đã có những đóng góp vô cùng quan trọng cho tâm lý học nói chung và tâm lý học giao tiếp nói riêng. Nó đã chỉ rõ phương thức, thủ thuật, thao tác thực hiện hành động giao tiếp, cơ sở để xây dựng hình thành, củng cố các hành vi giao tiếp cụ thể cho mọi đối tượng. Chúng tôi đã vận dụng hướng nghiên cứu này vào trong đề tài nghiên cứu của mình và xem đó là một trong những cơ sở cho đề tài nghiên cứu. 2.2. Nghiên cứu mặt năng lực của kỹ năng giao tiếp Một số nhà nghiên cứu như E.A.Milenrian, A.V.Petrovski, N.D.Levitov, X.I.Kixegop, K.K.Platonov, G.G.Gobulep đã chú trọng đến mặt năng lực của kỹ năng giúp con người thực hiện một hoạt động có hiệu quả. Các tác giả cũng đã chỉ ra rằng, kỹ năng không chỉ là mặt kỹ thuật thao tác hành vi đơn thuần, mà còn liên quan tới kết quả mục đích đạt được của hoạt động. Từ đó, khi vận dụng vào xem xét quá trình giao tiếp của con người, có thể nhận định rằng, cá nhân được xem là có kỹ năng giao tiếp khi họ có năng lực nhất định để thực hiện được 3
- quá trình giao tiếp có hiệu quả. Như vậy, có thể hiểu rằng, kỹ năng giao tiếp là năng lực vận dụng tri thức, kinh nghiệm vào quá trình giao tiếp để đạt được hiệu quả giao tiếp. Kỹ năng giao tiếp vừa có tính ổn định, tính mềm dẻo, tính linh hoạt và tính mục đích. Tính ổn định trong giao tiếp được hiểu là khả năng giao tiếp tốt, đạt hiệu quả ở mọi hoàn cảnh, không gian và thời gian khác nhau. Tuy nhiên, một người có năng lực giao tiếp tốt, không phải lúc nào cũng có thái độ, hành vi, cử chỉ giống nhau trong mọi hoàn cảnh, tình huống khác nhau, mà ở họ luôn luôn có tính mềm dẻo. Tính mềm dẻo chính là sự linh hoạt, nhạy cảm, khả năng điều chỉnh thái độ, hành vi sao cho phù hợp với từng hoàn cảnh giao tiếp để đạt được những mục đích giao tiếp đã đề ra. Xét một cách đầy đủ, hiệu quả của quá trình giao tiếp luôn có sự liên kết chặt chẽ với những phẩm chất đạo đức, nhận thức của mỗi cá nhân. Vì thế mà khi đề cập đến kỹ năng, đặc biệt là kỹ năng giao tiếp nghề nghiệp, nhà nghiên cứu không chỉ dừng ở tiêu chí kết quả đúng, khả năng linh hoạt mà còn xem xét đến cả những yếu tố khác như thái độ, động cơ của cá nhân trong kỹ năng đó. Từ đó, đã tạo được sự kết nối giữa các yếu tố kiến thức, kỹ thuật và giá trị (thái độ, niềm tin) trong hành vi của mỗi hoạt động giao tiếp nhất định [15]. Nhìn chung,các tác giả dều cho rằng, mọi hành vi của con người đều xuất phát từ cách mà người ta suy nghĩ. J.Louise (1995) nhận định rằng, kỹ năng là yếu tố mang tính thực tiễn và là kết quả của sự liên kết giữa lý thuyết và giá trị (thái độ, niềm tin) [22]. S.A.Morales & W.Sheator (1987) [23] xem hành vi có kỹ năng là khả năng lựa chọn những kiến thức, kỹ thuật thích hợp và sử dụng chúng có hiệu quả. Tuy nhiên, tác giả lại nhấn mạnh sự lựa chọn đó vị chi phối bởi thái độ, niềm tin của cá nhân đối với hoạt động cụ thể. Ở trong nước, có một số tác giả như Ngô Công Hoàn, Nguyễn Ánh Tuyết, Trần Quốc Thành, Nguyễn Quang Uẩn cũng cho rằng, kỹ năng là năng lực vận dụng tri thức về hành động, hay các thao tác của hành động theo đúng quy trình để có kết quả mong muốn. G.S Vũ Dũng nhận định, kỹ năng là năng lực vận 4
