Luận văn Kiểm sát khám nghiệm hiện trường tai nạn giao thông từ thực tiễn Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

pdf 87 trang vuhoa 24/08/2022 8160
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Kiểm sát khám nghiệm hiện trường tai nạn giao thông từ thực tiễn Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_kiem_sat_kham_nghiem_hien_truong_tai_nan_giao_thong.pdf

Nội dung text: Luận văn Kiểm sát khám nghiệm hiện trường tai nạn giao thông từ thực tiễn Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI   LÊ SỸ LINH KIỂM SÁT KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG TAI NẠN GIAO THÔNG TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội, năm 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI   LÊ SỸ LINH KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG TAI NẠN GIAO THÔNG TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. LÊ NGUYÊN THANH Hà Nội, năm 2021
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các dữ liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác. Tác giả luận văn Lê Sỹ Linh
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: LÝ LUẬN VÀ NỘI DUNG KIỂM SÁT KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG CÁC VỤ ÁN TAI NẠN GIAO THÔNG 6 1.1. Lý luận về kiểm sát khám nghiệm hiện trường các vụ án TNGT 6 1.2. Nội dung kiểm sát khám nghiệm hiện trường các vụ án tai nạn giao thông 17 1.2.1. Kiểm sát thẩm quyền khám nghiệm và thành phần chủ thể khám nghiệm hiện trường các vụ tai nạn giao thông 17 1.2.2. Kiểm sát trình tự, thủ tục khám nghiệm hiện trường các vụ án tai nạn giao thông 20 1.2.3. Kiểm sát đối tượng và phương pháp khám nghiệm hiện trường của các vụ tai nạn giao thông 28 Chương 2 THỰC TIỄN VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM SÁT KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG CÁC VỤ ÁN TAI NẠN GIAO THÔNG 33 2.1. Tình hình tai nạn giao thông và thực tiễn kiểm sát khám nghiệm hiện trường các vụ tai nạn giao thông trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai 33 2.1.1. Tình hình vụ án tai nạn giao thông trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai 33 2.1.2. Thực tiễn kiểm sát khám nghiệm hiện trường các vụ tai nạn giao thông trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai 37 2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm sát khám nghiệm hiện trường các vụ án tai nạn giao thông 54 2.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật/hướng dẫn áp dụng pháp luật về kiểm sát khám nghiệm hiện trường các vụ án tai nạn giao thông 54 2.2.2. Giải pháp phối hợp, triển khai hoạt động kiểm sát khám nghiệm hiện trường đối với các vụ án tai nạn giao thông 58 2.2.3. Giải pháp đào tạo, bồi dưỡng, đào tạo Kiểm sát viên đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ kiểm sát khám nghiệm hiện trường các vụ án tai nạn giao thông 64 KẾT LUẬN 70 TÀI LIỆU THAM KHẢO 72 PHỤ LỤC 74
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự BLHS Bộ luật Hình sự CSĐT Cảnh sát điều tra CSGT Cảnh sát giao thông ĐTV Điều tra viên HĐKN Hội đồng khám nghiệm KTHS Kỹ thuật hình sự KNHT Khám nghiệm hiện trường KSV Kiểm sát viên KSKNHT Kiểm sát khám nghiệm hiện trường TNGT Tai nạn giao thông VKS Viện kiểm sát VKSND Viện kiểm sát nhân dân
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Biểu số 1: Bảng thống kê các vụ TNGT và kết quả giải quyết 81 Biểu số 2: Bảng thống kê các vụ TNGT VKS tham gia khám nghiệm 81
