Luận văn Kiểm tra công tác thi hành án dân sự từ thực tiễn Thành phố Hà Nội
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Kiểm tra công tác thi hành án dân sự từ thực tiễn Thành phố Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_kiem_tra_cong_tac_thi_hanh_an_dan_su_tu_thuc_tien_t.pdf
Nội dung text: Luận văn Kiểm tra công tác thi hành án dân sự từ thực tiễn Thành phố Hà Nội
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐÀO NGỌC ANH KIỂM TRA CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIẾN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật hành chính Mã số : 60.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Tuấn Khanh HÀ NỘI, 2017
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam kết luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của Tôi. Các tài liệu, tư liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn dẫn rõ ràng, các kết quả nghiên cứu là quá trình lao động trung thực của tôi. Hà Nội, Ngày 15 tháng 3 năm 2017 TÁC GIẢ LUẬN VĂN ĐÀO NGỌC ANH
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ KIỂM TRA CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 8 1.1. Những vấn đề lý luận về Kiểm tra công tác Thi hành án dân sự. 8 1.2. Pháp luật về kiểm tra công tác thi hành án dân sự 19 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kiểm tra công tác thi hành án dân sự 26 Chương 2: THỰC TRẠNG KIỂM TRA CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI 31 2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của thành phố Hà Nội 31 2.2. Thực tiễn tổ chức hoạt động thi hành án dân sự và kiểm tra công tác thi hành án dân sự tại Hà Nội 33 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM TRA CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 54 3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả kiểm tra công tác thi hành án dân sự 54 3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm tra công tác thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội 61 KẾT LUẬN 74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 75
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công cuộc đổi mới mà Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành là tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực sự của dân, do dân, vì dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chính vì vậy, coi trọng pháp luật và pháp chế trong quản lý xã hội, quản lý nhà nước là không thể thiếu. Trong đó, các phán quyết của Tòa án và của các cơ quan tài phán đưa ra phải được chấp hành nghiêm chỉnh, đúng như Điều 106 Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động thực thi phán quyết của Tòa án liên quan đến các vấn đề về tài sản và nhân thân trong các bản án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính, hôn nhân và gia đình Có thể nói hoạt động thi hành án dân sự là giai đoạn cuối cùng của hoạt động tố tụng nên công tác thi hành án dân sự đóng vai trò rất quan trọng trong việc đưa các bản án, quyết định của Tòa án được thực thi trên thực tế. Đặc biệt trong điều kiện kinh tế, xã hội phát triển, các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại diễn ra ở hầu hết các lĩnh vực, chính vì thế các tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động, thương mại ngày càng gia tăng, tính chất vụ việc phức tạp, gây nhiều khó khăn cho hoạt động thi hành án dân sự. Do vậy, hệ thống pháp luật về thi hành án dân sự nói chung và các quy định của pháp luật về công tác kiểm tra thi hành án dân sự nói riêng đòi hỏi phải ngày càng được hoàn thiện hơn nhằm điều chỉnh kịp thời những quan hệ xã hội phát sinh. Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989, 1993, 2004 đến Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) đã quy định về nội dung kiểm tra công tác thi hành án dân sự nhưng chưa rõ ràng, cụ 1
