Luận văn Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

pdf 112 trang vuhoa 25/08/2022 8360
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_kiem_sat_viec_tuan_theo_phap_luat_trong_to_tung_hin.pdf

Nội dung text: Luận văn Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

  1. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ LAN CHI KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số : LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC HÀ NỘI – NĂM 2005
  2. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ LAN CHI KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ MÃ SỐ: 50514 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TSKH LÊ VĂN CẢM HÀ NỘI – NĂM 2005
  3. 3 BẢNG CHỮ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự TTPL tuân theo pháp luật TAND Tòa án nhân dân THQCT thực hành quyền công tố VKSND Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân Tối cao XHCN Xã hội chủ nghĩa
  4. 4 MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT 7 VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1 Nhận thức chung về kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự 7 1.1.1 Khái niệm kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự 7 1.1.2 Đối tƣợng, phạm vi và hình thức kiểm sát việc TTPL 11 1.1.2.1 Đối tƣợng, phạm vi kiểm sát 11 1.1.2.2 Hình thức thức kiểm sát 13 1.1.3 Phân biệt khái niệm kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự 16 với khái niệm kiểm sát các hoạt động tƣ pháp trong tố tụng hình sự 1.2 Mối quan hệ giữa chức năng thực hành quyền công tố với 19 chức năng kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự Việt Nam 1.2.1 Khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố 19 1.2.2 Mối quan hệ giữa chức năng thực hành quyền công tố với 20 chức năng kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự 1.3 Khảo cứu một số mô hình tổ chức thực hiện quyền công tố và 23 giám sát, kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự trên thế giới 1.3.1 Mô hình mô hình tổ chức thực hiện quyền công tố và giám 24 sát việc TTPL trong tố tụng hình sự theo hệ thống pháp luật Anglo Saxon 1.3.2 Mô hình mô hình tổ chức thực hiện quyền công 25 tố và giám sát TTPL trong tố tụng hình sự theo hệ thống
  5. 5 pháp luật Châu Âu lục địa 1.3.3 Mô hình mô hình tổ chức thực hiện hoạt động thực hành 27 quyền công tố và kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự theo hệ thống pháp luật XHCN (trƣớc đây) và Việt Nam hiện nay CHƢƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỰC TRẠNG HOẠT 35 ĐỘNG KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2.1 Kiểm sát việc TTPL đối với một số hoạt động trong giai đoạn 35 khởi tố - điều tra vụ án hình sự 2.1.1 Kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và 35 kiến nghị khởi tố 2.1.2 Kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự 39 2.1.3 Kiểm sát một số hoạt động điều tra 42 2.1.3.1 Kiểm sát khám nghiệm hiện trƣờng 42 2.1.3.2 Kiểm sát các hoạt động hỏi cung, lấy lời khai của 46 những ngƣời tham gia tố tụng 2.1.3.3 Kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn 47 2.2 Kiểm sát việc TTPL đối với một số hoạt động trong giai đoạn 50 xét xử các vụ án hình sự 2.2.1 Kiểm sát hoạt động chuẩn bị xét xử, thành phần và sự có 51 mặt của những ngƣời tiến hành và tham gia tố tụng tại phiên tòa 2.2.2 Kiểm sát việc thực hiện giới hạn xét xử của Hội đồng xét xử 52 2.2.3 Kiểm sát việc TTPL của Hội đồng xét xử trong quá trình 53 điều khiển phiên tòa 2.2.4 Kiểm sát việc TTPLsau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm 58 2.2.5 Kiểm sát xét xử phúc thẩm 61
