Luận văn Kỹ năng định hướng nghề nghiệp của học sinh Trung học phổ thông tại Thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Kỹ năng định hướng nghề nghiệp của học sinh Trung học phổ thông tại Thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_ky_nang_dinh_huong_nghe_nghiep_cua_hoc_sinh_trung_h.pdf
Nội dung text: Luận văn Kỹ năng định hướng nghề nghiệp của học sinh Trung học phổ thông tại Thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
- MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Bƣớc vào thế kỉ XXI, dƣới sự bùng nổ của cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nhiều phát minh và ngành nghề mới đƣợc ra đời để đáp ứng nhu cầu thực tiễn của xã hội. Do đó ngƣời lao động có thêm nhiều cơ hội trong việc lựa chọn lĩnh vực nghề nghiệp phù hợp với sở thích, nhu cầu, khả năng của mình. Lựa chọn nghề nghiệp là một vấn đề mang tính quyết định đối với cuộc sống của mỗi ngƣời. Để việc chọn lựa nghề nghiệp đƣợc thuận lợi và có hiệu quả, ngƣời lao động cần phải có kỹ năng trong việc định hƣớng nghề nghiệp. Kỹ năng định hƣớng nghề nghiệp là một kỹ năng quan trọng của mỗi cá nhân trong xã hội. Có kỹ năng định hƣớng nghề nghiệp tốt giúp ngƣời lao động chọn lựa đƣợc công việc phù hợp, phát huy đƣợc năng lực của bản thân, đóng góp cho sự phát triển ngành nghề và xã hội. Trái lại, thiếu kỹ năng định hƣớng nghề nghiệp sẽ dẫn đến hậu quả nhƣ chọn lựa sai ngành nghề, thay đổi nghề nghiệp thƣờng xuyên, giảm năng xuất lao động, hao tổn chi phí, mất nhiều thời gian đào tạo Học sinh Trung học phổ thông là lực lƣợng lao động tƣơng lai của xã hội. Ngoài việc trau đồi những tri thức, kỹ năng trong học tập tại nhà trƣờng phổ thông, học sinh còn cần phải có kỹ năng định hƣớng nghề nghiệp nhƣ là công cụ giúp chọn lựa và gắn bó với nghề sau khi ra trƣờng. Theo số liệu điều tra của sở Lao Động – Thƣơng binh – Xã hội thành phố Hồ Chí Minh cho biết: tỉ lệ học sinh, sinh viên tốt nghiệp muốn đƣợc làm việc với nghề lâu dài chỉ chiếm 30%; có 30 % học sinh, sinh viên muốn đổi nghề khác vì không phù hợp với năng lực, có đến 40 % học sinh, sinh viên chƣa xác định đƣợc mục tiêu nghề nghiệp. Trong số lao động trẻ của thành phố có 40 % sinh viên 1
- chọn lựa sai ngành học, học nghề không phù hợp với bản thân. Từ những số liệu thống kê trên cho thấy kỹ năng định hƣớng nghề nghiệp của học sinh, sinh viên vẫn còn hạn chế. Việc nghiên cứu về kỹ năng định hƣớng nghề nghiệp của học sinh Trung học phổ thông sẽ làm rõ đƣợc hệ thống khái niệm cơ bản đồng thời xác định đƣợc mức độ các mặt biểu hiện của kĩ năng trên. Từ đó, đề xuất ra một số giải pháp giúp nâng cao kĩ năng định hƣớng nghề nghiệp cho học sinh Trung học phổ thông. Đặc biệt là ở thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, vẫn chƣa có nghiên cứu nào về kỹ năng định hƣớng nghề nghiệp của học sinh Trung học phổ thông. Từ những cơ sở trên, ngƣời nghiên cứu chọn đề tài: “Kỹ năng định hướng nghề nghiệp của học sinh Trung học phổ thông tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”. 2. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu kỹ năng định hƣớng nghề nghiệp của học sinh Trung học phổ thông tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. 3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Kỹ năng định hƣớng nghề nghiệp của học sinh Trung học phổ thông tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. 3.2. Khách thể nghiên cứu Học sinh các trƣờng Trung học phổ thông Chuyên Lê Quí Đôn, Trung học phổ thông Vũng Tàu, Trung học phổ thông Nguyễn Huệ tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. 2