- thể về trình tự, thủ tục, cách thức tiến hành cuộc kiểm tra. Do vậy, ngày 28/01/2015 Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự đã ban hành Quy trình kiểm tra công tác Thi hành án dân sự (được ban hành kèm theo Quyết định 83/QĐ-TCTHADS) đã qui định chi tiết về hoạt động kiểm tra công tác thi hành án dân sự nhằm đưa Bản án, Quyết định của Tòa án được thực hiện “nghiêm minh”, củng cố lòng tin của nhân dân đối với pháp luật, góp phần quan trọng trong việc đưa kết qủa công tác thi hành án dân sự đi vào thực chất và nề nếp. Tuy nhiên, thực tiễn công tác thi hành án dân sự trong cả nước nói chung và trên địa bàn thành phố Hà Nội trong những năm qua cho thấy vẫn còn một số tồn tại cần phải khắc phục như: các quy định của pháp luật về công tác kiểm tra thi hành án dân sự vẫn còn thiếu, chưa phù hợp với thực tế; trình độ của một số cán bộ tham gia kiểm tra còn yếu, chế độ chính sách đãi ngộ đối với cán bộ kiểm tra còn chưa được quy định cụ thể Thông qua kiểm tra cho thấy còn nhiều Chấp hành viên, cán bộ công chức thi hành án vi phạm trình tự thủ tục trong quá trình thực thi công vụ; cá biệt có trường hợp tiêu cực, vô tâm, tắc trách, vi phạm nghĩa vụ hoặc lạm dụng quyền hạn điều đó đòi hỏi công tác kiểm tra về thi hành án dân sự phải được quan tâm, chú trọng hơn nữa, kịp thời có giải pháp nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế nói trên và phục vụ công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội đối với các Chi cục Thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội. Từ những lý do nêu trên, tôi đã lựa chọn đề tài: “Kiểm tra công tác thi hành án dân sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội” làm Luận văn thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đến nay, đã có nhiều đề tài, công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến công tác Thi hành án dân sự như: - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Những cơ sở lý luận, thực tiễn về chế định thừa phát lại”, mã số 95-98-114/ĐT, do Viện nghiên cứu Khoa học 2
- Pháp lý – Bộ tư pháp và Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh chủ trì thực hiện, năm 1998; - Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: “Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án”, mã số 96-98-027/ĐT do Cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện, năm 1998; - Đề tài: “Thi hành án dân sự - Thực trạng và hướng hoàn thiện”, của dự án VIE/98/001, do Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện dự án; - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước: “Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới”, mã số 2000-58-198 do TS Nguyễn Đình Lộc làm chủ nhiệm đề tài, năm 2000; - Đề tài: “Giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Luật học tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh của tác giả Hoàng Thế Anh, năm 2005. Đề tài nghiên cứu về những quy định của pháp luật về giám sát nói chung và giám sát thi hành án dân sự nói riêng. Từ đó cho thấy các quy định của pháp luật về giám sát thi hành án dân sự còn thiếu và cần bổ sung cụ thể như thế nào về thẩm quyền, nội dung, phạm vi giám sát đối với công tác thi hành án dân sự, không đề cập sâu đến kiểm tra công tác thi hành án dân sự. - Đề tài: “Địa vị pháp lý của Chấp hành viên từ thực tiễn của thành phố Hà Nội", Luận văn Thạc sĩ Luật học tại Học viện Khoa học xã hội của tác giả Lê Quang Chuyển, năm 2014. Đề tài nghiên cứu quyền và nghĩa vụ của Chấp hành viên từ những quy định của pháp luật về thi hành án dân sự đến thực tiễn hoạt động của Chấp hành viên tại các cơ quan thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội. - Đề tài: “Giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội”, Luận văn Thạc sĩ Luật học tại Học viện Khoa học xã hội của tác giả Nguyễn Thị Hải Yến, năm 2015. Đề tài đi sâu nghiên cứu những vấn đề về khiếu nại và giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự từ những quy định của 3
- pháp luật đến thực tiễn áp dụng vào công tác giải quyết khiếu nại trên địa bàn thành phố Hà Nội. - Đề tài: “Hoạt động công vụ của Chấp hành viên từ thực tiễn thành phố Hà Nội”, Luận văn Thạc sĩ Luật học tại Học viện Khoa học xã hội của tác giả Lê Văn Cảnh, năm 2015. Đề tài đi sâu nghiên cứu những vấn đề về hoạt động công vụ của Chấp hành viên thi hành án dân sự từ những quy định của pháp luật đến thực tiễn áp dụng vào hoạt động thực thi công vụ của mình (chủ yếu là thực hiện quyền của Chấp hành viên trong phạm vi pháp luật thi hành án dân sự quy định). - Đề tài: “Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc Giang”, Luận văn Thạc sĩ Luật học tại Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội của tác giả Nguyễn Văn Công, năm 2012. Đề tài tập trung nghiên cứu về một số quy định của pháp luật thi hành án dân sự và