- dụng có kết quả những tri thức về phương thức hành động đã được chủ thể lĩnh hội để thực hiện những nhiệm vụ tương ứng [9]. Thông qua những quan điểm nêu trên, chúng tôi nhận thấy rằng, giao tiếp trong hoạt động nghề nghiệp khác với giao tiếp trong đời thường, nó đòi hỏi có cách thức, thủ thuật phương pháp nhất định phù hợp với nội dung công việc. Giao tiếp trong hoạt động nghề nghiệp, nếu chỉ dừng lại ở những thao tác giao tiếp thông thường thì sẽ khó đạt được mục đích công việc đề ra, mà cần phải có năng lực vận dụng tri thức, kinh nghiệm, thái độ vào quá trình này. 2.3. Nghiên cứu cấu trúc kỹ năng giao tiếp Các tác giả theo hướng nghiên cứu này như A.A.Leontiev, V.P. Dakharov,. đã xem kỹ năng giao tiếp như một hệ thống toàn vẹn bao gồm những yếu tố, thành phần bộ phận khác nhau. Mỗi yếu tố, mỗi thành phần lại có vị trí và vai trò khác nhau trong mối quan hệ hữu cơ giữa các yếu tố của hệ thống đó. A.A.Leontiev đã chia kỹ năng giao tiếp thành 8 kỹ năng thành phần như: kỹ năng điều khiển hành vi bản thân; kỹ năng quan sát; kỹ năng nhạy cảm xã hội; kỹ năng đọc, hiểu, mô hình hoá nhân cách đối tượng giao tiếp; kỹ năng làm gương; kỹ năng giao tiếp ngôn ngữ; kỹ năng kiến tạo sự tiếp xúc; kỹ năng nhận thức [ dẫn theo 17]. A.A.Bodalev, V.A.Cancalich, N.V.Kudomin, A.A.Leontiev [ dẫn theo 17] đã nhìn nhận cấu trúc theo giai đoạn nên họ đã chia giao tiếp thành các giai đoạn như sau: giai đoạn điều khiển, điều chỉnh quá trình giao tiếp; giai đoạn phân tích hệ thống giao tiếp đã được thực hiện; giai đoạn xây dựng mô hình giao tiếp cho hoạt động tiếp theo. Còn V.A.Cancalich thì phân cấu trúc giao tiếp thành 4 thành phần cơ bản: thành phần nhận thức; thành phần tổ chức; thành phần điều khiển giao tiếp và thành phần định hướng giao tiếp trong hoạt động tiếp theo. Căn cứ vào cách phân chia cấu trúc kỹ năng giao tiếp như trên, kỹ năng giao tiếp được phân thành 3 nhóm chính, bao gồm: nhóm kỹ năng định hướng; nhóm kỹ năng định vị; nhóm kỹ năng điều khiển quá trình giao tiếp. 5
- Kỹ năng định hướng giao tiếp: là khả năng cá nhân dựa vào những biểu hiện bên ngoài của đối tượng giao tiếp, như: sắc thái biểu cảm, ngữ điệu, thanh điệu của lời nói, cử chỉ, điệu bộ; hay thời điểm và không gian giao tiếp để từ đó phán đoán chính xác về mối quan hệ giữa chủ thể với đối tượng giao tiếp. Kỹ năng định vị: là khả năng chủ thể giao tiếp biết đặt mình vào đối tượng giao tiếp để tạo ra điều kiện nhằm tác động đến đối tượng giao tiếp, giúp họ chủ động lắng nghe và giao tiếp với mình. Kỹ năng điều khiển quá trình giao tiếp: là khả năng thu hút đối tượng, xác định được nguyện vọng, hứng thú của đối tượng và biết sử dụng các phương tiện giao tiếp để làm chủ trạng thái bản thân và duy trì được cuộc giao tiếp. 2.4. Nghiên cứu quá trình hình thành của kỹ năng giao tiếp Theo P.A.Rudic (1974) và G.Theodorson (1969), ban đầu kỹ năng mới chỉ là những thao tác riêng lẻ, đơn giản, quá trình rèn luyện chúng trở thành hành động nhanh chóng, chính xác và sau đó trở thành kỹ xảo [ dẫn theo 17]. Qúa trình hình thành và phát triển kỹ năng giao tiếp là kết quả của quá trình con