Luận văn Kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ theo quy định của pháp luật từ thực tiễn Thành phố Hà Nội

pdf 75 trang vuhoa 24/08/2022 10402
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ theo quy định của pháp luật từ thực tiễn Thành phố Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_kiem_sat_thi_hanh_an_treo_va_cai_tao_khong_giam_giu.pdf

Nội dung text: Luận văn Kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ theo quy định của pháp luật từ thực tiễn Thành phố Hà Nội

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ THỤC ANH KiÓm s¸t thi hµnh ¸n treo vµ c¶I t¹o kh«ng giam gi÷ theo quy ®Þnh cña ph¸p luËt tõ thùc tiÔn thµnh phè hµ néi LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI , 2016
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ THỤC ANH KiÓm s¸t thi hµnh ¸n treo vµ c¶I t¹o kh«ng giam gi÷ theo quy ®Þnh cña ph¸p luËt tõ thùc tiÔn thµnh phè hµ néi Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC GS.TS. Võ Khánh Vinh HÀ NỘI, 2016
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. TÁC GIẢ Trần Thị Thục Anh
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN TREO VÀ CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 8 1.1. Khái niệm, nội dung, quy trình, vai trò của kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ của viện kiểm sát nhân dân 8 1.2. Các điều kiện bảo đảm cho công tác kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ của viện kiểm sát nhân dân 24 Chương 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KIỂM SÁTTHI HÀNH ÁN TREO VÀ CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂNTHÀNH PHỐ HÀ NỘI 29 2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế của thành phố Hà Nội và cơ cấu tổ chức bộ máy Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội ảnh hưởng đến kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ 29 2.2.Thực tiễn công tác kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ của viện kiểm sát nhân dân ở thành phố Hà Nội 32 Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN TREO VÀ CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 58 3.1. Quan điểm về bảo đảm việc tuân theo pháp luật trong kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ của viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội 58 3.2. Giải pháp bảo đảm việc tuân theo pháp luật trong kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ 64 KẾT LUẬN 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 79
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ADPL : Áp dụng pháp luật BLHS : Bộ luật Hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự CQTHAHS : Cơ quan thi hành án hình sự LTHAHS : Luật thi hành án Hình sự QPPL : Quy phạm pháp luật TAND : Tòa án nhân dân UBND : Ủy ban nhân dân VKSND : Viện kiểm sát nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong hoạt động thi hành án hình sự thì công tác thi hành án treo, cải tạo không giam giữ là một mảng cấu thành, thực hiện tốt công tác này sẽ bảo đảm được nguyên tắc pháp chế XHCN đó là: Bản án và quyết định của Tòa án khi đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành và phải được các cơ quan, tổ chức và mọi công dân tôn trọng. Để đảm bảo hoạt động cho công tác thi hành án treo, cải tạo không giam giữ pháp luật quy định có nhiều cơ quan chức năng, nhiều tổ chức chính trị, xã hội cùng phối hợp thực hiện như Tòa án nhân dân; Viện kiểm sát nhân dân; Công an; Tư pháp; UBND cấp xã; cơ quan, tổ chức, đơn vị quân đội nơi người được hưởng án treo, cải tạo không giam giữ cư trú, làm việc cũng như gia đình của người phải thi hành án cùng phối hợp thực hiện. Làm tốt công tác thi hành án treo, cải tạo không giam giữ vừa thể hiện được tính nghiêm khắc của pháp luật đối với những người phạm tội, vừa có tác dụng khuyến khích, tạo điều kiện cho người bị kết án tự giác cải tạo, tu dưỡng bản thân để trở thành người có ích cho xã hội dưới sự giám sát của các cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật. Như vậy, thi hành án treo, cải tạo không giam giữ chính là việc xã hội hóa quá trình cải tạo, giáo dục đối với người phạm tội bị xử phạt tù nhưng được Tòa án cho miễn chấp hành hình phạt có điều kiện và hình phạt cải tạo không giam giữ. Việc thi hành án treo, cải tạo không giam giữ sẽ giảm được các chi phí tốn kém của Nhà nước so với việc cải tạo, giáo dục người phạm tội bằng cách tập chung nhưng vẫn đảm bảo việc nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách cùng các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh các mối quan hệ trong công tác thi hành án treo, cải tạo không giam giữ, Nghị quyết số: 49-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” đã xác định: “Xây dựng Bộ luật thi hành án điều chỉnh tất cả các lĩnh vực thi hành án; ; từng bước xã hội 1