những kết quả đã đạt được của công tác thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, những ưu điểm, tồn tại, hạn chế từ đó tìm ra nguyên nhân và đề ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự tại tỉnh Bắc Giang. Đồng thời, còn rất nhiều các bài viết, bài tham luận, bài báo hoặc các giáo trình mà người viết đã tham khảo, xem xét như: Giáo trình Kỹ năng thi hành án dân sự (phần chung) của Học viện Tư pháp; Sổ tay nghiệp vụ thi hành án dân sự - Tổng cục Thi hành án dân sự; Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ Chấp hành viên trung cấp của Học viện Tư pháp; tài liệu đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý, lãnh đạo cấp phòng của Học viện Tư pháp; một số bài viết chuyên đề về công tác thi hành án dân sự trên Tạp chí Dân chủ pháp luật Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu về đề tài kiểm tra công tác thi hành án dân sự nói chung và đặc biệt là công tác kiểm tra thi hành án dân sự tại Hà Nội nói riêng. Như vậy, đây là một đề tài vừa mang tính thời sự, cấp thiết nhưng không có sự trùng lắp với các công trình khoa học đã công bố. Chính sự không trùng lắp này là một trong các lý do để đề tài này được lựa chọn thực hiện. 4
- 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp lý của hoạt động kiểm tra công tác thi hành án dân sự từ thực tiễn tại thành phố Hà Nội, đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm tra công tác thi hành án dân sự nói chung và trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục tiêu trên, luận văn này sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau: - Làm rõ những vấn đề lý luận và pháp lý của kiểm tra công tác thi hành án dân sự; đưa ra được quan niệm, đặc điểm, nội dung, thẩm quyền, trình tự thủ tục và các yếu tố bảo đảm cho hoạt động kiểm tra thi hành án dân sự. - Phân tích, đánh giá thực trạng kiểm tra công tác thi hành án dân sự của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội, chỉ ra những kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại hạn chế trong hoạt động kiểm tra thi hành án dân sự. - Đưa ra quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật và thực tiễn hoạt động kiểm tra công tác thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu về không gian: Tập trung hoạt động kiểm tra của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội đối với 30 Chi cục Thi hành án dân sự tại các quận, huyện, thị xã trực thuộc. 5
- Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Từ khi Tổng cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp giao chỉ tiêu về công tác kiểm tra thi hành án dân sự năm 2012 đến nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận để thực hiện đề tài này là chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng gồm: - Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp được áp dụng cho nội dung nghiên cứu trong phần cơ sở lý luận trình bày tại Chương 1 của luận văn. - Phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh được sử dụng cho những nghiên cứu trong các nội dung nêu tại Chương 2 của luận văn. - Phương pháp phân tích, tổng hợp và quy nạp áp dụng tại Chương 3 của luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về lý luận, luận văn góp phần làm rõ thêm một số khái niệm như: Thi hành án dân sự, kiểm tra thi hành án dân sự; đưa ra được quan niệm về công tác kiểm tra thi hành án dân sự: đặc điểm, nội dung, thẩm quyền, trình tự thủ tục chỉ ra được những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến công tác kiểm tra thi hành án dân sự nói chung và trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng. Về thực tiễn, tổng kết thực tiễn công tác kiểm tra thi hành án dân sự, đưa ra đề xuất, giải pháp để vận dụng vào thực tế hoạt động kiểm tra công tác thi hành án dân sự tại Hà Nội cũng như trong công tác kiểm tra thi hành án dân sự tại các địa phương khác. Luận văn là tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, học tập, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ Thẩm tra viên, cán bộ tham gia là thành viên đoàn kiểm tra về thi hành án nói riêng và trong hoạt động khoa học luật học nói chung. 6
- 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận, pháp lý về kiểm tra công tác thi hành án dân sự. Chương 2: Thực trạng kiểm tra công tác thi hành án dân sự ở thành phố Hà Nội. Chương 3: Quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm tra công tác thi hành án dân sự. 7