  6. 6 CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ ĐỀ XUẤT NHẰM 63 NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 3.1 Đề xuất về việc hoàn thiện pháp luật 63 3.1.1 Đề xuất bổ sung quy định Viện kiểm sát kiểm sát việc tiếp 64 nhận tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra 3.1.2 Đề xuất bãi bỏ quy định về quyền khởi tố vụ án của Hội đồng xét xử 64 3.1.3 Đề xuất hoàn thiện các quy định về khám nghiệm hiện trƣờng 65 3.1.4 Đề xuất hoàn thiện các quy định về chế định biện pháp ngăn chặn 66 và kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn 3.2 Giải pháp về nhân sự - tổ chức của ngành kiểm sát 67 3.2.1 Giải pháp về vấn đề nhận thức, phƣơng pháp làm việc và 67 cách giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho Kiểm sát viên 3.2.2 Giải pháp về nâng cao trình độ đội ngũ Kiểm sát viên 72 3.2.3 Giải pháp về cơ chế tổ chức công việc của ngành kiểm sát 73 3.3 Giải pháp về nâng cao hiệu quả của các thiết chế hỗ trợ việc 75 kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự 3.3.1 Giải pháp về nâng cao vai trò của những ngƣời tham gia 76 tố tụng 3.3.1.1 Giải pháp về nâng cao vai trò của luật sƣ 76 3.3.1.2 Giải pháp về nâng cao vai trò của những ngƣời tham gia 77 tố tụng khác 3.3.2 Giải pháp về nâng cao vai trò của các cơ quan thông tấn, báo chí 79
  7. 7 3.4 Một số đề xuất về việc điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, vị trí 81 của cơ quan Viện kiểm sát trong chiến lƣợc cải cách tƣ pháp từ năm 2006 đến năm 2020 3.4.1 Đề xuất về việc không tiếp tục duy trì hoạt động kiểm sát 83 việc TTPL trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự 3.4.2 Đề xuất bỏ quy định về hoạt động kiểm sát việc TTPL của 85 những ngƣời tham gia tố tụng 3.4.3 Đề xuất về việc điều chỉnh chức năng, vị trí cơ quan Viện 87 kiểm sát trong bộ máy Nhà nƣớc KẾT LUẬN 91 PHỤ LỤC: PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN VÀ BẢNG TỔNG KẾT 92 KẾT QUẢ THĂM DÒ Ý KIẾN VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TẠI CÁC VKSND ĐỊA PHƢƠNG DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 101
  8. 8 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Trong những năm vừa qua, công tác tƣ pháp nói chung và công tác giải quyết án hình sự nói riêng đã có những chuyển biến đáng kể, đặc biệt là sau sự ra đời Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02/1/2002 “về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tƣ pháp trong thời gian tới” và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Dƣới sự định hƣớng và điều chỉnh của những văn bản này, các hoạt động tố tụng hình sự đƣợc tiến hành một cách minh bạch hơn, khách quan hơn, quyền lợi của ngƣời tham gia tố tụng đƣợc đảm bảo hơn, xu thế mở rộng tranh tụng và dân chủ hoá hoạt động tố tụng cũng tiếp tục đƣợc khẳng định và mở rộng. Tuy nhiên, thực tiễn quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự cho thấy còn tồn tại nhiều hiện tƣợng vi phạm pháp luật của chính các cơ quan tiến hành tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng. Đó là những vi phạm về trình tự, thủ tục, thẩm quyền, thời hạn tố tụng, thậm chí tồn tại những hiện tƣợng vi phạm nghiêm trọng pháp luật nhƣ cố ý không xử lý về hình sự, không thực hiện đầy đủ các hoạt động điều tra nhằm thu thập những chứng cứ quan trọng, không đảm bảo các quyền bào chữa cơ bản của ngƣời bị buộc tội, tình trạng tham nhũng, tha hoá của một bộ phận không nhỏ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và các chức danh tƣ pháp khác. Điều đáng quan ngại là số lƣợng các vi phạm pháp luật kể trên bị phát hiện, xử lý quá muộn, quá ít, không tƣơng xứng với tính chất và mức độ vi phạm. Để xảy ra tình trạng trên, Viện kiểm sát có một phần trách nhiệm không nhỏ, bởi vì, kiểm sát các hoạt động tƣ pháp là một chức năng hiến định của Viện kiểm sát (và trong tố tụng hình sự, pháp luật quy định Viện kiểm sát THQCT và kiểm sát việc TTPL). Tuy nhiên, tại sao dù có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn nhƣ vậy nhƣng công tác kiểm sát việc TTPL chƣa thật sự hiệu