- 4. Phạm vi nghiên cứu 4.1. Về nội dung Đề tài tập trung nghiên cứu về mức độ biểu hiện của kỹ năng định hƣớng nghề nghiệp của học sinh Trung học phổ thông tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. 4.2. Về phương pháp Phạm vi đề tài này chỉ sử dụng phƣơng pháp điều tra bằng bảng hỏi, không sử dụng phƣơng pháp thực nghiệm phát hiện để nghiên cứu kỹ năng. 4.3. Về khách thể Đề tài nghiên cứu trên mẫu 450 học sinh của các trƣờng Trung học phổ thông Chuyên Lê Quí Đôn, Trung học phổ thông Vũng Tàu, Trung học phổ thông Nguyễn Huệ tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. 5. Giả thuyết nghiên cứu Kỹ năng định hƣớng nghề nghiệp của học sinh Trung học phổ thông bao gồm kỹ năng tìm hiểu bản thân, kỹ năng tìm hiểu nghề nghiệp và kỹ năng lựa chọn nghề nghiệp. Kỹ năng định hƣớng nghề nghiệp của học sinh Trung học phổ thông tại thành phố Vũng Tàu nằm ở mức trung bình. 6. Nhiệm vụ nghiên cứu 6.1. Hệ thống hóa cơ sở lý luận về kỹ năng định hƣớng nghề nghiệp của học sinh Trung học phổ thông. 6.2. Tìm hiểu thực trạng kỹ năng định hƣớng nghề nghiệp của học sinh Trung học phổ thông tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. 6.3. Đề xuất biện pháp hỗ trợ nâng cao kỹ năng định hƣớng nghề nghiệp của học sinh Trung học phổ thông tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. 3
- 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1. Phương pháp phân tích - tổng hợp tài liệu 7.1.1. Mục đích nghiên cứu Xây dựng hệ thống cơ sở lý luận về kỹ năng định hƣớng nghề nghiệp của học sinh Trung học phổ thông. 7.1.2. Nội dung nghiên cứu - Tìm hiểu lịch sử nghiên cứu vấn đề trên thế giới và ở Việt Nam về kỹ năng định hƣớng nghề nghiệp của học sinh Trung học phổ thông. - Xây dựng các khái niệm kỹ năng, định hƣớng, nghề nghiệp, định hƣớng nghề nghiệp, kỹ năng định hƣớng nghề nghiệp của học sinh Trung học phổ thông. 7.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi 7.2.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu mức độ biểu hiện kỹ năng định hƣớng nghề nghiệp của học sinh Trung học phổ thông tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. 7.2.2. Cấu trúc bảng hỏi - Phần I. Thông tin chung - Phần II. Nội dung chi tiết về mức độ kỹ năng định hƣớng nghề nghiệp của học sinh Trung học phổ thông 7.3. Phương pháp thống kê toán học Đề tài sử dụng phần mềm thống kê SPSS for Window 20.0 để xử lý kết quả 7.4. Phương pháp phỏng vấn 7.4.1. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu sâu về kết quả khảo sát thực trạng để phục vụ cho việc bình luận kết quả. 7.4.2. Nội dung nghiên cứu 4
- Quan điểm của học sinh THPT về kỹ năng định hƣớng nghề nghiệp của bản thân. 8. Đóng góp của đề tài - Đề tài nghiên cứu đóng góp cách định nghĩa mới về kỹ năng định hƣớng nghề nghiệp của học sinh Trung học phổ thông. - Kết quả nghiên cứu làm rõ thực trạng kỹ năng định hƣớng nghề nghiệp của học sinh Trung học phổ thông tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. - Đề tài cũng đề xuất một số biện pháp nâng cao kỹ năng định hƣớng nghề nghiệp cho học sinh Trung học phổ thông. 5
- NỘI DUNG CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Lịch sử nghiên cứu 1.1.1. Những nghiên cứu ở nƣớc ngoài có liên quan đến đề tài 1.1.1.1. Vấn đề hƣớng nghiệp và tham vấn hƣớng nghiệp cho học sinh Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề hƣớng nghiệp và tham vấn nghề nghiệp cho thanh niên học sinh. Cụ thể: Năm 1908, tại Đại học Pensylvania, Giáo sƣ Frank Parson là ngƣời đặt nền móng các khái niệm cơ bản cho hoạt động tƣ vấn hƣớng nghiệp (career counseling) hay tƣ vấn nghề (vocational guidance) ngày nay. Đồng thời năm 1908, ông cũng thành lập hội đồng hƣớng nghiệp ở Boston (Mỹ) với nhiệm vụ nghiên cứu các yêu cầu của nghề đối với con ngƣời, tìm hiểu chi tiết về năng lực của ngƣời học để giúp họ có đƣợc sự định hƣớng nghề nghiệp phù hợp với năng lực và hứng thú cá nhân. Một năm sau cũng chính Frank Parson là ngƣời đầu tiên trình bày khái niệm hƣớng nghiệp trong cuốn sách “Lựa chọn một nghề nghiệp” (Choosing a vocation, 1909). Những khái niệm này đã trở thành lý luận cơ sở cho những lý thuyết có liên quan đến đặc điểm tính cách của con ngƣời (trait) và yếu tố nghề (factor) - (trait and factor theory: lý thuyết đặc điểm ngƣời - nghề). Nhìn chung, cuốn sách là công trình nền tảng trình bày cơ sở Tâm lý học của hƣớng nghiệp và chọn nghề, cũng nhƣ các tiêu chí về sự phù hợp nghề của mỗi cá nhân để từ đó lựa chọn nghề cho phù hợp. Vào những năm 1940, nhà Tâm lí học ngƣời Mỹ J. L. Holland (1919 - 2008) đã nghiên cứu và thừa nhận sự tồn tại của các loại nhân cách và sở thích nghề nghiệp. Tác giả đã chỉ ra tƣơng ứng với mỗi kiểu nhân cách là một 6