  7. hoá hoạt động thi hành án” [3]; Pháp lệnh Thi hành án phạt tù năm 1993 (đã được sửa đổi bổ sung một số điều năm 2007); Nghị định 60, Nghị định số 61/2000/NĐ - CP ngày 30 tháng 10 năm 2000 quy định việc thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ và hình phạt tù cho hưởng án treo; Luật thi hành án hình sự được Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khóa XII đã thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2010 tại kỳ họp thứ 7, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2011, khi đi vào thực tiễn, những văn bản trên đã phát huy tác dụng tích cực và có hiệu quả trong công tác thi hành án. Quán triệt các Nghị quyết của Đảng, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Luật thi hành án hình sự thời gian qua ngành kiểm sát thành phố Hà Nội đã có nhiều cố gắng trong việc phát huy vai trò của mình trong hoạt động kiểm sát thi hành án, đặc biệt là hoạt động áp dụng pháp luật trong kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ. Tuy nhiên, công tác này vẫn còn nhiều tồn tại hạn chế, xuất phát từ những nguyên nhân như sau: Thứ nhất: Thành phố Hà Nội là thủ đô của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có vị trí địa lý - chính trị quan trọng, nằm ở phía Tây Bắc vùng đồng bằng sông Hồng, tiếp giáp với 8 tỉnh: phía Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên và Vĩnh Phúc ; phía đông giáp tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh và Hưng Yên; phía tây giáp tỉnh Hoà Bình và Phú Thọ; phía Nam giáp tỉnh Hà Nam và Hoà Bình, có đường giao thông thuận tiện, thuận lợi cho phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng., cũng như tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, khu vực và cùng hội nhập vào quá trình phát triển năng động của khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Là nơi tập trung các cơ quan cao nhất của Đảng, Quốc hội, Chính phủ; nhiều văn phòng của các tổ chức quốc tế, các văn phòng đại diện nước ngoài; Với diện tích 3348,5 km2;dân số 6450 nghìn người. Tính đến 01/4/2014, Thành phố Hà Nội có 30 quận/huyện/thị xã. Trong đó nội thành gồm 12 quận, ngoại thành gồm thị xã Sơn Tây và 17 huyện với 584 đơn vị hành chính cấp xã/phường/thị trấn, bao gồm: 177 phường, 386 xã và 21 thị trấn. Bên cạnh nhiều thuận lợi trong 2
  8. phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa,xã hội và an ninh, quốc phòng; Hà Nội cũng còn những thách thực không nhỏ đó là tình trạng vi phạm và tội phạm có chiều hướng gia tăng và bởi vậy tỉ lệ người bị kết án phạt tù cho hưởng án treo và cải tạo không giam giữ hàng năm cũng ngày một tăng đã tạo nên sức ép không nhỏ cho công tác thi hành án hình sự nói chung và Kiểm sát thi hành án hình sự nói riêng. Thứ hai: Trong công tác thi hành án treo và hình phạt cải tạo không giam giữ còn chưa được quan tâm thực hiện, thậm chí có nơi còn buông lỏng, đặc biệt là đối với cấp xã; trình độ năng lực của cán bộ làm công tác này còn nhiều hạn chế, nguồn kinh phí đầu tư cho công tác này còn eo hẹp từ đó dẫn đến những hệ lụy xấu cho xã hội và làm mất đi tính nghiêm minh của pháp luật. Thứ ba: Hệ thống pháp luật tuy đã được chỉnh sửa nhưng khi đưa vào thi hành đã bộc lộ nhiều hạn chế. Để phát huy dân chủ và tăng cường Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong thực hành quyền công tố nói chung và hoạt động kiểm sát thi hành án hình sự nói riêng, việc áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát thi hành án hình sự, đặc biệt là thi hành án treo và cải tạo không giam giữ cần phải được nâng cao hơn nữa về chất lượng, hiệu quả. Coi đó là nhiệm vụ quan trọng trong tiến trình cải cách tư pháp. Về mặt lý luận, áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ của Viện kiểm sát nhân dân đã được giới khoa học pháp lý làm sáng tỏ. Song, thực tiễn vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong công tác này vẫn còn là vấn đề cần được nghiên cứu cụ thể đặc biệt là trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay. Thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến việc thi hành án treo và hình phạt cải tạo không giam giữ nhưng trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề này. Để tạo cơ sở lý luận và đưa ra những giải pháp thiết thực nhằm nâng cao hơn nữa vai trò của ngành Kiểm sát thành phố Hà Nội đối với quá trình kiểm sát hoạt động thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo và cải tạo không giam giữ, đảm bảo việc thực hiện pháp chế xã hội chủ nghĩa một cách nghiêm minh, hiệu quả. 3