  9. 9 quả? Xuất phát từ những bất cập và hạn chế gì? Giải pháp nào để nâng cao chất lƣợng, hiệu quả công tác kiểm sát? Đây là những vấn đề cần đƣợc nghiên cứu một cách khách quan và toàn diện. Tiến trình cải cách tƣ pháp ở nƣớc ta hiện đang đƣợc đẩy mạnh, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị khoá IX về Chiến lƣợc Cải cách tƣ pháp đến năm 2020, dự thảo văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã đƣa ra những quan điểm cải cách mang tính đột phá trong việc tổ chức lại hệ thống Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án. Trong đó, Viện kiểm sát đƣợc chuyển đổi thành Viện công tố. Điều này đặt ra những cách tiếp cận mới, những cách nhìn mới cả trên phƣơng diện lý luận và thực tiễn về kiểm sát hoạt động tƣ pháp, kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự. Xuất phát từ những lý do mang tính thời sự nêu trên cùng sự quan tâm, mong muốn tìm hiểu của bản thân, tác giả đã lựa chọn đề tài “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự là một đề tài không mấy mới mẻ trong khoa học luật tố tụng hình sự, nhất là trong giới khoa học kiểm sát, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài này nhƣ: đề tài “Vai trò của Viện kiểm sát trong việc THQCT và kiểm sát hoạt động tƣ pháp theo tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị” năm 2002 của Viện Khoa học Kiểm sát - VKSNDTC, luận văn thạc sĩ luật học “Kiểm sát các hoạt động tƣ pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự” năm 2004 của học viên cao học Trần Công Hoà, các bài nghiên cứu “Nâng cao chất lƣợng công tác công tố và kiểm sát hoạt động tƣ pháp” của Phạm Xuân Khánh trên Tạp chí Kiểm sát số 5/1999, “Những biện pháp chủ yếu về nâng cao chất lƣợng kiểm sát hoạt động tƣ pháp và THQCT trong năm 2002” của Hoàng
  10. 10 Công Huấn trên Tạp chí Kiểm sát số 2/2002 Tuy nhiên, các công trình này chỉ nghiên cứu một hoặc một số nội dung của kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự nhƣ hoạt động kiểm sát hoạt động tƣ pháp trong tố tụng hình sự hoặc kiểm sát việc TTPL trong giai đoạn khởi tố - điều tra của tố tụng hình sự. Mặt khác, tới thời điểm hiện nay, chƣa có công trình nào nghiên cứu về kiểm sát việc TTPL trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự từ khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử vụ án hình sự. Đặc biệt, cũng chƣa có công trình nào nghiên cứu về kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự trong bối cảnh cải cách tƣ pháp đang và sẽ diễn ra mạnh mẽ và toàn diện trong thời gian tới. Do vậy, có thể coi đây là công trình nghiên cứu đầu tiên về kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự với các nội dung nhƣ trên đƣợc triển khai ở cấp độ một luận văn thạc sỹ luật học. 3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Ngay từ tên gọi, đề tài đã giới hạn phạm vi nghiên cứu chỉ dừng lại ở một số vấn đề lý luận và thực tiễn. Điều này nhằm đảm bảo tính chuyên sâu cần thiết của mỗi nội dung đƣợc lựa chọn đề cập. Theo quy định của pháp luật, hoạt động kiểm sát việc TTPL đƣợc tiến hành trong việc điều tra các vụ án hình sự của các Cơ quan điều tra và các cơ quan khác đƣợc giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; trong việc xét xử các vụ án hình sự; trong việc thi hành bản án, quyết định hình sự của TAND; trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục ngƣời chấp hành án phạt tù. Tuy nhiên, do tính chất đa dạng, phức tạp và nhiều khía cạnh của hoạt động kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự, trong giới hạn một luận văn thạc sỹ, đề tài chỉ có thể đề cập một số vấn đề của kiểm sát việc TTPL trong việc điều tra và xét xử các vụ án hình sự mà theo quan điểm của tác giả, là cơ bản và quan trọng hơn cả. Những nội dung đƣợc lựa chọn đề cập trong luận văn phải là những vấn đề