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ KIỂM TRA CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1. Những vấn đề lý luận về Kiểm tra công tác Thi hành án dân sự. 1.1.1.Khái niệm thi hành án dân sự và kiểm tra công tác thi hành án dân sự. 1.1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự Ở Việt Nam hiện nay, thuật ngữ thi hành án dân sự được đặt trong tổng thể chung của hoạt động thi hành án. Song trên thực tế, hoạt động thi hành án ở Việt Nam được chia làm ba loại: Thi hành án dân sự, thi hành án hình sự và thi hành án hành chính. Sự phân chia đó dựa trên cơ sở của các nét đặc thù của mỗi loại hoạt động: Tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính. Sở dĩ có sự phân chia khác nhau như vậy vì hoạt động thi hành án là hoạt động chứa đựng nhiều đặc thù, phức tạp. Vì vậy, dẫn đến nhiều quan niệm khác nhau về thi hành án dân sự. Quan điểm thứ nhất cho rằng: Hoạt động thi hành án dân sự là một hoạt động tư pháp vì nó gắn liền với các giai đoạn tố tụng và được ghi nhận trong Bộ luật Tố tụng Dân sự. Do đó thi hành án dân sự chính là một hoạt động của tố tụng dân sự [45, tr 8]. Tuy nhiên, quan điểm này lại không lý giải được một vấn đề thực tiễn pháp lý đang thừa nhận đó là cơ quan thi hành án dân sự không phải là cơ quan tiến hành tố tụng, chấp hành viên thi hành án dân sự không phải là người tiến hành tố tụng. Quan điểm thứ hai cho rằng: Hoạt động thi hành án dân sự là một loại hoạt động hành chính vì bản chất, mục đích của thi hành án khác hoàn toàn với tố tụng, không thể gắn nó với hoạt động tố tụng dân sự [45, tr 9]. Bởi lẽ, bản chất và mục đích của tố tụng dân sự là xác định sự thật khách quan của các vụ án dân sự, vụ việc dân sự để đưa ra các phán quyết đúng theo quy định của pháp luật. Để có được các phán quyết đó, các cơ quan tiến hành tố tụng, các cá nhân 8
- tiến hành tố tụng tham gia theo một quy trình tố tụng chặt chẽ, công khai và minh bạch. Còn hoạt động thi hành án dân sự lại là một quy trình đi ngược lại với quy trình, thủ tục tố tụng. Xuất phát từ một bản án, quyết định của toà án, cơ quan thi hành án dân sự đưa ra một quyết định mang tính hành chính dựa trên một văn bản cá biệt (văn bản áp dụng pháp luật) để điều chỉnh hoạt động của cá nhân, đối tượng phải có nghĩa vụ thi hành án và chủ thể được thi hành án. Hơn thế nữa, những người theo quan điểm này còn cho rằng, hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động hành chính vì bản chất, hoạt động này mang tính chất chấp hành và điều hành, theo đó, mang tính quản lý hành chính nhà nước rõ nét. Quan điểm này dựa trên cơ sở pháp luật hiện hành không quy định cơ quan thi hành án là cơ quan tiến hành tố tụng dân sự. Song sự bất hợp lý là ở chỗ nếu coi thi hành án dân sự là một hoạt động hành chính thì với những trường hợp người được thi hành án dân sự không làm đơn yêu cầu thi hành án dân sự thì cơ quan thi hành án dân sự không thể có cơ sở và các phương pháp hành chính như: Mệnh lệnh, quyền uy để đưa ra các biện pháp thi hành án dân sự được. Do đó, yếu tố hành chính không đảm bảo. Quan điểm thứ ba cho rằng: Hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động hành chính - tư pháp. Có nghĩa là hoạt động này vừa mang tính hành chính, vừa mang yếu tố của tính tư pháp chứ không thể chỉ có riêng tính hành chính, hoặc riêng tính tư pháp [45, tr 9]. Ngoài ra, thi hành án dân sự còn được hiểu theo hai nghĩa: Rộng và hẹp. Hiểu theo nghĩa hẹp, “thi hành án dân sự là hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự dựa trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và theo các trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm đưa bản án, quyết định của Toà án ra thi hành trên thực tế” [45, tr 9]. Hiểu theo nghĩa rộng, “thi hành án dân sự được xem là các hoạt động chỉ đạo, điều hành hoạt động tác nghiệp và các hoạt động khác theo quy định của pháp luật để nhằm mục đích đảm bảo các bản án, quyết định của Toà án và các 9