  9. Với những lý do trên, học viên chọn vấn đề: “Kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ theo quy định của pháp luật từ thực tiễn thành phố Hà Nội”, làm đề tài luận văn thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài. Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến công tác thi hành án treo và hình phạt cải tạo không giam giữ đã được một số nhà khoa học và cán bộ làm công tác thực tiễn tiến hành, công bố trong nhiều công trình khoa học. Có một số luận văn Thạc sỹ, một số giáo trình giảng dạy, bài viết trên tạp chí và một số sách chuyên khảo đã nghiên cứu về vấn đề này. Đáng chú ý là các công trình sau: - Về đề tài khoa học: Đề tài cấp bộ: “Quản lý nhà nước công tác thi hành án phạt tù trong lực lượng Công an nhân dân” của Bộ Công an (mã số BCA - 1997, V26 - 197); Đề tài cấp bộ: “Mô hình thống nhất công tác thi hành án” của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ tư pháp (mã số 96 - 98 - 027). - Các bài viết trên các tạp chí chuyên nhành, của các tác giả: Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam. Sách xuất bản năm 2007, tác giả Lê Văn Luật; Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao trách nhiêm của ủy ban nhân dân cấp xã ở tỉnh Vĩnh Phúc trong công tác quản lý, giáo dục người thi hành án treo, cải tạo không giam giữ, tác giả Lê Tiến Mạnh, Tạp chí Kiểm sát số: 10 - Tháng 5 năm 2008; Một số suy nghĩ về hướng dẫn thực hiện án treo, Đỗ Văn Chỉnh, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 4, năm 2009; Điều kiện thử thách của án treo và hậu quả pháp lý của việc vi phạm điều kiện thử thách của án treo theo Luật hình sự Việt Nam, Phạm Thị Bích Ngọc, Tạp chí Luật học, số 2, năm 1999; Bàn về quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội, tác giả Nguyễn Mạnh Tiến, Tạp chí Tòa án nhân dân số 21 năm 2010. - Một số sách chuyên khảo và một số luận văn đề cập đến tác thi hành án treo và hình phạt cải tạo không giam giữ: Viện kiểm sát nhân dân tối cao: “Sổ tay Kiểm sát viên hình sự” Phần thứ 5, năm 2011; Luận văn Thạc sỹ luật học của Trương Đức Thuận (năm 2003): “Án treo và nâng cao hiệu quả áp dụng án treo trong xét xử của Tòa án quân sự”; Luận văn Thạc sỹ luật học của Lê Văn Luật (năm 2005): “Chế 4
  10. định án treo trong luật Hình sự Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thực tiễn”; Luận văn thạc sỹ luật học của Trần Thị Thanh Thủy về “Thực hiện pháp luật thi hành án hình sự đối với người được hưởng án treo và cải tạo không giam giữ ở tỉnh Thanh Hóa” năm 2008; Luận văn thạc sỹ Luật học của Lê Thị Bích Ngọc về “Áp dụng pháp luật về án treo trong hoạt động xét xử án hình sự của TAND tỉnh Vĩnh Phúc” năm 2010; Luận văn thạc sỹ Luật học của Nguyễn Phương Nam về “Bảo đảm hiệu lực thi hành án treo ở tỉnh Vĩnh Phúc” năm 2010; Luận văn thạc sỹ luật học của Hoàng Đạt Nam về “Áp dụng pháp luật về án treo trong hoạt động xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án quân sự ở Việt Nam” năm 2013. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về áp dụng pháp luật trong kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ của Viện kiểm sát nhân dân; đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật trong kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ của Viện kiểm sát nhân dân ở thành phố Hà Nội, luận văn luận chứng các quan điểm và giải pháp bảo đảm áp dụng pháp luật trong kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ của viện kiểm sát nhân dân ở thành phố Hà Nội. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được những mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ: - Phân tích khái niệm thi hành án treo và cải tạo không giam giữ; trình tự, thủ tục thi hành án treo và cải tạo không giam giữ; phân tích khái niệm và vai trò áp dụng pháp luật trong kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ của Viện kiểm sát nhân dân. - Phân tích quy trình và nội dung kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ của Viện kiểm sát nhân dân. - Phân tích các điều kiện đảm bảo công tác kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ của Viện kiểm sát nhân dân. - Đánh giá thực trạng công tác kiểm sát thi án treo và cải tạo không giam giữ trên địa bàn thành phố Hà Nội . Tìm ra những nguyên nhân hạn chế trong công tác này. 5