người lĩnh hội tri thức, vận dụng chúng vào trong những điều kiện, hoàn cảnh và đối tượng giao tiếp khác nhau để đạt được mục đích giao tiếp đã đề ra. Bản chất của quá trình hình thành và hoàn thiện kỹ năng giao tiếp chính là quá trình cấu trúc lại các thao tác cho phù hợp với từng đối tượng và hoàn cảnh giao tiếp. Kỹ năng giao tiếp được hình thành và phát triển theo từng giai đoạn từ thấp (kỹ năng nguyên phát, nguyên sinh) đến kỹ năng bậc cao (kỹ năng thứ phát- thứ sinh), tiến triển theo 4 trình độ: trình độ ban đầu, trình độ sáng kiến, trình độ mới và trình độ tích hợp. Dựa trên cơ sở đó, một số tác giả đã phân chia các giai đoạn hình thành và phát triển của các kỹ năng giao tiếp, như: A.A. Leontiev trong nghiên cứu giao tiếp sư phạm, ông đã soạn những bài tập luyện kỹ năng định hướng tiền giao tiếp, luyện kỹ năng tiếp xúc, luyện kỹ năng giao tiếp [ dẫn theo 17]. Tác giả Hoàng Thị Anh thì xem sự phát triển kỹ năng giao tiếp sư phạm có 5 giai đoạn, gồm: giai đoạn định hướng giao tiếp,giai đoạn tạo ra bầu không khí tiền 6
- giao tiếp, giai đoạn thăm dò tâm hồn của đối tượng giao tiếp, giai đoạn thu hút sự chú ý của đối tượng giao tiếp, giai đoạn cuối cùng là giao tiếp ngôn ngữ [7]. Từ những quan điểm trên, chúng tôi nhận định kỹ năng giao tiếp của người Cảnh sát được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động nghề nghiệp của họ dựa trên cơ sở kinh nghiệm, vốn sống thực tiễn của cá nhân, kiến thức chuyên môn, kiến thức giao tiếp nghề nghiệp được đào tạo, bồi dưỡng, sự hoàn thiện các phẩm chất nhân cách cần thiết của người chiến sĩ cảnh sát. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng phân chia kỹ năng giao tiếp của người chiến sĩ Cảnh sát với nhân dân thuộc khu vực quản lý gồm những giai đoạn cụ thể như: xác định mục đích giao tiếp, chuẩn bị nội dung, hình thức, phương pháp, phương tiện cho buổi giao tiếp, nắm bắt tâm lý chung của dân cũng như những nét tâm lý riêng của người dân trong khu vực quản lý, bắt đầu cuộc giao tiếp và cuối cùng là kết thúc cuộc giao tiếp. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là chỉ ra thực trạng kỹ năng giao tiếp với dân của Cảnh sát khu vực Quận Thanh Xuân. Xác định một số yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng. Căn cứ vào lý luận và kết quả nghiên cứu thực tiễn đề xuất một số biện pháp bồi dưỡng nhằm nâng cao kỹ năng giao tiếp của họ đối với dân. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Đề đạt được những mục đích trên, đề tài cần giải quyết những nhiệm vụ cụ thể như sau: +Xác định cơ sở lý luận liên quan đến kỹ năng giao tiếp với nhân dân của Cảnh sát khu vực trên địa bàn Quận Thanh Xuân. + Tìm hiểu thực trạng kỹ năng giao tiếp với nhân dân của Cảnh sát khu vực trên địa bàn Quận Thanh Xuân qua trắc nghiệm, chỉ ra một số yếu tố tác động đến thực trạng đó. + Đề xuất một số biện pháp nhằm bồi dưỡng, nâng cao kỹ năng giao tiếp với nhân dân của Cảnh sát khu vực Quận Thanh Xuân. 7