- quyết định khác theo quy định của pháp luật phải được thi hành nghiêm chỉnh trên thực tế” [45, tr 9, 10]. Nếu hiểu thi hành án dân sự theo nghĩa này thì hoạt động thi hành án không chỉ đơn thuần là hoạt động của cơ quan thi hành án do các chấp hành viên thực hiện mà là tổng hợp nhiều hoạt động tác nghiệp khác nhau của các cơ quan chuyên môn, nghiệp vụ. Bao gồm cả cơ quan quản lý, cơ quan theo dõi, hỗ trợ hoạt động thi hành án, giám sát và giải quyết khiếu nại về hoạt động thi hành án dân sự, các cơ quan, ban ngành có liên quan nhằm đảm bảo cho hoạt động của cơ quan thi hành án được diễn ra đúng quy trình, thủ tục được pháp luật quy định, đồng thời có chất lượng và hiệu quả trên thực tế. Theo quy định tại Điều 1, Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014), các bản án, quyết định được cơ quan Thi hành án dân sự đưa ra thi hành, bao gồm: Thứ nhất, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Tòa án, quyết định của Tòa án giải quyết phá sản, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành và phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại (sau đây gọi chung là bản án, quyết định) của Luật này đã có hiệu lực pháp luật, bao gồm: Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm; quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Toà án; bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam; quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh mà sau 30 ngày, kể từ ngày có hiệu lực pháp luật đương sự không tự nguyện thi hành, không khởi kiện tại Toà án; phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại; quyết định của Tòa án giải quyết phá sản. 10
- Thứ hai, những bản án, quyết định sau đây của Toà án cấp sơ thẩm được thi hành ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị: Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc; quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Điều 13 Luật Thi hành án dân sự (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) và Điều 52 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2015 quy định hệ thống tổ chức thi hành án dân sự hiện nay, bao gồm: Một là, cơ quan quản lý thi hành án dân sự, gồm có: Cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp (Tổng cục Thi hành án dân sự); cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng (Cục Thi hành án Bộ Quốc phòng). Hai là, cơ quan thi hành án dân sự, gồm có: Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (Cục Thi hành án dân sự); cơ quan thi hành án dân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (Chi cục Thi hành án dân sự); cơ quan thi hành án quân khu và tương đương (Phòng Thi hành án quân khu). Hiện nay trình tự, thủ tự thi hành án dân sự được quy định cụ thể tại chương III Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014), theo đó có thể đơn giản hóa như sau: Cơ quan Thi hành án dân sự nhận bản án, quyết định do Tòa án có thẩm quyền chuyển hoặc nhận yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, người phải thi hành án (thời hiệu yêu cầu thi hành án 05 năm). Trong trường hợp đủ điều kiện thụ lý, Thủ trưởng cơ quan Thi hành án có thẩm quyền ra quyết định thi hành án và phân công cho Chấp hành viên tổ chức thi hành. Việc thi hành án được thi hành xong khi các đương sự đã thực hiện xong quyền và nghĩa vụ của mình hoặc có quyết định đình chỉ thi hành án theo quy định tại Điều 50 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014). 11
- Việc xã hội hóa công tác thi hành án dân sự được thực hiện trên cơ sở Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010, định hướng 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp, theo đó: “Từng bước thực hiện xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải cơ quan nhà nước thực hiện việc thi hành án ; nghiên cứu chế định thừa phát lại, trước mắt có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương, vài năm sau trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo” [4, tr 5-6]. Hiện nay, Thừa phát lại được thí điểm thực hiện tại 13 tỉnh thành phố là: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Thanh Hóa, Nghệ An, Bình Định, Đồng Nai, Bình Dương, Tiền Giang, An Giang, Vĩnh Long và thành phố Hồ Chí Minh. Từ những vấn đề nêu trên, có thể đưa ra quan niệm về thi hành án dân sự như sau: Thi hành án dân sự là hoạt động hành chính – Tư pháp do cơ quan Thi hành án dân sự hoặc các Văn phòng Thừa phát lại tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định để đưa bản án, quyết định dân sự của Tòa án hoặc các quyết định khác theo quy định của pháp luật được thực hiện trên thực tế, nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. 1.1.1.2. Khái niệm kiểm tra công tác thi hành án dân sự Theo nghĩa hẹp thì “kiểm tra là xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét” (Từ điển tiếng Việt – năm 1994). Theo nghĩa rộng thì kiểm tra là việc dựa vào các định mức, các chuẩn mực, các kế hoạch để đánh giá hiệu quả hoạt động của tổ chức và đề ra các giải pháp thích hợp nhằm đạt được mục tiêu. Như vậy, kiểm tra bao hàm cả kiểm tra cái “đã” làm và qua đó điều chỉnh cái “sẽ” làm. Kiểm tra là khái niệm rộng được hiểu theo ba góc độ: 12