  11. - Trên cơ sở những phân tích đánh giá, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả trong công tác kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ trên địa bàn thành phố Hà Nội . 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật trong kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ của Viện kiểm sát nhân dân. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Thực tiễn áp dụng pháp luật trong kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ của Viện kiểm sát nhân dân ở thành phố Hà Nội từ năm 2011 đến năm 2015. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp luật; những quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa, về đấu tranh phòng chống tội phạm. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác - Lê nin. Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp phân tích, so sánh, thống kê, tổng hợp Là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu về kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội , luận văn có một số đóng góp về mặt khoa học sau: - Xây dựng khái niệm kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ của Viện kiểm sát nhân dân. - Phân tích quy trình, nội dung kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ của Viện kiểm sát nhân dân. - Đánh giá thực trạng công tác kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội . 6
  12. - Đề xuất quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn 6.1 Ý nghĩa lí luận Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận chung về Nhà nước và pháp luật; lý luận về kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân. 6.2. Về mặt thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo phục vụ yêu cầu nâng cao chất lượng công tác thi hành án nói chung và thi hành án treo và hình phạt cải tạo không giam giữ nói riêng trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó luận văn còn có thể sử dụng làm tài liện tham khảo cho việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu liên quan đến hoạt động thực hành quyền công tố nói chung, kiểm sát các hoạt động tư pháp trong công tác thi hành án nói riêng. Đặc biệt, luận văn góp phần đưa công tác kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ của VKSND thành phố Hà Nội đi vào hoạt động có hiệu quả hơn. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liện tham khảo, nội dung luận văn gồm có 3 chương sau đây : - Chương 1 : Những vấn đề lý luận về kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ của viện kiểm sát nhân dân. - Chương 2 : Thực trạng công tác kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ của viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội - Chương 3 : Quan điểm và giải pháp bảo nâng cao chất lượng kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ của viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội. 7
  13. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN TREO VÀ CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 1.1. Khái niệm, nội dung, quy trình, vai trò của kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ của viện kiểm sát nhân dân 1.1.1. Khái niệm kiểm sát thi hành án treo, thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ. 1.1.1.1. Khái niệm thi hành án treo Chương V Bộ luật hình sự năm 1999 đã định nghĩa về hình phạt, mục đích của hình phạt cũng như các loại hình phạt chính, hình phạt bổ sung được áp dụng trong Bộ luật hình sự Việt Nam. Bên cạnh việc áp dụng các hình phạt, cũng như một số quốc gia khác Việt Nam áp dụng chế định “án treo” được quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự. Khoản 1 Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999 qui định: “Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm”[10]. Giáo trình luật hình sự Việt Nam của Trường đại học Luật Hà Nội nói về vấn đề án treo: Là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, án treo thể hiện tính nhân đạo của Luật Hình sự Việt Nam,có tác dụng khuyến khích người bị kết án tự tu dưỡng và lao động tại cộng đồng với sự giúp đỡ tích cực của xã hội cũng như gia đình đồng thời cảnh báo họ nếu phạm tội mới trong thời gian thử thách thì buộc họ phải chấp hành hình phạt tù đã tuyên [33]. Theo Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao: “Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt” nêu rõ chỉ cho người bị xử phạt tù được hưởng án treo khi có đủ các điều kiện sau đây: 8