- trong số những nghề nghiệp tƣơng xứng có thể chọn để đạt đƣợc kết quả làm việc và thành công nghề nghiệp cao nhất. Lý thuyết này của J. L. Holland đã đƣợc sử dụng rộng rãi nhất trong thực tiễn hƣớng nghiệp trên thế giới. Đến năm 1948, cuốn sách “Hƣớng dẫn chọn nghề” xuất bản ở Pháp đƣợc xem là cuốn sách đầu tiên nói về định hƣớng nghề nghiệp. Nội dung của cuốn sách đề cập đến sự phát triển đa dạng của các ngành nghề trong xã hội do sự phát triển của công nghiệp. Từ đó rút ra những kết luận coi giáo dục hƣớng nghiệp là một vấn đề quan trọng không thể thiếu khi xã hội loài ngƣời càng ngày càng có những bƣớc tiến vƣợt bậc. Tiếp tục phát triển đến năm 1970, 1980 ở Mỹ đã kết hợp chặt chẽ việc tƣ vấn nghề với chƣơng trình công nghệ và dạy nghề. Những nhà nghiên cứu ở đây cũng đã đƣa môn “Hƣớng dẫn chọn nghề - Career Guidance” vào giảng dạy ở trƣờng Trung học. Sau đó là từ bậc Trung học đến Đại học đều có các cố vấn học tập hay cố vấn tâm lí làm việc. Đây cũng là những cơ sở ban đầu rất quan trọng của việc tham vấn hƣớng nghiệp nhƣ: tìm hiểu bản thân, xác định khả năng, tìm hiểu về nghề để tìm ra những định hƣớng chọn nghề trong tƣơng lai sao cho thật phù hợp [40, 7 - 8]. 1.1.1.2. Vấn đề về tự định hƣớng nghề nghiệp của học sinh Về nhận thức nghề nghiệp, nhà nghiên cứu N. D. Levitop, V. A. Kruchetxki, A. V Petrotxki đã đề cập đến ý nghĩa của sự hiểu biết nghề định chọn đối với học sinh. Vì học sinh chƣa có quan niệm rõ ràng về đa số các nghề nên không thể định hƣớng đúng đắn các nghề đó [40, 6]. Dự định chọn nghề của học sinh cũng đƣợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm (V. V. Votzinxkaia, V. S. Supkin, V. P. Gribanop, X. N. Tritaicova, N. N. Dakhop, A. A. Barbinova, ) và nhận xét phần lớn học sinh Trung học phổ thông mong muốn sau khi tốt nghiệp đƣợc tiếp tục học cao hơn. Các em 7
- không thích đi làm ngay. Những nghề các em chọn cũng mang màu sắc giới tính và lứa tuổi [40, 7]. Về động cơ chọn nghề, nghiên cứu của các tác giả V. A. Kruchetxki đã nêu ra những động cơ bên ngoài và động cơ bên trong trong quá trình lựa chọn nghề nghiệp của học sinh. V. A. Detropxki chỉ ra sự hấp dẫn của nghề là do tính sáng tạo, ý nghĩa xã hội của nghề nghiệp, qui mô tiền lƣơng chi phối [40, 7]. 1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam có liên quan đến đề tài 1.1.2.1. Vấn đề hƣớng nghiệp và tham vấn hƣớng nghiệp cho học sinh Ở Việt Nam, đầu tiên phải kể đến những nhà khoa học đi tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu về định hƣớng nghề nghiệp và lĩnh vực khác nhƣ Giáo sƣ Phạm Tất Dong, Giáo sƣ Phạm Huy Thụ, Phó giáo sƣ Đặng Danh Ánh, Giáo sƣ Nguyễn Văn Hộ, và một số tác giả trẻ khác. Trong số đó có thể nói Giáo sƣ Phạm Tất Dong là ngƣời có đóng góp rất nhiều cho giáo dục hƣớng nghiệp tại Việt Nam, ông đã dày công nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn cho giáo dục hƣớng nghiệp nhƣ: xác định mục đích, ý nghĩa, vai trò của hƣớng nghiệp, hứng thú, nhu cầu, động cơ nghề nghiệp, hệ thống các quan điểm, nguyên tắc hƣớng nghiệp, các nội dung, phƣơng pháp, biện pháp giáo dục hƣớng nghiệp, Điều này đƣợc thể hiện ở rất nhiều bài báo cáo, sách, giáo trình của ông nhƣ bài “Hƣớng nghiệp cho thanh niên”, đăng trên tạp chí Thanh Niên (số 8, 1982), báo cáo “Một con đƣờng hình thành lí tƣởng nghề nghiệp cho học sinh lớn”, các tác phẩm nhƣ: “Nghề nghiệp tƣơng lai – giúp bạn chọn nghề” hay cuốn “Tƣ vấn hƣớng nghiệp – sự lựa chọn cho tƣơng lai – giúp bạn chọn nghề” hoặc cuốn “Giúp bạn chọn nghề” (2005) đƣa ra những cơ sở khoa học lựa chọn nghề nghiệp phù hợp [40, 11]. 8