- Thứ nhất, kiểm tra trước hết là hoạt động thường xuyên của cấp trên với cấp dưới (trong mối quan hệ trực thuộc) nhằm xem xét, đánh giá mọi mặt hoạt động của cấp dưới khi thấy cần thiết hoặc trong trường hợp cần kiểm tra một vấn đề cụ thể nào đó. Vì vậy, khi tiến hành kiểm tra, cơ quan cấp trên hoặc thủ trưởng cơ quan có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế kỷ luật, biện pháp bồi thường thiệt hại vật chất hoặc áp dụng các biện pháp tác động tích cực với đối tượng bị kiểm tra như động viên khen thưởng về vật chất hoặc tinh thần. Thứ hai, kiểm tra là hoạt động thực thi quyền lực chính trị, gắn với công tác kiểm tra của Đảng. Hoạt động kiểm tra này không mang tính quyền lực nhà nước và không trực tiếp áp dụng các biện pháp cưỡng chế mà chỉ áp dụng các biện pháp tác động mang tính chính trị. Thứ ba, kiểm tra được hiểu theo nghĩa rộng nhất đó là chủ thể có thẩm quyền quản lý tiến hành việc xem xét, làm rõ hành vi hoặc hoạt động của đối tượng chịu sự quản lý. Ví dụ như kiểm tra hoạt động xây dựng, kiểm tra phương tiện giao thông Trong lĩnh vực thi hành án dân sự, hoạt động kiểm tra thi hành án dân sự là hoạt động thực thi quyền quản lý, gắn liền với việc thực hiện quyền lực nhà nước. Đây là hình thức kiểm tra của cấp trên đối với cấp dưới. Theo quy định tại khoản 1, Điều 4 Quy trình kiểm tra công tác thi hành án dân sự (ban hành kèm theo Quyết định số 83/QĐ-TCTHADS ngày 28/01/2015 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự) thì khái niệm kiểm tra công tác thi hành án dân sự được hiểu như sau: Kiểm tra công tác thi hành án dân sự là hoạt động của cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự cấp trên chủ trì hoặc có sự tham gia phối hợp của các cơ quan hữu quan để kiểm tra đối với cơ quan thi hành án dân sự cấp dưới nhằm phục vụ công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong toàn hệ thống thi hành án dân sự.[47, tr 2]. 13
- 1.1.2.Phân biệt kiểm tra Thi hành án dân sự với hoạt động giám sát và thanh tra Phân biệt giám sát, thanh tra với kiểm tra dựa vào các tiêu chí sau: Thứ nhất, dựa vào chủ thể: Hoạt động giám sát: Chủ thể thực hiện là Quốc hội, Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp, Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và công dân. Hoạt động thanh tra: Chủ thể là các cơ quan thanh tra nhà nước (Thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành). Còn chủ thể của hoạt động kiểm tra là các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong hệ thống chính trị (cấp trên). Đối với ngành Thi hành án dân sự thì chủ thể thực hiện các cuộc kiểm tra là Tổng cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp và các Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh. Thứ hai, dựa vào đối tượng: Hoạt động giám sát đối tượng chịu sự giám sát là các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương; công chức và viên chức nhà nước. Trong hoạt động thanh tra đối tượng là cơ quan, tổ chức và cá nhân trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước và toàn xã hội. Đối với hoạt động kiểm tra là các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính trị (cấp dưới). Đối với ngành Thi hành án dân sự thì đối tượng chịu sự kiểm tra là các Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh và các Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện. Ở địa bàn thành phố Hà Nội, đối tượng thực hiện kiểm tra công tác Thi hành án dân sự là Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội, đối tượng chịu sự kiểm tra là 30 Chi cục Thi hành án dân sự trực thuộc. Thứ ba, dựa vào mục đích: Hoạt động giám sát mục đích là giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật của các cơ quan nhà nước; góp phần kiện toàn hệ thống chính trị, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, hoàn thiện đường lối, chính sách, pháp luật, xử lý nghiêm các vi phạm nhằm xây dựng cơ quan nhà nước trong sạch. Đối với hoạt động thanh tra thì mục đích là đánh giá đúng, sai trong quản lý nhà nước; phòng ngừa và xử lý vi phạm góp phần hoàn thiện cơ chế 14