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tình hình tai nạn giao thông ở nước ta hiện nay, đã và đang trở thành một vấn đề bức xúc của toàn xã hội. Mặc dù các Cơ quan chức năng có thẩm quyền đã có nhiều cố gắng trong công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông, nhưng các vụ TNGT vẫn chưa có động thái giảm. Rất nhiều trường hợp TNGT để lại hậu quả hết sức nặng nề. Vị trí, vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân quy định tại Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND hiện hành. Theo đó thì VKSND có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, nhằm góp phần đảm bảo cho pháp luật được chấp hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất, pháp chế xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Việc xác định vai trò, trách nhiệm của VKSND trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra là hoàn toàn phù hợp với vị trí, vai trò và chức năng của VKSND. Điều 20 BLTTHS khẳng định: “VKS thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, quyết định việc buộc tội, phát hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội”. Trong nhiều năm qua, các VKSND cũng đã thấy rõ tầm quan trọng của công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra nói chung và công tác KSKNHT nói riêng. Tuy nhiên, cũng phải thẳng thắn thừa nhận, công tác này đang còn nhiều hạn chế, thiếu sót chưa đáp đáp ứng được một cách đầy đủ các đòi hỏi và yêu cầu của tình hình hiện nay. Vai trò, trách nhiệm của VKS đã được chỉ rõ tại các văn bản: Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị nêu rõ: VKS phải thực hành quyền công tố ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình điều tra nhằm không bỏ lọt người, lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; Nghị quyết số 49 ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị đã nêu: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra. Hoạt động KSKNHT TNGT là một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND. Chính vì vậy, vấn đề cấp bách là cần nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác này. 1
  8. KSV muốn làm tốt việc KSKNHT các vụ TNGT, một mặt phải nắm vững các biện pháp nghiệp vụ, các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục, quy trình khi tiến hành khám nghiệm, mặt khác cần nhận thức được vai trò, trách nhiệm của mình trong hoạt động kiểm sát việc KNHT để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động KNHT. Để có đủ cơ sở và căn cứ xử lý đối với vụ TNGT thì hoạt động khám nghiện hiện trường đóng vai trò rất quan trọng. Có thể nói đây là yếu tố quyết định làm sáng tỏ và xác định ai là người có lỗi dẫn đến vụ tai nạn để quyết định có hay không sự việc phạm tội đã xảy ra. Quá trình thu thập dấu vết phương tiện, dấu vết máu, lông, tóc của các chủ thể liên quan đến vụ tại nạn là trách nhiệm của HĐKN trong đó vai trò của KSV rất quan trọng. Chính vì vậy BLTTHS đã quy định bắt buộc KSV phải có mặt để KSKNHT. Thông qua hoạt động này, VKS có trách nhiệm bảo đảm cho việc KNHT của HĐKN thực hiện đúng quy định bảo đảm tính khách quan, chân thực của sự việc. Có làm tốt KNHT thì mới đủ căn cứ để giải quyết vụ tai nạn, khởi tố vụ án, bị can nếu người có lỗi dẫn đến tai nạn và không khởi tố vụ án nếu lỗi thuộc về nạn nhân. Qua thực tiễn địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai cho thấy: Rất nhiều vụ tai nạn, do quá trình KNHT có nhiều thiếu sót và vi phạm nên không đủ cơ sở để giải quyết vụ việc, thậm chí xác định sai lỗi của các bên liên quan dẫn đến khởi tố oan sai. Để góp phần hoàn thiện những vấn đề trên, tác giả chọn đề tài: “KSKNHT TNGT từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai” nhằm làm rõ hơn về lý luận cũng như thực tiễn đối với công tác này. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong thời gian qua, ở các phương diện tiếp cận khác nhau đã có một số luận án, luận văn và một số bài viết trên tạp chí đã nghiên cứu về KNHT và KNHT TNGT, như: - “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác KNHT các vụ TNGT đường bộ trên địa bàn thành phố Hà Nội” – Tác giả Bùi Quang Anh, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân, năm 2007. - “Quan hệ phối hợp giữa CSGT và CSĐT trong điều tra ban đầu các tội phạm xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ” – Tác giả Nguyễn Văn 2