- Vào những năm 1980 đã có các tài liệu hƣớng dẫn hƣớng nghiệp cho học sinh cuối cấp Trung học cơ sở và Trung học phổ thông. Vào đầu những năm 1990, hoạt động hƣớng nghiệp đƣợc khôi phục, các trung tâm hƣớng nghiệp đƣợc thành lập với tài liệu “Tƣ vấn nghề cho học sinh phổ thông” cũng đã đƣợc biên soạn. Liên quan đến vấn đề tham vấn hƣớng nghiệp cho học sinh, đề tài “Nghiên cứu một số giải pháp khả thi trong việc ứng dụng triển khai công tác tham vấn hƣớng nghiệp cho học sinh phổ thông cấp 2, 3 ở thành phố Hồ Chí Minh - Tƣ vấn hƣớng nghiệp, thực trạng và giải pháp”, tác giả Nguyễn Toàn (chủ nhiệm đề tài), trung tâm hƣớng nghiệp kĩ thuật ở Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh, năm 1998 khảo sát về thực trạng chọn nghề của học sinh với kết quả phần lớn các em chọn nghề theo cảm tính, nêu một số sai lầm của học sinh khi chọn nghề. Theo đó, ngành Giáo dục cần phải định hƣớng các em thông qua công tác tƣ vấn hƣớng nghiệp, dựa vào cơ sở của việc xác định yêu cầu nghề nghiệp. Tác giả Hoàng Trung Học với luận văn nghiên cứu thực trạng nhận thức của giáo viên trƣờng Trung học phổ thông Nguyễn Tất Thành về tham vấn học đƣờng (2005) đã có nhận định: Đa số giáo viên có nhận thức hạn chế về bản chất của quá trình tham vấn, với những giáo viên nhận thức đúng mức độ, nhận thức cũng chỉ dừng lại ở nhận biết về những biểu hiện cụ thể của vấn đề, sự tồn tại của khó khăn tâm lí đƣợc nhận thức, đặc biệt, họ cũng chỉ ra rằng nhu cầu tham vấn nghề nghiệp của học sinh là rất lớn. Các giáo viên cũng tự nhận thức đƣợc hiệu quả tham vấn còn hạn chế, khẳng định vai trò của các chuyên gia tham vấn chuyên nghiệp trong nhà trƣờng là cần thiết. 1.1.2.2. Vấn đề tự định hƣớng nghề nghiệp của học sinh Về động cơ chọn nghề, tác giả Nguyễn Ngọc Bích trong luận án Phó tiến 9
- sĩ năm 1979 đã nghiên cứu động cơ chọn nghề của thanh niên học sinh, động cơ bên trong nổi bật hơn động cơ bên ngoài, đƣợc sắp xếp theo thứ tự ( khả năng của bản thân, tính chất quan trọng của nghề nghiệp, khả năng đáp ứng đƣợc yêu cầu công việc). Về xu hƣớng chọn nghề, năm 2005, tác giả Nguyễn Ngọc Tài chủ nhiệm đề tài “Xu hƣớng chọn nghề của học sinh Trung học phổ thông hiện nay và các giải pháp giáo dục có định hƣớng”. Đề tài cho thấy thực trạng lựa chọn nghề nghiệp của học sinh Trung học phổ thông cũng nhƣ các yếu tố thúc đẩy việc chọn nghề và khẳng định học sinh vẫn rất lúng túng khi lựa chọn nghề nghiệp vì thiếu thông tin chính thống. Hai tác giả Nguyễn Thạc và Nguyễn Thị Ngọc Liên nghiên cứu xu hƣớng chọn nghề của học sinh Trung học phổ thông có kiểu nhân cách khác nhau ở 3 khía cạnh: nhận thức của học sinh về yêu cầu nghề lựa chọn, thái độ của học sinh đối với nghề đƣợc chọn và thực trạng chọn nghề của học sinh có kiểu nhân cách khác nhau [30, 11]. Năm 2008, tác giả Trần Đình Chiến với nghiên cứu “Xu hƣớng lựa chọn nghề nghiệp của học sinh lớp 12 trƣờng Trung học phổ thông dƣới ảnh hƣởng của nền kinh tế thị trƣờng” ( khảo sát tại tỉnh Phú Thọ, Thái Nguyên ) đã phản ánh thực trạng chọn nghề của học sinh nơi đây. Học sinh chọn nghề theo địa vị, danh tiếng trong xã hội, chƣa quan tâm đến sự phù hợp giữa nghề nghiệp với bản thân mình [38]. Tác giả Nguyễn Quang Uẩn cùng đồng nghiệp đã nghiên cứu đặc điểm về xu hƣớng nghề của học sinh thành phố theo các chỉ số: mức độ nhận thức nghề, tính ổn định của thái độ đối với nghề, qua đó cho thấy đặc điểm chung về xu hƣớng nghề của học sinh Trung học, xác định đƣợc những nghề mà học sinh biết nhiều nhất cũng nhƣ thái độ đánh giá của học sinh về các nghề [30, 9]. 10
- Trong công trình nghiên cứu về khả năng tự định hƣớng nghề nghiệp và cuộc sống tƣơng lai của các học sinh Trung học phổ thông, tác giả Đặng Hoàng Minh và các cộng sự kết luận nhƣ sau: Trong các dự định về nhiều vấn đề khác nhau, vấn đề học tập - nghề nghiệp đƣợc quan tâm hàng đầu. Nghiên cứu cũng chỉ ra mối quan hệ mật thiết giữa xu hƣớng hành động, các mức độ chuẩn bị cho kế hoạch tƣơng lai và các dự định cụ thể [32, 15]. Ngoài ra còn có nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả khác theo hƣớng này nhƣ: - Tác giả Phạm Mạnh Hà với nghiên cứu thực trạng chọn nghề của học sinh lớp 12 trƣờng Trung học phổ thông Bát Xát, Lào Cai ” vào năm 2003. - Tác giả Đào Thị Oanh, với đề tài “Nghiên cứu xu hƣớng nghề nghiệp của học sinh Trung