  11. 11 tiêu biểu, làm rõ đƣợc các vấn đề lý luận và khái quát đƣợc thực tế kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự hiện nay. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để phù hợp với nội dung nghiên cứu và giải quyết đƣợc các nhiệm vụ mà đề tài đặt ra, trên cơ sở phƣơng pháp luận nền tảng của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn đã sử dụng phối hợp nhiều phƣơng pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành nhƣ phƣơng pháp lịch sử, phân tích, so sánh, chứng minh, tổng hợp. Đặc biệt, phƣơng pháp khảo sát, thăm dò ý kiến những ngƣời làm công tác thực tiễn đƣợc sử dụng ở mức độ đáng kể trong quá trình nghiên cứu luận văn. 5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của luận văn này là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự; đánh giá thực trạng, xác định các nguyên nhân, điều kiện tác động tới quá trình triển khai thực hiện, từ đó, hƣớng tới các giải pháp, đề xuất nhằm nâng cao chất lƣợng, hiệu quả của hoạt động kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự, đồng thời, phác thảo những đƣờng nét ban đầu cho thiết chế kiểm tra, giám sát các hoạt động tƣ pháp trong tố tụng hình sự sau khi kiểm sát việc TTPL không còn là một chức năng luật định của Viện kiểm sát đƣợc ghi nhận trong BLTTHS nhƣ hiện nay. Với cách đặt vấn đề nhƣ trên, tác giả luận văn đặt cho mình những nhiệm vụ sau: 1. Đƣa ra khái niệm kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự và làm rõ các thành tố cấu thành nên khái niệm đó, phân biệt khái niệm kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự với các khái niệm gần nó; 2. Khảo cứu một số mô hình tổ chức thực hiện hoạt động THQCT và kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự tại một số quốc gia trên thế giới
  12. 12 nhằm trả lời các câu hỏi mang tính chất lý luận – lịch sử về mô hình chúng ta đang áp dụng hiện nay và sẽ hƣớng tới trong tƣơng lai; 3. Tập trung nghiên cứu thực tế thực hiện một số hoạt động kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự trong giai đoạn khởi tố, điều tra, xét xử vụ án hình sự; 4. Đƣa ra các giải pháp, đề xuất về hoàn thiện pháp luật, về tổ chức - nhân sự, về việc điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, bộ máy của cơ quan Viện kiểm sát cũng nhƣ các giải pháp, đề xuất nâng cao vai trò của các thiết chế hỗ trợ việc kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự. 6. Những điểm mới của luận văn Luận văn này là công trình nghiên cứu đầu tiên: 1. Đƣa ra khái niệm kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự và so sánh khái niệm này với khái niệm kiểm sát các hoạt động tƣ pháp trong tố tụng hình sự; 2. Từ việc phân tích thực trạng hoạt động kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự, đƣa ra những cách nhìn mới mẻ, mạnh dạn và trung thực về thực chất một số hoạt động tố tụng đƣợc tiến hành trong quá trình giải quyết vụ án hình sự hiện nay; 3. Đề xuất các giải pháp để nâng cao chất lƣợng hoạt động kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự từ góc nhìn tƣơng đối thực tế và hiện đại; 4. Luận chứng các cơ sở cho những đề xuất về điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, vị trí của Viện kiểm sát trong chiến lƣợc cải cách tƣ pháp ở Việt Nam trong giai đoạn 2006 - 2020 theo định hƣớng trở thành Viện công tố. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài Lời nói đầu, Kết luận, Phụ lục, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chƣơng:
  13. 13 - Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự; - Chƣơng 2: Một số vấn đề về thực trạng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự; - Chƣơng 3: Một số giải pháp và đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự.