  9. Chinh, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân, năm 2002. - “Hoạt động phòng ngừa tội phạm của VKSND” – Tác giả Nguyễn Hồng Vinh, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân, năm 2005. - “Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động KNHT các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ của lực lượng CSĐT tội phạm về trật tự xã hội Công an tỉnh Phú Yên” – Tác giả Nguyễn Vĩnh Hà: Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện cảnh sát nhân dân, năm 2005. - “Kiểm sát điều tra tại hiện trường trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” – Tác giả Ngô Xuân Khang, VKSND tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội, năm 2013. - “KSKNHT, khám nghiệm tử thi trong giải quyết các vụ án xâm phạm trật tự xã hội ” – Tác giả Phạm Xuân Khoa Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội Việt nam, năm 2014. - “KSKNHT vụ án về vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ từ thực tiễn thành phố Hà Nội” – Tác giả Trần Thị Nhâm, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội Việt nam, năm 2018. - “Một số vấn đề về thẩm quyền pháp lý trong hoạt động điều tra TNGT của lực lượng Cảnh sát nhân dân” – Tác giả Hoàng Đình Ban, Tạp chí Công an nhân dân số 4-2000. Các công trình nghiên cứu trên chỉ đề cập đến những vấn đề chung nhất, phân tích, tìm hiểu các quy định của pháp luật hoặc nghiên cứu dưới dạng đơn lẻ, giới hạn trong từng loại án giết người, án TNGT ở một số địa bàn. Chủ yếu tiếp cận nghiên cứu về quy trình thực hiện việc khám nghiệm và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động KNHT. Đối với các đề tài nghiên cứu về hoạt động KSKNHT lại chủ yếu tiếp cận và phân tích trên phương diện lý luận, chưa tập trung đi sâu vào những vi phạm, thiếu sót đã xảy ra trên thực tiễn để rút ra những bài học kinh nghiệm và những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động KSKNHT TNGT. Đến nay, vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu về đề tài: “KSKNHT TNGT từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai”. Luận văn tác giả đi sâu vào những hạn chế thiếu sót của những vụ tai nạn cụ thể đã xảy ra. Trên cơ sở đó, chỉ ra được những nguyên nhân dẫn đến hạn chế, thiếu sót đó và đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động KSKNHT TNGT. 3
  10. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài tiến hành nghiên cứu nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và pháp lý về kiểm sát việc KNHT TNGT trên cơ sở thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, từ đó đề xuất những giải pháp bảo đảm hiệu quả KNHT TNGT. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Với mục đích đặt ra như trên, nội dung luận văn cần thực hiện: - Trình bày những vấn đề lý luận về hoạt động KSKNHT TNGT. - Phân tích quy định của pháp luật tố tụng hình sự KSKNHT TNGT. - Đánh giá thực tiễn kiểm sát việc KNHT các vụ TNGT trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. - Đề xuất các giải pháp bảo đảm KSKNHT các vụ TNGT ở địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai nói riêng và cả nước nói chung. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Là khóa cạnh lý luận, pháp lý và thực tiễn hoạt động KSKNHT TNGT từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tác giả nghiên cứu trên phạm vi: - Phạm vi nội dung: Xuất phát từ thực tiễn tại địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, luận văn đi sâu vào làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn trong hoạt động kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường tai nạn giao thông đường bộ. - Phạm vi không gian: Tác giả nghiên cứu từ thực tiễn địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. - Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu hoạt động KSKNHT TNGT tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai từ năm 2016 đến năm 2020. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận Duy vật biện chứng và Duy vật lịch sử. Trong quá trình nghiên cứu đề tài tác giả sử dụng những phương pháp cụ thể sau: - Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh được sử dụng để nghiên cứu lý luận, pháp lý của hoạt động KNHT TNGT. 4
  11. - Phương pháp thống kê, phân tích số liệu liên quan đến các vụ KNHT TNGT tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. - Nghiên cứu các vụ việc điển hình về kiểm sát hoạt động KNHT. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Đề tài là một công trình nghiên cứu có hệ thống về hoạt động kiểm sát việc KNHT TNGT nói chung và trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai nói riêng. Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở khoa học để các cơ quan có thẩm quyền xem xét, bổ sung, sửa đổi các quy phạm pháp luật về KNHT TNGT . Luận văn đã khái quát những vấn đề lý luận và nội dung của hoạt động KSKNHT của Viện KSND. Luận văn đã đưa ra những nhận thức lý luận mới, đầy đủ và rõ ràng về đề tài nghiên cứu nhằm khẳng định vị trí, vai trò, trách nhiệm của hệ thống cơ quan Viện KSND là một lực lượng nòng cốt, là chủ thể có vai trò quan trọng trong hoạt động KNHT TNGT. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng để xây dựng các kỹ năng nghề nghiệp, các thao tác nghiệp vụ để phục vụ công tác thực tiễn tại các VKSND. Ngoài ra đề tài còn cung cấp cho cơ quan điều tra, cơ quan CSGT, ĐTV, cán bộ làm nhiệm vụ điều tra giải quyết TNGT của lực lượng CSĐT, CSGT những vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả công tác KNHT TNGT. 7. Cấu trúc của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được kết cấu thành 2 chương. Chương 1: Lý luận và nội dung KSKNHT các vụ án TNGT. Chương 2: Thực tiễn và giải pháp nâng cao hiệu quả KSKNHT các vụ án TNGT. 5
  12. Chương 1 LÝ LUẬN VÀ NỘI DUNG KIỂM SÁT KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG CÁC VỤ ÁN TAI NẠN GIAO THÔNG 1.1. Lý luận về kiểm sát khám nghiệm hiện trường các vụ án TNGT 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và phương pháp kiểm sát khám nghiệm hiện trường các vụ án tai nạn giao thông 1.1.1.1. Khái niệm kiểm sát khám nghiệm hiện trường tai nạn giao thông Thuật ngữ “Hiện trường” đã được dùng từ lâu trong đời sống xã hội và đã trở thành một thuật ngữ của nhiều ngành khoa học, trong đó có khoa học pháp lý và khoa học điều tra hình sự. Theo Đại từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin năm 1998: “Hiện trường là nơi diễn ra hoạt động thực tiễn hay nơi diễn ra sự việc” Trong khoa học điều tra hình sự, hiện trường được khái niệm: Là nơi xảy ra, nơi diễn ra sự việc mang tính hình sự. Mặt khác, khái niệm hiện trường nói chung còn được nhiều công trình nghiên cứu định nghĩa theo nhiều phương diện tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, dù tiếp cận ở bất kỳ phương diện nào thì cũng có các đặc điểm cơ bản sau: Một là, đó là địa điểm cụ thể nơi đã xảy ra sự việc, nơi chứa đựng dấu vết, vật chứng và những thông tin chứng minh trực tiếp diễn biến của vụ việc: Bởi vì mọi sự vật, hiện tượng, quá trình