- 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Kỹ năng giao tiếp với nhân dân của Cảnh sát khu vực Quận Thanh Xuân. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên số lượng là 100/117 Cảnh sát khu vực đang trực tiếp hoạt động tại các cơ quan Công an phường (Thanh Xuân Bắc, Thượng Đình, Thanh Xuân Trung, Thanh Xuân Nam, Kim Giang, Phương Liệt, Khương Mai, Khương Trung, Khương Đình, Hạ Đình, Nhân Chính)thuộc địa bàn Quận Thanh Xuân - Hà Nội và 150 người dân (có hộ khẩu thường trú trên địa bàn) đại diện cho các hộ gia đình trên địa bàn khảo sát. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của Tâm lý học ứng dụng. Nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở một số nguyên tắc phương pháp luận cơ bản sau đây: - Nguyên tắc tiếp cận thực tiễn: Để xác định thực trạng kỹ năng giao tiếp với dân của CSKV cần được đánh giá thông qua quá trình giao tiếp thực tế của họ với người dân khi triển khai các nhiệm vụ nghiệp vụ được giao trên cơ sở đánh giá của chính bản thân họ hay qua đánh giá của người dân đã từng được tiếp xúc với các chiến sĩ CSKV. - Nguyên tắc tiếp cận hệ thống: Kỹ năng giao tiếp bao gồm nhiều kỹ năng bộ phận vì thế cần nghiên cứu chúng một cách hệ thống, toàn diện mới đưa ra nhận định một cách khoa học, khách quan và toàn diện. Mặt khác, có nhiều yếu tố chi phối đến thực trạng kỹ năng giao tiếp với dân của CSKV. Vì vậy, nguyên tắc hệ thống – cấu trúc cũng là cách tiếp cận quan trọng khi triển khai nghiên cứu này. 8
- 5.2. Các phương pháp nghiên cứu 5.2.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận Tìm hiểu, phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá những tài liệu trong nước và ngoài nước có liên quan đến vấn đề nghiên cứu nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài, các phương pháp có liên quan đến đề tài, các luận chứng để lý giải các kết quả thu nhận. 5.2.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu để thu thập thông tin 5.2.2.1. Phương pháp điều tra bằng trắc nghiệm Đây là phương pháp chính sử dụng trong nghiên cứu này nhằm tìm hiểu thực trạng kỹ năng giao tiếp với dân của cảnh sát khu vực quận Thanh Xuân- Thành phố Hà Nội. Từ đó, phân tích và chỉ ra những yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng này. 5.2.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu Phương pháp này được sử dụng trong nghiên cứu nhằm thu thập thêm thông tin hỗ trợ cho quá trình điều tra bằng trắc nghiệm. Chúng tôi, tiến hành phỏng vấn sâu với một số cán bộ lãnh đạo Công an phường, cảnh sát khu vực và nhân dân thuộc các khu vực khảo sát. Nội dung phỏng vấn tập trung vào các vấn đề cụ thể như sau: - Cảnh sát hiểu về kỹ năng giao tiếp với nhân dân như thế nào? Giao tiếp có vai trò đối với hoạt động nghề nghiệp của cán bộ cảnh sát khu vực ra sao? - Những kỹ năng cần thiết của cán bộ Cảnh sát khu vực khi giao tiếp với dân? và mức độ thể hiện những kỹ năng đó của cán bộ Cảnh sát khu vực hiện nay như thế nào? - Cảnh sát khu vực có những thuận lợi và khó khăn trong giao tiếp với người dân thuộc khu vực mình phụ trách như thế nào? 5.2.2.3. Phương pháp chuyên gia Phương pháp này được sử dụng trong quá trình xây dựng công cụ nghiên cứu thực tiễn (phiếu điều tra, phiếu phỏng vấn), xác định thang đo đánh giá thực trạng kỹ năng giao tiếp của CSKV. 5.2.3. Phương pháp xử lý số liệu 9