  14. - Bị xử phạt tù không quá ba năm, không phân biệt về tội gì;trường hợp người bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội mà khi tổng hợp hình phạt, hình phạt chung không quá ba năm tù, thì cũng có thể cho hưởng án treo. - Có nhân thân tốt được chứng minh là ngoài lần phạm tội này họ luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân; chưa có tiền án, tiền sự; có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú cụ thể, rõ ràng; - Có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên và không có tình tiết tăng nặng, trong đó có ít nhất là một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 điều 46 của BLHS. Trường hợp vừa có tình tiết giảm nhẹ vừa có tình tiết tăng nặng, thì tình tiết giảm nhẹ phải nhiều hơn tình tiết tăng nặng từ hai tình tiết trở lên; - Nếu không bắt họ đi chấp hành hình phạt tù thì không gây nguy hiểm cho xã hội hoặc không gây ảnh hưởng xấu trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm [7]. Ở Việt Nam, tính đến đến thời điểm này vẫn chưa có một định nghĩa nào mang tính chính thống về án treo, tuy nhiên có thể thấy bản chất của án treo là: Thứ nhất: Án treo không phải là hình phạt mà là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù khi người bị kết án có đầy đủ các điều kiện theo quy định của Bộ luật hình sự và được hội đồng xét xử cho họ được hưởng. Thứ hai: Người được hưởng án treo sẽ phải chịu thời gian thử thách từ một đến năm năm. Trong thời gian thử thách người được hưởng án treo phải chịu sự giám sát, giáo dục của UBND xã, phường, thị trấn hoặc đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo và họ được hưởng một số quyền và phải có một số nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự. Thứ ba: Trong thời gian thử thách, nếu người đó phạm tội mới và bị xét xử thì biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù đương nhiên bị xóa bỏ và bản án đó sẽ được hội đồng xét xử tổng hợp với bản án do phạm tội trong thời gian thử thách. Pháp luật Việt Nam quy định Tòa án là cơ quan, nhân danh Nhà nước xét xử:“Bằng hoạt động của mình Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống 9
  15. xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác” [13]. Nhưng những phán quyết của Tòa án chỉ có ý nghĩa khi nó được đưa vào thi hành trên thực tế, đó chính là hoạt động thi hành án. Theo Từ điển tiếng Việt thì “thi hành” là: “Thực hiện điều đã chính thức quyết định” [17]. Như vậy, chúng ta có thể hiểu: Thi hành án hình sự là việc đưa các bản án, quyết định về hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trên thực tế, bảo đảm bản án, quyết định của Tòa án được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh. Thi hành án treo mang đầy đủ các đặc điểm của thi hành án hình sự và nó là một bộ phận cấu thành nên công tác thi hành án hình sự. Tất cả các chủ thể tham gia công tác này phải tuân thủ đúng các quy định trong Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự và Luật thi hành án hình sự. Tuy nhiên khác với việc thi hành các hình phạt khác, thi hành án treo có một số đặc điểm như sau: Thứ nhất: Đặc trưng cơ bản của thi hành án treo chính là thời gian thử thách, qua đó người bị kết án phải chấp hành các điều kiện do pháp luật quy định. Thời gian thử thách theo luật định hiện hành ngắn nhất là 01 năm và dài nhất là 05 năm, do hội đồng xét xử ấn định trên cơ sở như sau: - Trường hợp người bị xử phạt tù không bị tạm giam thì thời gian thử thách bằng hai lần mức hình phạt tù, nhưng không được dưới một năm và không được quá năm năm. - Trường hợp người bị xử phạt tù đã bị tạm giam thì lấy mức hình phạt tù trừ đi thời gian đã bị tạm giam để xác định mức hình phạt tù còn lại phải chấp hành. Thời gian thử thách trong trường hợp này bằng hai lần mức hình phạt tù còn lại phải chấp hành, nhưng không được dưới một năm và không được quá năm năm. - Trong trường hợp đặc biệt thì Tòa án có thể ấn định thời gian ngắn hơn mức hướng dẫn (nêu trên), nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án [7]. Thứ hai: Trong suốt thời gian thử thách, người phải thi hành án treo luôn có nguy cơ không được miễn chấp hành hình phạt tù đã tuyên khi phạm tội mới trong thời gian thử thách, tòa án quyết định buộc họ phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định của Bộ luật hình sự. 10