tồn tại, vận động trong thế giới khách quan trong một khoảng không gian và thời gian nhất định, là nơi xảy ra vụ việc và nơi phát hiện vụ việc. Hai là, hiện tượng vật chất xảy ra trong không gian hiện trường là vụ việc mang tính bất kỳ, có thể là hành vi phạm tội, có thể là hành vi mang tính hình sự: Cụ thể như hiện trường TNGT là một loại hiện trường vụ việc cụ thể mang tính hình sự, là nơi tồn tại dấu vết, vật chứng, nạn nhân, phương tiện phản ánh sự tác động qua lại giữa người điều khiển phương tiện, phương tiện giao thông đường bộ với nạn nhân và với môi trường trên đường giao thông công cộng. Hành vi vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ có thể là hành vi phạm tội nếu có lỗi và gây ra những thiệt hại nghiêm trọng đã được luật định. Hoặc nó có thể không phải là hành vi phạm tội nếu lỗi thuộc về nạn nhân hay thiệt hại xảy ra không đáng kể. 6
  13. Theo đó, khoa học điều tra hình sự, hiện trường vụ án hình sự được khái niệm dựa vào các đặc điểm, thuộc tính riêng như sau: Hiện trường là nơi chứa đựng dấu vết, vật chứng và những thông tin chứng minh trực tiếp diễn biến của vụ việc. Những thông tin thu thập tại nơi xảy ra và nơi phát hiện vụ việc mang tính hình sự có giá trị giúp các cơ quan chức năng và người cán bộ điều tra làm rõ sự thật khách quan của vụ việc. Hoạt động KNHT được hiểu là hoạt động tố tụng hình sự, là quá trình tổ chức nghiên cứu phát hiện, ghi nhận, thu lượm, bảo quản, đánh giá dấu vết, vật chứng và những tin tức tài liệu có liên quan trực tiếp tại hiện trường, nhằm làm rõ tính chất vụ việc, người thực hiện và các tình tiết khác của vụ việc mang tính hình sự. Như vậy, chúng ta thấy có rất nhiều loại hiện trường: Hiện trường vụ án cố ý gây thương tích, hiện trường vụ án giết người, hiện trường vụ án trộm cắp hay cướp giật tài sản Theo đó, hiện trường TNGT là nơi xảy ra vụ TNGT, đó là địa điểm, phạm vi không gian tồn tại những dấu vết, vật chứng, nạn nhân, phương tiện phản ánh sự tác động qua lại giữa người điều khiển phương tiện, phương tiện giao thông đường bộ với nạn nhân, phương tiện và người điều khiển phương tiện liên quan. Như vậy, chúng ta có thể thấy hiện trường TNGT có những đặc điểm rất cơ bản: - Địa điểm xảy ra TNGT thường có nhiều người và phương tiện tham gia giao thông qua lại ngay tại thời điểm xảy ra tai nạn, nên rất dễ gây ra ùn tắc, khó khăn cho công tác bảo vệ và KNHT. Nắm được đặc điểm này để có những hoạt động thích hợp vừa giải quyết đảm bảo lưu thông, vừa bảo vệ được hiện trường, hạn chế đến mức thấp nhất những thay đổi có thể xảy ra đối với dấu vết, vật chứng. - Hiện trường TNGT dễ bị xáo trộn do sự tác động của hoạt động cấp cứu nạn nhân, cứu chữa tài sản và các hoạt động tham gia giao thông của người và phương tiện. Những hoạt động này ít nhiều đã tác động đến hiện trạng ban đầu như là làm mất đi những dấu vết, vật chứng ở hiện trường; hay làm xuất hiện thêm những phản ánh vật chất không có liên quan đến hiện trường TNGT nhưng rất dễ nhầm lẫn với những dấu vết vật chứng ở hiện trường. Mặt khác, do tính hiếu kỳ, những người tham gia giao thông thường tụ tập đông đúc ngay tại hiện trường. Tất cả những hoạt động này làm cản trở công tác bảo vệ cũng như KNHT. Hiện trường bị thay đổi xáo trộn sẽ gây khó khăn cho việc nghiên cứu phát hiện, khai thác đánh giá dấu vết vật chứng trong quá trình khám nghiệm. Do đó cần chú ý đến đặc điểm 7