học” đăng trên Tạp chí Tâm lí học, số 7, năm 2004. - Tác giả Nguyễn Công Khanh và Nguyễn Văn Lê với đề tài nghiên cứu “ Định hƣớng nghề nghiệp của học sinh lớp 12 trƣờng Trung học phổ thông dƣới ảnh hƣởng của nền kinh tế thị trƣờng ” thực hiện vào năm 2004. - Đề tài cấp nhà nƣớc (năm 2003 - 2004) của Viện Khoa học Lao động và Xã hội: “Nghiên cứu thị trƣờng lao động và định hƣớng nghề nghiệp của thanh niên Việt Nam hiện nay” do Tiến sĩ Nguyễn Hữu Dũng làm chủ nhiệm. - Tác giả Trần Thị Dịu với luận văn nghiên cứu “Định hƣớng nghề nghiệp - Ảnh hƣởng của gia đình, bạn bè và nhà trƣờng đến học sinh khối 12” (Nghiên cứu trƣờng hợp tại thành phố Hồ Chí Minh) Nhìn chung đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề định hƣớng nghề nghiệp trên thế giới và ở Việt Nam. Đây chính là nguồn tài liệu quí báu để ngƣời nghiên cứu tham khảo, kế thừa những thành quả của các tác giả đi trƣớc khi xem xét về các vấn đề liên quan đến đề tài. Mặc dù đã có rất nhiều các đề tài về nhu cầu, động cơ, xu hƣớng chọn nghề, nhu cầu tham vấn hƣớng nghiệp, hay thực trạng chọn nghề, thực trạng tham vấn hƣớng nghiệp 11
- nhƣng hầu nhƣ chƣa có nghiên cứu nào về kỹ năng định hƣớng nghề nghiệp. Hơn nữa, dựa vào kết quả của các nghiên cứu đi trƣớc về vấn đề tự định hƣớng nghề nghiệp của thanh niên học sinh, ngƣời nghiên cứu nhận thấy đa phần học sinh Trung học phổ thông chọn nghề vẫn còn cảm tính, chọn theo số đông mà chƣa có kỹ năng trong việc định hƣớng nghề nghiệp cho bản thân. Điều đó càng thúc đẩy ngƣời nghiên cứu thực hiện đề tài này. 1.2. Lý luận về kỹ năng định hướng nghề nghiệp của học sinh Trung học phổ thông 1.2.1. Kỹ năng 1.2.1.1. Định nghĩa về kỹ năng Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về kỹ năng của các tác giả trong và ngoài nƣớc. Ở đề tài này, ngƣời nghiên cứu tập trung vào hai quan điểm chính về kỹ năng: a. Quan điểm thứ nhất coi kỹ năng là mặt kỹ thuật của thao tác, hành động, hoạt động. - Từ điển Tâm lý học của Mỹ do tác giả J. P. Chaplin chủ biên (1968) định nghĩa kỹ năng là “thực hiện một trật tự cho phép chủ thể tiến hành hành động một cách trôi chảy và đúng đắn” [36, 24]. Từ định nghĩa này cho thấy tác giả nhìn nhận kỹ năng ở cả hai góc độ gồm thứ tự thực hiện hành động của một cá nhân và tính chất của những hành động đó. - Từ điển Tâm lý học (1983) của Liên Xô (cũ) định nghĩa: “Kỹ năng là giai đoạn của việc nắm vững một phương thức hành động mới - cái dựa trên một qui tắc (tri thức) nào đó và trên quá trình giải quyết một loạt các nhiệm vụ tương ứng với tri thức đó, nhưng còn chưa đạt đến mức độ kỹ xảo” [36, 12
- 25]. Từ cách định nghĩa này có thể hiểu rằng, khi đề cập đến kỹ năng của một ai đó tức là xem xét ngƣời đó có biết rõ những cách hành động mới mà cơ sở của những cách này là sự ứng dụng lý thuyết vào thực tiễn hay không. - Tác giả V. A. Kruchetxki thì cho rằng: “Kỹ năng là phương thức thực hiện hành động đã được con người nắm vững từ trước ”. [17, 21]. Định nghĩa của Kruchetxki xem xét kỹ năng của một cá nhân là cách làm đã đƣợc cá nhân đó biết rõ. Cũng có thể hiểu rằng, cách làm của một cá nhân nào đó đƣợc gọi là kỹ năng khi và chỉ khi đƣợc cá nhân đấy biết rõ. - Tác giả Trần Trọng Thủy quan niệm rằng kỹ năng là “mặt kỹ thuật của hành động, con người nắm được hành động tức là có kỹ thuật hành động, có kỹ năng” [28, 15]. Kỹ thuật ở đây có thể hiểu một cách đơn giản là tổng thể những phƣơng pháp, cách thức đƣợc một cá nhân sử dụng trong lĩnh vực hoạt động nào đó. Nhƣ vậy, quan điểm trên đã chỉ ra sự tƣơng đồng giữa việc một cá nhân có kỹ năng và việc cá nhân ấy có cách thức làm gì đó. Cũng có thể hiểu khi một ngƣời biết làm điều gì ra sao tức là ngƣời ấy có kỹ năng. - Tác giả Nguyễn Hữu Nghĩa, Triệu Xuân Quýnh, Bùi Ngọc Oánh cho rằng: “Kỹ năng là những hành động được hình thành do sự bắt chước trên cơ sở của tri thức mà có, chúng đòi hỏi sự tham gia thường xuyên của ý thức, sự tập trung chú ý, cần tiêu tốn nhiều năng lượng cơ thể” [12, 17]. Định nghĩa này đã cung cấp hiểu biết về nguồn gốc hình thành kỹ năng là tri thức. Bên cạnh đó, khi đề cập đến sự hình thành kỹ năng của một ngƣời thì phải lƣu ý đến yêu cầu về sự hiện diện của ý thức, chú ý và sự hao phí sức lực. Từ việc tìm hiểu các định nghĩa về kỹ năng theo quan điểm thứ nhất, ngƣời nghiên cứu nhận thấy có nét tƣơng đồng trong cách xem xét của các 13