  16. Như vậy người được hưởng án treo trong trường hợp này phải quay lại trình tự thủ tục thi hành án hình sự từ đầu. Thứ ba: Trong khi thi hành án treo, người bị kết án không phải cách ly khỏi đời sống xã hội, họ được tạo điều kiện trong việc lao động, học tập. Đối với người được hưởng án treo là cán bộ, công chức, viên chức, sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sỹ quan, chiến sỹ, công nhân quốc phòng, công nhân nhân công an, người lao động nếu được tiếp tục làm việc tại cơ quan, tổ chức thì được bố trí công việc bảo đảm yêu cầu giám sát, giáo dục, được hưởng tiền lương và chế độ khác phù hợp với công việc mà mình đảm nhiệm, được tính vào thời gian công tác, thời gian tại ngũ theo quy định của pháp luật. Nếu người được hưởng án treo không thuộc trường hợp trên thì được UBND cấp xã tạo điều kiện để người đó tìm việc làm. Còn đối với người được hưởng án treo được cơ sở giáo dục phổ thông, giáo dục nghề tiếp nhận học tập thì được hưởng quyền lợi theo quy chế của cơ sở tiếp nhận đó và họ vẫn được hưởng mọi chế độ ưu đãi về chế độ chính sách theo quy định của pháp luật. Thứ tư: Trách nhiệm trong giám sát giáo dục người thi hành án treo được giao cho UBND cấp xã theo bản án đã tuyên. Từ sự phân tích trên có thể đưa ra khái niệm: thi hành án treo là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của Luật thi hành án hình sự giám sát, giáo dục người bị phạt tù cho hưởng án treo trong thời gian thử thách [34, tr.136]. 1.1.1.2. Khái niệm thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ Theo Bộ luật Hình sự 1985 (Điều 21 và Điều 24) thì hình phạt cải tạo không giam giữ đã được ghi nhận là hình phạt chính nằm giữa hình phạt tù và phạt tiền. Hình phạt cải tạo không giam giữ giai đoạn này được đề cập đến gồm hai phần tách biệt bao gồm: cải tạo không giam giữ và cải tạo ở các đơn vị kỷ luật của quân đội với quân nhân phạm tội. Hình phạt này được áp dụng với người phạm tội ít nghiêm trọng và những trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định phạt giam nhưng có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách 11
  17. nhiệm hình sự nên được chuyển sang loại hình phạt nhẹ hơn.Hình phạt cải tạo không giam giữ có thời hạn từ sáu tháng đến hai năm. - Về điều kiện áp dụng: Bộ luật Hình sự 1985 quy định chỉ áp dụng cải tạo không giam giữ với người phạm tội ít nghiêm trọng, kèm theo một số điều kiện như có nhiều tình tiết giảm nhẹ hình phạt, bị cáo không phải là người tái phạm về tội cố ý, bị cáo có căn cước, lý lịch rõ ràng, có nơi thường trú. - Người bị kết án được Tòa án giao cho cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội nơi người đó làm việc hoặc thường trú để giám sát, giáo dục. Người bị kết án phải thực hiện các nghĩa vụ về cải tạo không giam giữ. Nghĩa vụ khấu trừ thu nhập không phải là nghĩa vụ bắt buộc. Tòa án được linh hoạt quyết định áp dụng yêu cầu thực hiện nghĩa vụ này đối với người bị kết án. - Đối với người phạm tội là quân nhân tại ngũ, trong trường hợp điều luật quy định hình phạt cải tạo không giam giữ, thì áp dụng hình phạt cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội[11]. Bộ luật hình sự 1999 tiếp tục khẳng định vị trí của hình phạt cải tạo không giam giữ trong hệ thống hình phạt là hình phạt chính, nằm giữa hình phạt tù và hình phạt phạt tiền và cảnh cáo. So với bộ luật hình sự 1985, Bộ luật Hình sự 1999 mở rộng phạm vi áp dụng của hình phạt cải tạo một cách đáng kể. Cải tạo không giam giữ không chỉ được áp dụng với người phạm tội ít nghiêm trọng mà còn được áp dụng cả với người phạm tội nghiêm trọng. Về thời hạn áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ cùng với việc nâng cao vai trò và mở rộng phạm vi áp dụng của hình phạt cải tạo không giam giữ, thời hạn áp dụng hình phạt này cũng được quy định dài hơn, là từ sáu tháng đến ba năm. - Về điều kiện áp dụng: Bộ luật hình sự 1999 bổ sung thêm các điều kiện như người phạm tội đang có nơi làm việc ổn định hoặc nơi thường trú rõ ràng, chỉ áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người phạm tội nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người đó ra khỏi xã hội. - Trong Bộ luật hình sự 1999, lần đầu tiên quy định nghĩa vụ của gia đình người bị kết án cải tạo không giam giữ. Đặc biệt, nghĩa vụ khấu trừ 5% đến 20% 12