- Sử dụng các phương pháp thống kê toán học qua sự hỗ trợ của phần mềm thống kê SPSS (phiên bản 20.0) để định lượng nội dung nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kế thừa những thành tựu của các tác giả đi trước, từ góc độ của tâm lý học ứng dụng, tác giả luận văn đã xác định được khái niệm kỹ năng giao tiếp với dân của CSKV, những kỹ năng cụ thể cần thiết trong kỹ năng giao tiếp đối với CSKV. Đặc biệt, qua nghiên cứu thực tiễn, tác giả đã làm rõ thực trạng về kỹ năng giao tiếp của CSKV quận Thanh Xuân, chỉ ra một số yếu tố ảnh hưởng và đề xuất một số biện pháp nhằm bồi dưỡng kỹ năng này cho CSKV thuộc địa bàn nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là gợi mở quan trọng cho các nhà nghiên cứu tiếp tục quan tâm đến vấn đề này và là tài liệu tham khảo hữu ích cho những nghiên cứu có liên quan. 7. Cấu trúc của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục. Luận văn có cấu trúc gồm 3 chương như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận về kỹ năng giao tiếp với nhân dân của Cảnh sát khu vực Quận Thanh Xuân. Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu Chương 3: Kết quả nghiên cứu kỹ năng giao tiếp với dân của Cảnh sát khu vực Quận Thanh Xuân. 10
- Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KỸ NĂNG GIAO TIẾP VỚI NHÂN DÂN CỦA CẢNH SẢT KHU VỰC QUẬN THANH XUÂN 1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1. Khái niệm về giao tiếp 1.1.1.1. Định nghĩa Giao tiếp Giao tiếp là một trong những phạm trù quan trọng của tâm lý học, là một hiện tượng phức tạp, được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Cho đến nay, vẫn chưa có sự thống nhất chung về khái niệm giao tiếp do vẫn còn nhiều định nghĩa, nhiều cách hiểu khác nhau về giao tiếp. Qua tìm hiểu chúng tôi thấy các nhà tâm lý học tiếp cận vấn đề giao tiếp theo các hướng khác nhau: Hướng thứ nhất: Các tác giả chú ý đến sự tác động, sự truyền thông tin, tiếp nhận thông tin giữa người với người như tác giả: E.E Aequyt, M.Acgain, P.Oathavut, G.Branh, D.Giacson Tác giả G.Thines cho rằng, giao tiếp là sự truyền đạt thông tin, trong đó trạng thái của hệ thống phát thông tin ảnh hưởng tới trạng thái của việc hệ thống nhận thông tin [ dẫn theo14]. Tác giả E.E Aequyt, M.Acgain thì nhận định rằng: Giao tiếp là sự tác động, sự truyền thông tin và tiếp nhận thông tin, là sự trao đổi thông tin của con người. Ba nhà tâm lý học người Pháp P.Oathavut, G.Branh, D.Giacson thì coi giao tiếp là một quá trình xã hội hóa thường xuyên diễn ra giữa người với người, quá trình này tổng hợp nhiều hành vi khác nhau là: Hành vi ngôn ngữ, hành vi cử chỉ điệu bộ [7]. Tác giả Nguyễn Khắc Viện thì nhấn mạnh giao tiếp phi ngôn ngữ là những biểu diễn thông qua cơ thể như những cử động, tư thế [ dẫn theo 14]. Một số cách giải thích về giao tiếp như trên, tuy có phần đúng nhưng vẫn còn phiến diện, làm cho nội hàm khái niệm giao tiếp bị thu hẹp, coi giao tiếp đơn thuần là những mặt riêng lẻ như sự thông báo, sự trao đổi thông tin hay tổ hợp những hành vi nhỏ lẻ, Mặt khác, với cách phân tích như trên của tác giả thì mới 11