- tác giả về kỹ năng, coi đó nhƣ là phƣơng thức thực hiện hành động và dựa trên cơ sở tri thức mà chủ thể đã biết. Các quan niệm trên đã chú ý đến mặt kỹ thuật của kỹ năng, mô tả những kỹ năng đơn giản có thể quan sát đƣợc thông qua các thao tác cụ thể, đƣợc hình thành do sự bắt chƣớc. Tuy nhiên, khi xem xét khi xem xét mối quan hệ giữa kỹ năng và năng lực theo hƣớng nghiên cứu này thì khó có thể lý giải sự hình thành năng lực. Bởi vì, nếu chỉ xem xét kỹ năng nhƣ mặt kỹ thuật của thao tác thì kỹ năng chƣa thể hình thành nên năng lực. b. Quan điểm thứ hai xem xét kỹ năng là một biểu hiện của năng lực của con ngƣời trong hoạt động. Trong từ điển Tâm lí học của A. M. Colman, kỹ năng đƣợc hiểu là: “Sự thông thạo, hiểu biết chuyên môn sâu, là khả năng đạt được thành tích cao trong một lĩnh vực nhất định; cụ thể là một cách thức thực hiện hành vi có sự phối hợp, có tổ chức, đạt được thông qua sự huấn luyện và thực hành” [18, 25]. Định nghĩa trên đề cập đến kỹ năng nhƣ là sự tổng hợp hai khía cạnh trong khả năng của một cá nhân gồm nắm vững cơ sở lý thuyết của việc gì đó và hoàn thành tốt việc đó trong thực tế. Khi cụ thể hóa khả năng này thì có thể hiểu đây chính là phƣơng pháp làm điều gì đó dựa trên sự huấn luyện và thực hành. Các tác giả V. S. Cudin và A. G. Covaliop cho rằng: “Kỹ năng là phương thức thực hiện hành động với mục đích và điều kiện hành động”. Theo các tác giả, kết quả của hành động phải phụ thuộc vào yếu tố, trong đó quan trọng hơn cả là là năng lực của con ngƣời chứ không đơn giản là cứ nắm vững cách thức hành động thì đem lại kết quả tƣơng ứng [17, 22]. Tác giả M. G. Iaroxevky đƣa ra định nghĩa “Kỹ năng là phương thức hành động dựa trên tổ hợp những tri thức và kỹ xảo. Kỹ năng hình thành 14
- bằng con đường luyện tập, tạo khả năng cho con người thực hiện hành động không chỉ trong điều kiện quen thuộc mà cả trong những điều kiện khác lạ” [19, 25]. Tác giả N. D. Levitov cho rằng: “Kỹ năng là sự thực hiện có kết quả một động tác nào đó hay một hoạt động phức tạp hơn bằng cách lựa chọn và áp dụng những cách thức đúng đắn có chiếu cố đến những điều kiện nhất định” [28, 16]. Tác giả Petrovsky xem kỹ năng nhƣ là các kỹ năng phức tạp có bản chất nhận thức và giải quyết vấn đề: “Năng lực sử dụng các dữ kiện, các tri thức hay kinh nghiệm đã có, năng lực vận dụng chúng để phát hiện những thuộc tính bản chất của các sự vật và giải quyết thành công những nhiệm vụ lý luận hay thực hành xác định, được gọi là kỹ năng” [13, 25]. Bằng sự tổng hợp các quan niệm về kỹ năng theo hƣớng thứ hai, ngƣời nghiên cứu nhận thấy cách xem xét của các tác giả trên có sự nhất trí trong việc cho rằng kỹ năng là khả năng đạt đƣợc thành tích khi giải quyết nhiệm vụ hay công việc. Kỹ năng cần dựa trên sự vận dụng tri thức, kinh nghiệm đã biết của chủ thể. Để có đƣợc kỹ năng, chủ thể cần có sự luyện tập trong thực tế. Tóm lại, những nghiên cứu theo hƣớng này xem xét kỹ năng nhƣ là sự kết hợp của tri thức, kinh nghiệm nhằm thực hiện một nhiệm vụ nào đó một cách có hiệu quả. Kỹ năng không chỉ là thao tác mà còn là biểu hiện của năng lực. Cách xem xét kỹ năng theo hƣớng này cũng đã giải thích đƣợc mối quan hệ giữa kỹ năng và năng lực của chủ thể, có chú ý đến vai trò của nhận thức và mục đích của hành động. Kỹ năng định hƣớng nghề nghiệp là một kỹ năng phức tạp, đòi hỏi sự kết hợp của nhiều yếu tố, không chỉ đơn thuần bởi các thao tác. Ngƣời nghiên cứu nhận thấy cần có sự kết hợp trong việc xem xét khái niệm kỹ năng từ cả quan niệm thứ nhất và quan niệm thứ hai. Cũng từ sự phân tích và lập luận 15