- quản lý, pháp luật, chính sách của nhà nước. Còn mục đích của kiểm tra là kiểm tra việc thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật nhằm phát hiện những yếu kém, sai phạm và có biện pháp giải quyết. Tuy nhiên, việc kiểm tra chủ yếu về quy trình, quy phạm và mang tính nghiệp vụ. Chủ yếu là để điều chỉnh các quyết định quản lý; phát hiện các sai lệch để uốn nắn. Thứ tư, dựa vào phạm vi và nội dung: Hoạt động giám sát là giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong văn bản và trong hoạt động của các cơ quan nhà nước. Hoạt động thanh tra là thanh tra việc thực hiện các văn bản, các quyết định quản lý của người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước. Còn hoạt động kiểm tra là kiểm tra toàn diện, kiểm tra chuyên đề theo yêu cầu của hoạt động quản lý và của từng loại cơ quan, tổ chức. Thứ năm, dựa vào hình thức: Hình thức của giám sát là xem xét báo cáo; chất vấn và trả lời chất vấn; thông qua kỳ họp và ngoài kỳ họp; thông qua hoạt động của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể và công dân. Hình thức của hoạt động thanh tra là thanh tra của cấp trên với cấp dưới; thanh tra theo chuyên đề; thanh tra thường xuyên; thanh tra đột xuất; thanh tra giải quyết theo đơn thư khiếu tố của nhân dân. Còn hình thức của kiểm tra là kiểm tra của cấp trên với cấp dưới theo chức năng quản lý và thứ bậc. Thứ sáu, dựa vào hậu quả pháp lý: Đối với giám sát hậu quả pháp lý có thể là đình chỉ thi hành, hủy bỏ, sửa đổi văn bản; miễn nhiệm, bãi nhiệm các đại biểu dân cử; bỏ phiếu bất tín nhiệm; kiến nghị xử lý (của Thanh tra nhân dân, tổ chức chính trị xã hội). Đối với hoạt động thanh tra là xử lý vi phạm theo thẩm quyền hoặc chuyển cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ; kiến nghị sửa đổi chủ trương, chính sách, pháp luật. Còn hoạt động kiểm tra là xử lý theo chức năng; kiến nghị sửa đổi, bổ sung đường lối, chính sách, pháp luật. 1.1.3. Đặc điểm, vai trò, mục đích của kiểm tra công tác thi hành án dân sự 1.1.3.1. Đặc điểm của kiểm tra công tác thi hành án dân sự 15
- Kiểm tra thi hành án dân sự là hoạt động kiểm tra trong lĩnh vực thực thi quyền hành pháp. Vì vậy, hoạt động kiểm tra thi hành án dân sự có những đặc điểm sau: Thứ nhất, tính quyền lực nhà nước. Kiểm tra công tác thi hành án dân sự là hoạt động có tính quyền lực nhà nước vì hoạt động của các cơ quan Thi hành án dân sự chính là một loại hoạt động của cơ quan nhà nước. Do vậy, nó có tính chất bắt buộc đối với tất cả các đối tượng (cả chủ thể thực hiện việc kiểm tra và đối tượng chịu sự kiểm tra), nhằm đảm bảo sự thống nhất trong việc quản lý nhà nước và thực thi các quy định pháp luật về thi hành án dân sự từ cơ quan thi hành án dân sự cấp trên đến các cơ quan thi hành án dân sự cấp dưới. Thứ hai, kiểm tra thi hành án dân sự là hoạt động thường xuyên, nhằm bảo đảm tính thông suốt trong hoạt động thi hành án dân sự. Thông qua kiểm tra để kịp thời điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng cho phù hợp với thực tiễn nhằm hướng tới việc đạt được mục tiêu chung của Ngành Thi hành án dân sự. Thứ ba, kiểm tra công tác thi hành án dân sự là một trong những chức năng của quản lý hành chính nhà nước nói chung và là một trong những chức năng quan trọng trong hoạt động quản lý của Tổng cục Thi hành án dân sự, Cục Thi hành án dân sự. Thông qua kiểm tra để đo lường và chấn chỉnh việc thực hiện nhằm đảm bảo rằng các mục tiêu và các kế hoạch vạch ra để thực hiện các mục tiêu này đã và đang được hoàn thành. Thứ tư, kiểm tra công tác thi hành án dân sự thể hiện quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan Thi hành án dân sự cấp trên đối với cơ quan Thi hành án dân sự cấp dưới, được văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định về thẩm quyền, trình tự, quy trình, phạm vi cụ thể. Do vậy, trong quá trình kiểm tra phải thực hiện theo nguyên tắc, trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật về thi hành án dân sự quy định. 16