  14. 14 CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1 Nhận thức chung về kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự 1.1.1 Khái niệm kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự Theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, tố tụng hình sự là toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự, từ khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử và thi hành án. Nói cách khác, “tố tụng hình sự là toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan Nhà nƣớc, tổ chức xã hội nhằm giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác và đúng pháp luật”. [8] Nhƣ vậy, các hoạt động trong tố tụng hình sự bao gồm: - Hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong vụ án hình sự. Cơ quan tiến hành tố tụng trong vụ án hình sự là các cơ quan Nhà nƣớc chuyên trách thực hiện việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, bao gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án. Đây là các cơ quan có vai trò chủ đạo trong việc giải quyết các vụ án hình sự. - Hoạt động của những ngƣời tiến hành tố tụng. Ngƣời tiến hành tố tụng là những công chức trong cơ quan tiến hành tố tụng, đƣợc bổ nhiệm vào các chức danh tố tụng, có thẩm quyền thực hiện những hoạt động tố tụng nhất định trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của cơ quan đó nhằm góp phần giải quyết vụ án hình sự. - Hoạt động của những ngƣời tham gia tố tụng: hoạt động của những ngƣời tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình (ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo, ngƣời bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan); hoạt động của những ngƣời tham gia tố tụng
  15. 15 để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời khác; hoạt động của những ngƣời tham gia tố tụng nhằm giúp cơ quan tiến hành tố tụng xác định sự thật vụ án (ngƣời làm chứng, ngƣời giám định, ngƣời phiên dịch). BLTTHS còn quy định cả nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và công dân trong việc chủ động phòng ngừa, phát hiện và ngăn chặn tội phạm, trong việc thực hiện các biện pháp cƣỡng chế của tố tụng hình sự Nhƣ vậy, hoạt động của các chủ thể trên, trong những trƣờng hợp nhất định, cũng là các hoạt động trong tố tụng hình sự. Khoa học luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay chƣa có một định nghĩa thống nhất về khái niệm “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự”. “Kiểm sát” ở tầng nghĩa phổ thông, Từ điển tiếng Việt định nghĩa: “là kiểm tra việc chấp hành pháp luật của Nhà nƣớc” [37: tr 523]. Theo đó, nội dung của khái niệm “kiểm sát” là hoạt động kiểm tra với đối tƣợng kiểm tra là việc chấp hành pháp luật. Nhƣ vậy, định nghĩa này chƣa chỉ ra chủ thể của hoạt động kiểm sát. Pháp luật thực định chỉ quy định một loại chủ thể có chức năng kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự, đó là Viện kiểm sát. Điều 23 BLTTHS 2003 quy định: Viện kiểm sát kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng và ngƣời tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này. Viện kiểm sát THQCT và kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải đƣợc xử lý kịp thời; việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và ngƣời phạm tội, không làm oan ngƣời vô tội.
  16. 16 Nhƣ vậy, theo BLTTHS 2003, kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự đối với Viện kiểm sát là một chức năng, một nghĩa vụ luật định. Tham gia vào “kiểm tra việc chấp hành pháp luật của Nhà nƣớc” trong tố tụng hình sự không chỉ có Viện kiểm sát mà còn có các chủ thể khác nhƣ ngƣời tham gia tố tụng, các cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử, cá nhân công dân và toàn thể xã hội nói chung. Quyền “kiểm tra việc chấp hành pháp luật của Nhà nƣớc” trong tố tụng hình sự của các chủ thể khác xuất phát từ những nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp và pháp luật về tổ chức bộ máy Nhà nƣớc và quyền công dân. Điều 56 Hiến pháp nƣớc Cộng hoà XHCN Việt Nam năm 1992 khẳng định: “Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nƣớc và xã hội”. Điều 8 Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự quy định: “Cơ quan