- bên trên, ngƣời nghiên cứu quan niệm: Kỹ năng là khả năng vận dụng có hiệu quả những tri thức, kinh nghiệm trong quá trình chủ thể thực hiện một nhiệm vụ, công việc nào đó bằng cách thức đúng đắn nhằm đạt được kết quả mong đợi. 1.2.1.2. Đặc điểm của kỹ năng Theo tác giả Hoàng Anh, kỹ năng “vừa có tính ổn định, vừa có tính mềm dẻo, tính linh hoạt, sáng tạo vừa có tính mục đích” [8, 29]. Trong phạm vi đề tài này, ngƣời nghiên cứu tán thành việc xem tính linh hoạt là một đặc điểm của kỹ năng nhƣ tác giả trên. Bên cạnh đó, dựa vào sự phân tích định nghĩa về kỹ năng ở phần trƣớc, có thể rút ra ba đặc điểm sau của kỹ năng: Một là, tính đúng đắn của kỹ năng, tức là chủ thể vận dụng tri thức và kinh nghiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ hay công việc nào đó phải đảm bảo các thao tác, hành động đơn giản hay phức tạp đều có sự chính xác. Để đạt đƣợc độ chính xác cao, chủ thể có thể đã mắc rất nhiều lỗi trong giai đoạn đầu. Tuy nhiên, sai phạm giảm dần theo quá trình luyện tập của chủ thể. Dần dần chủ thể sẽ rút đƣợc kinh nghiệm qua lần thực hiện kỹ năng trƣớc, mắc ít hoặc rất ít lỗi sai trong những lần sau. Kỹ năng càng đạt tới mức độ hoàn hảo thì chủ thể càng gần nhƣ không mắc lỗi sai nào. Hai là, tính linh hoạt của kỹ năng, tức là năng lực tâm lý mà chủ thể cố gắng thử nhiều cách khác nhau có thể để tổ chức và lập kế hoạch các bƣớc trong tƣơng lai của một vấn đề. Trong quá trình giải quyết vấn đề, chủ thể ít bị tác động về mặt cảm xúc, thích ứng nhanh, tốt với sự thay đổi điều kiện khác nhau. Tính linh hoạt càng cao thì chủ thể càng vận dụng sáng tạo những tri thức, kinh nghiệm sống vào thực tế hiệu quả. Qua việc rèn luyện tính linh hoạt của kỹ năng, chủ thể sẽ hình thành đƣợc khả năng phản ứng nhanh chóng trong việc nắm bắt cơ hội giải quyết vấn đề. 16
- Ba là, tính thuần thục của kỹ năng, tức là chủ thể tiến hành nhuần nhuyễn các thao tác, hành động đơn thuần hay phức tạp mà không gặp phải sự lúng túng hay ngắt quãng. Để có đƣợc sự thuần thục này, chủ thể cần luyện tập nhiều lần. Thời gian đầu, các thao tác, hành động có thể vấp phải sự ngập ngừng, lúng túng, có nhiều động tác thừa. Dần dần, chủ thể mới có thể thực hiện nhiệm vụ, công việc một cách trôi chảy hơn, bỏ bớt thao tác thừa, thời gian thực hiện hành động đƣợc rút ngắn dần. Ngƣợc lại, nếu thiếu đi tính thuần thục, thì các hành động, thao tác của chủ thể gặp gián đoạn, tốn nhiều thời gian để hoàn thành công việc, kết quả khó đạt nhƣ mong đợi. 1.2.1.3. Mức độ của kỹ năng Trong từ điển rút gọn các khái niệm Tâm lí học của Nga và cũng là quan niệm của K. K. Platonov và G. G. Golubev, có năm mức độ hình thành kĩ năng nhƣ sau [13, 28]: Bảng 1.1. Các mức độ kĩ năng theo quan điểm của K. K. Platonov và G. G. Golubev Thứ Các mức Miêu tả tự độ Có kĩ năng sơ đẳng, hành động đƣợc thực hiện theo 1 Mức độ 1 cách thử và sai, dựa trên vốn hiểu biết và kinh nghiệm 2 Mức độ 2 Biết cách thực hiện hành động nhƣng không đầy đủ Có những kĩ năng chung nhƣng còn mang tính chất rời 3 Mức độ 3 rạc, riêng lẻ 4 Mức đô 4 Có những kĩ năng chuyên biệt để hành động Vận dụng sáng tạo những kĩ năng trong các tình huống 5 Mức độ 5 khác nhau 17
- Theo quan điểm của V. B. Bexpalko, có 5 mức độ kĩ năng: từ những kĩ năng ban đầu đến những kĩ năng đạt mức độ hoàn hảo nhƣ sau: Mức độ 1: Kĩ năng ban đầu Ngƣời học đã có những kiến thức về nội dung một dạng kĩ năng nào đó, và trong những tình huống cụ thể khi cần thiết, sẽ có thể tái hiện thành những thao tác, hành động nhất định. Tuy nhiên, mức độ kĩ năng ban đầu này ngƣời học thƣờng chỉ thực hiện yêu cầu của kĩ năng này dƣới sự hƣớng dẫn của ngƣời dạy. Mức độ 2: Kĩ năng thấp Khác với mức độ 1, ở mức độ kĩ năng thấp, ngƣời học có thể tự thực hiện các thao tác, hành động cần thiết theo một trình tự đã biết. Song ở mức độ kĩ năng này, ngƣời học chỉ thực hiện đƣợc những thao tác, hành động trong những tình huống quen thuộc và chƣa di chuyển đƣợc sang tình huống mới. Mức độ 3: Kĩ năng trung bình Ngƣời học tự thực hiện thành thạo các thao tác trong tình huống quen thuộc. Tuy vậy, việc di chuyển các kĩ năng sang tình huống mới còn hạn chế. Mức độ 4: Kĩ năng nâng cao Một sự khác biệt thể hiện ở mức độ cao là ngƣời học đã tự lựa chọn hệ thống các thao tác, các hành động cần thiết trong các tình huống khác nhau. Bên cạnh đó, ngƣời học đã biết di chuyển kĩ năng trong phạm vi nhất định. Mức độ 5: Kĩ năng hoàn hảo Đây là mức độ cao nhất của kĩ năng. Ngƣời học nắm đƣợc đầy đủ hệ thống các thao tác, hành động khác nhau, biết lựa chọn những thao tác, hành động cần thiết và ứng dụng chúng một cách thành thạo trong các tình huống khác nhau mà không gặp khó khăn gì [28, 19]. Dựa vào sự phân tích cách phân chia mức độ kỹ năng của các tác giả trên, ngƣời nghiên cứu chọn cách phân chia của tác giả V. B. Bexbalco làm nền 18