- chỉ dừng lại ở việc mô tả bên ngoai, chứ chưa làm nổi bật lên được bản chất bên trong của giao tiếp. Hướng thứ hai: Nhằm khắc phục những thiếu sót của hướng nghiên cứu trên, những tác giả theo hướng nghiên cứu này đã có xu thế mở rộng khái niệm giao tiếp, họ đồng nhất giao tiếp với giao lưu. Vì thế, họ đã xem giao tiếp là một hiện tượng tâm lý chung ở cả người và động vật. Trong cuốn sách “Văn hoá và nhân cách”, tác giả B.V.Xôclov viết rằng: “Giao tiếp là sự tác động lẫn nhau giữa những con người và giữa những động vật có tâm lý với nhau”, thu hẹp hơn thì có thể hiểu đơn giản là: “giao tiếp là mối quan hệ giữa con người với những động vật nuôi trong nhà” [2]. Trong những công trình nghiên cứu của mình, hai tác giả J.Bremont (1971) và R.Chakin đã dùng thuật ngữ “Giao tiếp thính giác ở chim” và “Giao tiếp ở khỉ” để mô tả khía cạnh thông báo giữa các động vật [ dẫn theo 6]. Mặc dù đã khắc phục những hạn chế của các tác giả đi theo những xu hướng nghiên cứu trước. Những tác giả theo xu hướng nghiên cứu mở rộng khái niệm giao tiếp vẫn còn những hạn chế nhất định, đó là đã làm mất đi bản chất xã hội của giao tiếp người và không làm rõ được sự khác nhau giữa bản chất giao tiếp của con người với sự thông báo của động vật. Hướng thứ ba: Khác với những nhà nghiên cứu đi theo hai xu hướng nghiên cứu trước, những nhà tâm lý học đi theo hướng nghiên cứu này đã xem giao tiếp là quá trình hiện hoá các mối quan hệ xã hội giữa con người với con người. Các nhà tâm lý theo xu hướng này đã phủ nhận giao tiếp là sự tiếp xúc giữa động vật với nhau, bởi vì bản chất hai hiện tượng này hoàn toàn khác nhau, mà giao tiếp chỉ có ở hiện tượng người. V.N.Panpherov cho rằng: Giao tiếp là sự tác động qua lại giữa con người. Nội dung của nó là sự nhận thức qua lại và trao đổi thông tin nhờ sự giúp đỡ của những phương tiện khác nhau của sự thông báo với mục đích xây dựng mối quan hệ qua lại có lợi đối với quá trình hoạt động nói chung [21]. 12
- G.M.Andreeva thì cho rằng: Giao tiếp có ba mặt quan hệ hữu cơ với nhau, đó là mặt thông tin, mặt tri giác của con người đối với con người, mặt tác động qua lại của con người với nhau [5]. Nhà nghiên cứu L.V.Bueva nhận định rằng: Giao tiếp là tính hiện thực được quan sát trực tiếp,là sự cụ thể hóa tất cả các mối quan hệ xã hội, là sự nhân cách hóa, là hính thái nhân cách của các mối quan hệ đó [ dẫn theo 12]. Ở Việt Nam, có nhiều nhà tâm lý học cũng đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về giao tiếp. Trong một số bài viết, giáo trình tâm lý học,các nhà nghiên cứu thường dùng thuật ngữ “Giao lưu” hoặc “Giao tiếp” để chỉ mối quan hệ tiếp xúc tâm lý và tác động qua lại giữa người với người. Mặc dù có sự khác nhau về việc sử dụng các thuật ngữ trong nghiên cứu, nhưng các tác giả đều có sự thống nhất với hướng nghiên cứu thứ ba khi xét về nội hàm khái niệm giao tiếp. Tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng: Giao lưu là hoạt động xác lập và vận hành các quan hệ người – người để hiện thực hóa các quan hệ xã hội giữa con người với nhau [11]. Hai tác giả Nguyễn Thạc và Hoàng Anh cho rằng “Giao tiếp