Nhà nƣớc, Uỷ ban Mặt trận trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu dân cử có quyền giám sát hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra ”. Đối với những chủ thể này, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng không phải là chức năng hoạt động mà là các quyền, nghĩa vụ phái sinh từ chức năng hoạt động hay các quyền, các hoạt động mang tính tự nguyện. Về bản chất, các hoạt động của những chủ thể này nhƣ: theo dõi, yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng báo cáo tình hình hoạt động, yêu cầu trả lời lý do ra các quyết định, yêu cầu chấm dứt, khắc phục vi phạm cũng hƣớng tới việc “phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật” và “loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân” trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, các hoạt động trên không thể coi là hoạt động kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự mà chỉ là các hoạt động giám sát việc TTPL trong tố tụng hình sự. Sự khác nhau giữa hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát và hoạt động giám sát của các chủ thể khác chính là hình thức thực hiện mà cụ thể là phƣơng thức và các quyền năng mà pháp luật tố tụng hình sự cho phép khi thực hiện. Chính điều này làm cho hoạt động giám sát của các chủ thể khác không thể hiện chất “kiểm sát” nhƣ hoạt động kiểm sát của Viện
  17. 17 kiểm sát. Tuy nhiên, xuất phát từ ý nghĩa đặc biệt quan trọng của hoạt động giám sát do các chủ thể khác thực hiện, có thể coi đây là các thiết chế bổ trợ cho hoạt động kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự. Ngoài ra, khi đề cập đến các thiết chế bổ trợ cho hoạt động kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự, không thể không nhắc tới vai trò giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Xuất phát từ đặc thù của mối quan hệ phối hợp - chế ƣớc trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, Cơ quan điều tra, Toà án có thể phát hiện và kiến nghị xử lý các quyết định, hành vi tố tụng của nhau và của Viện kiểm sát nếu nhận thấy có vi phạm pháp luật. Về thuật ngữ “tuân theo pháp luật”, theo quan điểm đƣợc nhiều ngƣời thừa nhận, không thể giải thích bằng cách tách bạch “tuân theo” là gì và “pháp luật" là gì rồi ghép lại. “Tuân theo pháp luật” cần đƣợc hiểu không phải với tƣ cách là một tổ hợp ngôn ngữ, mà là một thuật ngữ pháp lý thống nhất, mang tính chỉnh thể để chỉ một trong bốn hình thức thực hiện pháp luật. Theo lý luận chung về pháp luật, bốn hình thức thực hiện pháp luật bao gồm: Thứ nhất, áp dụng pháp luật. Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó Nhà nƣớc thông qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật hoặc tự mình căn cứ vào các quy định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể. Thứ hai, sử dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện các quyền chủ thể của mình. Thứ ba, thi hành pháp luật (chấp hành pháp luật). Thi hành pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực.
  18. 18 Thứ tƣ, tuân theo pháp luật (tuân thủ pháp luật). Tuân theo pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp luật ngăn cấm. Tuân theo pháp luật là một dạng thực hiện pháp luật mang tính chất thụ động, thể hiện ở việc các chủ thể phải kiềm chế bản thân để không thực hiện những hành vi mà pháp luật cấm. Những quy phạm pháp luật cấm trong luật hình sự, hành chính đƣợc thực hiện dƣới hình thức này. [40: tr 463, 464] Nhƣ vậy, “tuân theo pháp luật” chỉ là một hình thức thực hiện pháp luật và là một hình thức thực hiện pháp luật ở mức độ tự giác thấp nhất. Nếu hiểu “tuân theo pháp luật” trong khái niệm “kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự” nhƣ trên thì nội hàm của thuật ngữ “kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự” sẽ bị thu hẹp đáng kể. Trong khi đó, pháp luật thực định cho thấy đối tƣợng của “kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự” không chỉ có hoạt động TTPL (ở dạng thụ động) mà còn có những hoạt động thực hiện pháp luật ở mức độ cao hơn và những hoạt động này chiếm tỷ lệ đa số. Đó là những hoạt động áp dụng pháp luật, sử dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng. Việc “tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự” ở góc độ thực tế, đã phải bao hàm tất cả các hình thức thực hiện pháp luật. Từ các phân tích trên đây, có thể đƣa ra khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự: “kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự là một nhóm quyền năng pháp lý của Viện kiểm sát, có nội dung là kiểm tra, giám sát trực tiếp các hoạt động thực hiện pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hình sự”. 1.1.2 Đối tƣợng, phạm vi và hình thức kiểm sát việc tuân theo pháp luật