- tảng cho việc xét mức độ kỹ năng trong đề tài này. 1.2.1.4. Quá trình hình thành kỹ năng Tác giả M. G. Iarosevxki cho rằng: “Để có thể hoạt động hiệu quả, con ngƣời phải có kĩ năng và kĩ năng chỉ có thể phát triển thông qua thực tiễn hoạt động”. Đồng ý với quan điểm này, nhà nghiên cứu ngƣời Đức W. Hussy khẳng định “Kĩ năng được hình thành trong hoạt động và thông qua hoạt động” và tác giả Robert J. Sternberg (2003) ở Đại học Yale nhìn nhận: “Thực chất của sự hình thành kĩ năng là tạo điều kiện để chủ thể nắm vững một hệ thống phức tạp các bước, các thao tác và làm sáng tỏ những thông tin chứa đựng trong các tình huống, các nhiệm vụ và đối chiếu chúng với những hành động cụ thể” [36, 28]. Theo từ điển Tâm lý học do tác giả Nguyễn Văn Lũy - Lê Quang Sơn (Chủ biên), “điều kiện chung đảm bảo hiệu quả cao nhất của việc hình thành kỹ năng là: a/ sự lĩnh hội của người học các qui luật (qui định) đã được khái quát hóa, b/ mối quan hệ ngược trong quá trình giải quyết nhiệm vụ mới” [ 34, 226]. Theo tác giả Vũ Dũng thì kỹ năng hình thành qua 3 giai đoạn: Giai đoạn 1: Ngƣời học cần làm quen với vận động và lần đầu lĩnh hội nó. Sự học vận động bắt đầu từ việc phát hiện các thành phần của vận động – tập hợp các thành tố của vận động, trình tự thực hiện và mối liên kết của chúng. Việc làm quen này diễn ra trên cơ sở ngƣời học đƣợc xem trình diễn lại, thuật lại, giảng bài và quan sát một cách trực quan quá trình thực hiện vận động. Pha tiếp theo của giai đoạn thứ nhất đòi hỏi nhiều nỗ lực. Ngƣời học phải lặp lại vận động nhiều lần để nắm đƣợc bức tranh bên trong của vận động. Đồng thời học bản mã hóa những tín hiệu từ các mệnh lệnh. Việc tích lũy “những từ điển chuyển mã” là một trong những sự kiện quan trọng nhất của giai đoạn 19
- này. Cần phải lặp đi lặp lại nhiều lần để ngƣời học có thể tìm đƣợc “bảng mã” trong bất kì phƣơng án nào của vận động, kể cả khi có sự lệch chuẩn. Giai đoạn 2 – giai đoạn tự động hóa vận động: Ở đây các thành phần chủ đạo của vận động đƣợc giải phóng từng phần hoặc hoàn toàn khỏi sự quan đến nó, thoát khỏi sự kiểm soát của ý thức và sự “thoát khỏi” này có thể và cần có sự trợ giúp. Giai đoạn 3: diễn ra sự “mài móng” kĩ năng nhờ quá trình ổn định hóa và tiêu chuẩn hóa. Trong quá trình ổn định hóa, kĩ năng đạt đƣợc tính bền vững và không bị phá hủy trong bất kì tình huống nào. Trong quá trình tiêu chuẩn hóa, kĩ năng dần đƣợc định khuôn nhờ lặp đi lặp lại vận động nhiều lần [42, 400 - 401]. Nhƣ vậy, các tác giả trên đây đều có điểm chung khi đề cập đến quá trình hình thành kỹ năng, cụ thể: con đƣờng hình thành kỹ năng cũng chính là con đƣờng hoạt động trong thực tiễn của chủ thể. Để hình thành nên kỹ năng chủ thể cần có sự cọ xát với thực tế để nắm vững hệ thống các thao tác, hành động, làm sáng tỏ thông tin liên quan đến nhiệm vụ hay công việc. Kỹ năng đƣợc hình thành và củng cố bằng sự luyện tập lặp đi lặp lại để chủ thể có đƣợc khả năng tự động hóa trong giải quyết vấn đề, thậm chí có sự linh động, mềm dẻo và thích nghi tốt ngay cả khi có sự thay đổi về điều kiện. Kỹ năng đã đƣợc hình thành và thƣờng xuyên đƣợc củng cố có nghĩa là có sự bền vững và khó phá hủy. 1.2.2. Khái niệm định hƣớng nghề nghiệp 1.2.2.1. Định nghĩa về định hƣớng Định hƣớng theo cách hiểu thông thƣờng là sự lựa chọn, quyết định hƣớng đi, cách hành động sao cho phù hợp với bản thân và xã hội. Theo từ điển Tâm lí học của Vũ Dũng (Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, 20