là hình thức đặc trưng cho mối quan hệ giữa con người với con người mà qua đó nảy sinh sự tiếp xúc tâm lý và được biểu hiện ở các quá trình thông tin, hiểu biết, rung cảm, ảnh hưởng và tác động qua lại lẫn nhau” [16]. Hoàng Anh trong luận án của mình có viết: Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý, tạo nên quan hệ giữa hai người hoặc nhiều người với nhau, chứa đựng một nội dung xã hội – lịch sử nhất định, có nhiều chức năng: tác động, hỗ trợ, cùng nhau, thông báo, điều khiển, nhận thức hành động và tình cảm nhằm thực hiện mục đích nhất định của một hoạt động nhất định [7]. Trong cuốn tâm lý học đại cương, tác giả Nguyễn Quang Uẩn cho rằng: “Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa người và người, thông qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin, về tình cảm, tri giác lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua lại với nhau hay nói khác đi giao tiếp xác lập và vận hành các quan hệ người – người, hiện thực hóa các quan hệ xã hội giữa chủ thể này với chủ thể khác” [ 20]. 13
- Tóm lại, cho đến nay vẫn còn nhiều cách định nghĩa khác nhau về giao tiếp. Điều này chứng tỏ giao tiếp là một hiện tượng phức tạp, đa dạng, mặc dù quan niệm về giao tiếp chưa có sự thống nhất hoàn toàn. Nhưng nhìn chung các nhà tâm lý học đều chỉ ra những nét chung và cơ bản sau của giao tiếp đó là: - Nói tới giao tiếp là nói tới sự tiếp xúc, quan hệ tương tác giữa người và người bị quy định bởi xã hội. - Nói tới giao tiếp là nói tới sự trao đổi chia sẻ thông tin, tư tưởng, tình cảm bằng các phương tiện ngôn ngữ, phi ngôn ngữ. Từ việc phân tích các định nghĩa trên có thể khái quát lại như sau: Giao tiếp là quá trình tiếp xúc trao đổi thông tin, suy nghĩ, cảm xúc giữa người với người thông qua ngôn ngữ, cử chỉ, điệu bộ Giao tiếp là một quá trình phức tạp và nhiều mặt. Vì vậy có thể nghiên cứu giao tiếp như là quá trình tác động qua lại của các cá thể, cũng như quá trình thông tin, thái độ của người đối với người, quá trình ảnh hưởng lẫn nhau của họ và như là quá trình gây cảm xúc và hiểu biết lẫn nhau. Các tác giả có thể trình bày theo các cách khác nhau, cùng với việc sử dụng từ ngữ không giống nhau, nhưng qua các ý kiến của tác giả chúng ta thấy giao tiếp phải bao gồm các nội dung sau: Giao tiếp có tính xã hội: Giao tiếp là một hiện tượng xã hội, là một hiện tượng đặc thù của con người và được thể hiện chỉ trong xã hội loài người. Trong thế giới động vật không có giao tiếp, không có các quan hệ mang tính chuẩn mực mà chỉ có quan hệ mang tính bầy đàn nhằm thực hiện những nhu cầu mang tính sinh học. Giao tiếp là hoạt động xác lập và vận hành các quan hệ người-người, hiện thực hoá các quan hệ xã hội giữa các cá nhân với nhau và là điều kiện để tiến hành các hoạt động chung của các cá nhân. Qua giao tiếp, sự trao đổi tiếp xúc giữa người với người làm nảy sinh, hình thành các chuẩn mực giá trị xã hội và đáp ứng các mục đích, nhu cầu của cá nhân, nhóm và xã hội. Giao tiếp có tính lịch sử: Giao tiếp bao giờ cũng mang tính chất lịch sử phát triển xã hội loài người, bởi lẽ giao tiếp có nội dung xã hội cụ thể được diễn ra 14