  19. 19 1.1.2.1 Đối tượng, phạm vi kiểm sát Để xác định đối tƣợng, phạm vi kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự, cần trả lời hai câu hỏi: thứ nhất, “tuân theo pháp luật” - vậy “pháp luật” đƣợc “tuân theo” là toàn bộ hệ thống pháp luật nói chung hay là chỉ một lĩnh vực pháp luật cụ thể nào đó; thứ hai, hoạt động TTPL của những chủ thể nào là đối tƣợng của kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự. Trả lời câu hỏi thứ nhất, cần hiểu “tuân theo pháp luật” trƣớc hết là tuân theo pháp luật tố tụng hình sự. Pháp luật tố tụng hình sự quy định trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, nhiệm vụ, quyền hạn của những ngƣời tiến hành tố tụng, quyền và nghĩa vụ của những ngƣời tham gia tố tụng khác Do vậy, kiểm sát hoạt động của các chủ thể trong tố tụng hình sự chính là kiểm sát việc các chủ thể có tuân thủ các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự, tuân theo cách xử sự luật định trong quan hệ phát sinh giữa các bên trong quá trình giải quyết vụ án hình sự hay không. Pháp luật đƣợc “tuân theo” cũng cần đƣợc hiểu là những quy định của pháp luật nội dung đƣợc áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Mỗi cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia vào tố tụng hình sự, bên cạnh các hoạt động nhằm giải quyết vụ án hình sự, còn có những hoạt động khác, do lĩnh vực pháp luật khác điều chỉnh. Tuy nhiên, chỉ những quy định của pháp luật liên quan trực tiếp đến hoạt động giải quyết vụ án hình sự mới có thể nằm trong ngoại diên của khái niệm “pháp luật” trong kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự. Thứ hai, trả lời câu hỏi hoạt động TTPL của chủ thể nào là đối tƣợng của kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự. Nhƣ trên đã phân tích, các hoạt động trong tố tụng hình sự gồm có: hoạt động của những cơ quan tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra - Viện kiểm sát - Toà án và tƣơng ứng là hoạt động của
  20. 20 những ngƣời tiến hành tố tụng: Thủ trƣởng, Phó Thủ trƣởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trƣởng, Phó Viện trƣởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thƣ ký Toà án; hoạt động của những ngƣời tham gia tố tụng nhƣ ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo, ngƣời bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, luật sƣ, bào chữa viên nhân dân, ngƣời đại diện hợp pháp của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo, ngƣời bảo vệ quyền lợi của đƣơng sự, ngƣời làm chứng, ngƣời giám định, ngƣời phiên dịch hoạt động của các cơ quan, tổ chức và công dân tham gia vào tố tụng hình sự trong những trƣờng hợp nhất định. Nói tóm lại, việc TTPL của các chủ thể tham gia vào tố tụng hình sự là đối tƣợng của kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự. Tất nhiên, đối tƣợng của kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự không thể bao gồm việc TTPL của chính bản thân Viện kiểm sát. 1.1.2.2 Hình thức kiểm sát Theo chúng tôi, hình thức kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự là cách thức thực hiện hoạt động kiểm sát. Khi bàn tới hình thức kiểm sát, cần làm rõ hai vấn đề: 1, phƣơng thức kiểm sát (trực tiếp hay gián tiếp); 2, các quyền năng pháp lý mà Viện kiểm sát đƣợc sử dụng khi kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự. Thứ nhất, về phƣơng thức kiểm sát: Hiện nay, đa số các ý kiến thống nhất cho rằng phƣơng thức kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự là sự kiểm tra, giám sát một cách trực tiếp, liên tục các hoạt động tố tụng cụ thể. Phƣơng thức kiểm sát này cho phép phân biệt hoạt động kiểm sát việc TTPL của Viện kiểm sát với hoạt động giám sát việc TTPL của những ngƣời tham gia tố tụng, cơ quan dân cử, báo chí Các chủ thể này không tham gia hoặc có tham gia vào tố tụng hình sự nhƣng chỉ trong một hoặc một số giai đoạn tố tụng và giám sát việc TTPL là mục đích phái sinh từ các quyền tố tụng và các quyền chủ thể của họ. Giám