  18. thu nhập trở thành một nghĩa vụ bắt buộc và chỉ có thể được miễn trong một số trường hợp đặc biệt do Tòa án quyết định và ghi nhận trong bản án. Tuy nhiên, không khấu trừ thu nhập đối với người chưa thành niên và thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội không quá một phần hai thời hạn mà điều luật quy định.Bên cạnh đó, Bộ luật hình sự 1999 đã bỏ hình phạt hình phạt cải tạo ở đơn vị kỷ luật quân đội. Theo từ điển Luật học thì: cải tạo không giam giữ là việc buộc người phạm tội phải tự cải tạo dưới sự giám sát của cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội nơi họ làm việc hoặc cư trú qua việc phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định[18, tr.98]. Về bản chất, hình phạt cải tạo không giam giữ là loại hình phạt không tước đi sự tự do của người bị kết án, không buộc người bị kết án phải cách ly khỏi xã hội mà nội dung chính của hình phạt là việc buộc một người bị kết án phải chịu sự giám sát, giáo dục của các cơ quan, tổ chức. Ngoài ra người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự và có thể bị khấu trừ từ 5% đến 20% thu nhập để sung quỹ nhà nước (trừ trường hợp do Tòa án quyết định hoặc người bị kết án là người chưa thanh niên). Thời hạn cải tạo không giam giữ từ sáu tháng đến ba năm. Hình phạt áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng, có nơi làm việc hoặc nơi thường trú rõ ràng và khi các điều kiện khác cho thấy họ có thể tự cải tạo, giáo dục mà không cần thiết phải cách ly ra khỏi xã hội. Như vậy, có thể hiểu khái niệm thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ như sau: thi hành án phạt cải tạo không giam giữ là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của Luật thi hành án hình sự giám sát, giáo dục người chấp hành án tại xã, phường thị trấn và khấu trừ thu nhập sung công quỹ Nhà nước theo bản án đã có hiệu lực pháp luật[34, tr.127]. 1.1.1.3. Khái niệm kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ của Viện kiểm sát nhân dân Việt Nam đang trên đường xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, do đó pháp luật ngày càng đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội. Thời 13
  19. gian gần đây, chúng ta đã có một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh nhiều mối quan hệ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội; đặc biệt là các qui định của pháp luật về thi hành án treo, cải tạo không giam giữ. Nhằm đảm bảo cho các qui định của pháp luật về thi hành án treo, cải tạo không giam giữ được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất đòi hỏi nhiều yếu tố song một trong những yếu tố quan trọng nhất, đó là việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong công tác thi hành án treo, cải tạo không giam giữ. Đối tượng của kiểm sát thi hành án treo, cải tạo không giam giữ chính là sự chấp hành pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền. trong việc thi hành án, treo, cải tạo không giam giữ, cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân được giao trách nhiệm giám sát, giao dục người được hưởng án treo, người bị kết án cải tạo không giam giữ. Từ đó có thể rút ra khái niệm kiểm sát thi hành án treo, cải tạo không giam giữ: là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, trong đó Viện kiểm sát nhân dân căn cứ vào qui định của pháp luật để ban hành các văn bản cá biệt (văn bản áp dụng pháp luật) đối với các đối tượng thi hành án treo và cải tạo không giam giữ, các cơ quan có thẩm quyền trong công tác thi hành án treo và cải tạo không giam giữ nhằm bảo đảm các hoạt động thi hành án này tuân thủ đúng các qui định của pháp luật. 1.1.2. Vai trò của kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ của Viện kiểm sát nhân dân Kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ là một trong những khâu công tác quan trọng của Viện kiểm sát nhân dân có vai trò bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, người chấp hành án được bảo vệ và tuân thủ đúng các quy định của pháp luật [12]. Trong lĩnh vực kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ góp phần đảm bảo các nguyên tắc, trình tự, thủ tục, tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, cá nhâncó thẩm quyền và có nghĩa vụ trong thi hành án được bảo đảm thực hiện. Kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ là cơ sở cho việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực này. Thực tế, kiểm sát thi hành án treo và cải tạo không giam giữ đòi hỏi nhu cầu 14