  21. 21 sát việc TTPL trong tố tụng hình sự chủ yếu là những hoạt động đƣợc pháp luật ghi nhận dƣới dạng các quyền. Tùy vào vị trí và sự quan tâm của từng chủ thể, họ sẽ không sử dụng hoặc sử dụng các quyền này ở những mức độ khác nhau. Đối với Viện kiểm sát, chỉ có Viện kiểm sát mới có thể tiến hành các hoạt động kiểm tra, giám sát việc TTPL trong tố tụng hình sự một cách trực tiếp, liên tục do có đủ các cơ sở, điều kiện cần thiết (vị trí pháp lý đặc biệt với chức năng, quyền lực, bộ máy ). Nói cách khác, trong toàn bộ quá trình giải quyết một vụ án hình sự, Viện kiểm sát có quyền và nghĩa vụ có mặt tại tất cả các giai đoạn từ khởi tố - điều tra - truy tố - xét xử và thi hành án. Viện kiểm sát cũng có quyền và nghĩa vụ áp dụng các biện pháp cần thiết để tác động trực tiếp tới các đối tƣợng bị kiểm sát nhằm đảm bảo cho hoạt động giải quyết vụ án đƣợc theo đúng quy định của pháp luật, nói cách khác, để pháp luật đƣợc chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình giải quyết vụ án. Tính trực tiếp, liên tục của hoạt động kiểm sát không nên hiểu là Viện kiểm sát phải có mặt, theo dõi và giám sát mọi hoạt động giải quyết vụ án đang diễn ra của các chủ thể tham gia vào tố tụng hình sự. Viện kiểm sát không thể kiểm sát một cách trực tiếp từng hoạt động tố tụng. Tuỳ vào điều kiện thực tế về nhân sự, số lƣợng vụ án và tính chất từng loại án mà Viện kiểm sát sẽ quyết định khi nào phải tiến hành kiểm sát trực tiếp diễn tiến của một hoạt động tố tụng và khi nào kiểm sát thông qua kết quả của hoạt động tố tụng (sau khi hoạt động tố tụng đó đƣợc thực hiện). Ví dụ: trong quá trình chuẩn bị xét xử, Viện kiểm sát không thể kiểm sát trực tiếp việc Toà án giao quyết định đƣa vụ án ra xét xử và cũng không cần kiểm sát trực tiếp việc giao quyết định này. Bởi vì, chỉ cần qua kiểm sát phần thủ tục bắt đầu phiên toà, Viện kiểm sát cũng sẽ nhận biết đƣợc việc Toà án đã giao quyết định hay chƣa. Trong khi đó, đối với hoạt động khám nghiệm hiện trƣờng, khám nghiệm tử thi, Viện kiểm sát phải kiểm sát trực tiếp, tại chỗ hoạt động khám
  22. 22 nghiệm. Trong quá trình giải quyết một vụ án cụ thể, các Kiểm sát viên đƣợc phân công THQCT và kiểm sát các hoạt động tố tụng trong vụ án phải xác định đƣợc hoạt động nào phải kiểm sát trực tiếp, hoạt động nào chỉ cần kiểm sát gián tiếp. Thứ hai, về các quyền năng pháp lý cụ thể của Viện kiểm sát khi kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự: Quyền năng của Viện kiểm sát khi kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự đƣợc thể hiện cụ thể qua các quyền của Viện trƣởng, Phó Viện trƣởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên. Tuy nhiên, căn cứ vào các quy định tại Điều 23, 36, 37, 113, 339 BLTTHS, Điều 4, 14, 18, 24, 27 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, có thể phân loại các quyền năng trên thành những nhóm sau: - Nhóm các quyền nhằm phát hiện vi phạm pháp luật, đó là các quyền kiểm tra, giám sát hoạt động điều tra, hoạt động xét xử, hoạt động tạm giữ, tạm giam, quản lý vào giáo dục ngƣời chấp hành án phạt tù, hoạt động thi hành án hình sự (kiểm tra, giám sát việc tiến hành những hoạt động cụ thể, tiếp nhận các khiếu nại, tố cáo, yêu cầu cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, yêu cầu cung cấp thông tin về vi phạm của Điều tra viên, thƣờng kỳ và bất thƣờng trực tiếp kiểm sát tại nhà tạm giữ, trại tạm giam, tại giam, yêu cầu thông báo tình hình tạm giữ, tạm giam, quản lý vào giáo dục ngƣời chấp hành án phạt tù ) - Nhóm các quyền nhằm khắc phục, xử lý vi phạm: - Quyền yêu cầu khắc phục các vi phạm; - Quyền yêu cầu xử lý nghiêm minh Điều tra viên và những ngƣời có thẩm quyền khác đã vi phạm pháp luật; - Quyền kiến nghị, kháng nghị nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện vi phạm pháp luật.