  14. này nhằm làm hạn chế đến mức thấp nhất những thay đổi ở hiện trường và phân tích đánh giá các phản ánh vật chất tồn tai ở hiện trường. - Hiện trường TNGT, mà cụ thể là giao thông đường bộ xuất hiện tổng hợp nhiều loại dấu vết hình sự như dấu vết sơn, kính, đất, dấu vết sinh vật, dấu vết cày xước, dấu vết lốp xe . . . Các dấu vết này xuất hiện và tồn tại ở nhiều khu vực khác nhau tại hiện trường như: Ngay tại nơi xảy ra vụ va chạm, trên người nạn nhân, trên phương tiện tham gia giao thông hay trên các vật cản khác có ở hiện trường. Hệ thống những dấu vết này đều có ý nghĩa trong việc điều tra, làm rõ tính chất vụ TNGT, do đó cần phải chú ý phát hiện, thu thập, khai thác đầy đủ dấu vết. - Diễn biến của vụ TNGT xảy ra rất nhanh, người gây tai nạn, nạn nhân, người chứng kiến thường không nắm hết được diễn biến của vụ việc; do đó việc thu thập những phản ánh nhận thức (lời khai) thường rất khó khăn và không đầy đủ. Chính vì vậy, cần có sự so sánh, đối chiếu những nguồn chứng cứ này; đồng thời triệt để phát hiện và khai thác những phản ánh vật chất (dấu vết hình sự) ở hiện trường. Qua việc nghiên cứu những đặc điểm trên có thể thấy rằng hiện trường vụ TNGT đường bộ rất dễ bị tác động bởi nhiều yếu tố từ chủ quan đến khách quan khác nhau. Do đó, việc bảo vệ hiện trường TNGT cần được tiến hành nhanh chóng và khoa học, nhưng cũng phải bảo đảm tính tỷ mỹ và chính xác. Theo đó, hoạt động KNHT cũng có nhiều định nghĩa khác nhau: - Giáo trình “Khoa học KTHS” của Trường Đại học An ninh năm 2001: “KNHT là tổ chức việc nghiên cứu, phát hiện, ghi nhận, thu lượm, bảo quản dấu vết, tang vật và tin tức tài liệu có liên quan trực tiếp tại hiện trường. Nó là công tác nghiệp vụ cấp bách đồng thời là hoạt động tố tụng hình sự nhằm góp phần làm rõ tội phạm” - Giáo trình “KTHS” của Trường Đại học Cảnh sát nhân dân năm 2001: “Công tác KNHT là tổ chức việc nghiên cứu, phát hiện, ghi nhận, thu lượm, bảo quản, đánh giá các dấu vết, vật chứng và những tin tức, tài liệu có liên quan trực tiếp đến hiện trường. Là một công tác nghiệp vụ cấp bách, đồng thời là một hoạt đông tố tụng hình sự nhằm làm rõ sự việc xảy ra có tội phạm hay không có tội phạm. - Theo từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam năm 2005 định nghĩa: “Hoạt động thu thập thông tin liên quan đến vụ, việc tại chính nơi vụ, việc đó xảy ra hoặc nơi phát hiện tội phạm. Đó là quá trình sử dụng các kiến thức khoa học, có sự 8
  15. hỗ trợ của các phương tiện nghiệp vụ nhằm phát hiện, thu thập thông tin, dấu vết, vật chứng để xác định có hay không sự việc phạm tội” Như vậy, ta thấy các định nghĩa đã có sự thống nhất về KNHT. Trên cơ sở phân tích các đặc điểm, thuộc tính của nó, tác giả có thể đưa ra định nghĩa KNHT như sau: - KNHT là hoạt động tố tụng hình sự, là quá trình tổ chức nghiên cứu phát hiện, ghi nhận, thu lượm, bảo quản, đánh giá dấu vết, vật chứng và những tin tức tài liệu có liên quan trực tiếp tại hiện trường, nhằm làm rõ tính chất vụ việc, người thực hiện và các tình tiết khác của vụ việc mang tính hình sự. - KNHT TNGT là một biện pháp điều tra nhằm nghiên cứu, phát hiện, thu thập, bảo quản và khai thác các dấu vết, vật chứng, tin tức liên quan đến vụ TNGT tại hiện trường theo quy định của pháp luật Tố tụng hình sự, nhằm làm rõ diễn biến, nguyên nhân và lỗi của các bên liên quan tai nạn để xử lý đúng người, đúng lỗi vi phạm. - KNHT các vụ TNGT là hoạt động gắn liền với việc xem xét dấu vết trên người nạn nhân, khám nghiệm các phương tiện có liên quan. Nhờ đó, cơ quan điều tra có những căn cứ kết luận diễn biến, nguyên nhân, lỗi của các bên liên quan trong vụ TNGT đường bộ. Quá trình KNHT được xác định từ khi lực lượng khám nghiệm đến hiện trường và tiến hành các biện pháp nghiên cứu hiện trường để thu thập các dấu vết, vật chứng có ý nghĩa đối với hoạt động điều tra tại hiện trường. Quá trình KNHT TNGT đường bộ được thực hiện theo các trình tự, thủ tục luật định. Viện trưởng VKSND tối cao ban hành Chỉ thị số 06/CT-VKSTC ngày 06/12/2013 “Về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm”. Chỉ thị đã đặt ra trách nhiệm cho các KSV toàn ngành kiểm sát trong thực hành quyền công tố giai đoạn điều tra. Đó là, hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát cần phải được thực hiện một cách sớm hơn, ngay từ giai đoạn tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, phạm vi hoạt động phải rộng hơn, toàn diện hơn, gắn chặt hơn với hoạt động điều tra, sâu hơn và có trách nhiệm hơn. Mục đích của việc tăng cường công tố trong hoạt động điều tra nhằm đáp ứng một cách có hiệu quả yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay, triệt để chống bỏ lọt tội phạm và chống làm oan người vô tội. 9
  16. Thông tư liên tịch số 06/2013 ngày 02/08/2013 và đã được thay thế bằng Thông tư liên tịch số 01/2017 ngày 29/12/2017 giữa Bộ Công an, Bộ quốc phòng, Bộ tài chính, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, VKSND tối cao “Hướng dẫn thi hành quy định của BLTTHS về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố”. Thông tư quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn cũng như trách nhiệm của các cơ quan, cá nhân có liên quan trong việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố, trong đó có tội phạm xâm phạm trật tự, an toàn giao thông. Quy chế công tác kiểm sát việc KNHT, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra việc tiến hành giám định (Ban hành kèm theo Quyết định số 421/QĐ- VKSTC ngày 17/11/2014 của Viện trưởng VKSND tối cao) được thay thế bằng Quy chế tạm thời công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc KNHT, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra và giám định (Ban hành kèm theo Quyết định số 170/QĐ-VKSTC ngày 02 tháng 5 năm 2018 của Viện trưởng VKSND tối cao) và đến nay thay thế bằng Quy chế công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố (Ban hành kèm theo Quyết định số 111/QĐ-VKSTC ngày 17/4/2020 của Viện trưởng VKSND tối cao) chỉ rõ mục đích, nhiệm vụ quyền hạn cũng như quy trình kiểm sát việc KNHT, khám nghiệm tử thi của KSV. VKSND các cấp đã tích cực, chủ động phối hợp chặt chẽ với cơ quan điều tra trong việc giải quyết các vụ án giao thông. Ngay từ khi nhận được tin báo về TNGT, các KSV đã tích cực cùng với ĐTV có mặt tại hiện trường để KNHT, khám nghiệm tử thi (nếu có), khám nghiệm và thu giữ phương tiện giao thông gây tai nạn. Quá trình điều tra luôn được kiểm sát chặt chẽ, vạch ra yêu cầu điều tra đầy đủ, đúng đắn, phối hợp với cơ quan điều tra trong việc điều tra các vụ án phức tạp, gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, giải quyết vụ án đúng quy định của pháp luật và trong thời hạn luật định. Với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, kiểm sát điều tra nói chung và KSKNHT nói riêng là hoạt động thường xuyên và quan trọng nhằm đảm bảo việc tuân theo pháp luật của các chủ thể liên quan thuộc đối tượng kiểm sát. Từ chức năng và nhiệm vụ của Ngành kiểm sát, có thể định nghĩa về hoạt động kiểm sát việc KNHT các vụ án TNGT như sau: 10
  17. Là hoạt động của KSV, kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các thành viên HĐKN bao gồm: ĐTV, Giám định viên, Kỹ thuật viên, Bác sỹ pháp y và những người có liên quan đến việc KNHT như người làm chứng, người chứng kiến, người bị hại, người gây tai nạn, lực lượng bảo vệ hiện trường nhằm bảo đảm cho việc KNHT được thực hiện đúng quy định của pháp luật, bảo đảm phát hiện, ghi nhận, thu thập, bảo quản đầy đủ các dấu vết, vật chứng có trên hiện trường phục vụ cho công tác điều tra, nghiên cứu, xác định có hay không có hành vi phạm tội xảy ra, ai là người thực hiện hành vi đó. 1.1.1.2. Đặc điểm của kiểm sát khám nghiệm hiện trường tai nạn giao thông Xuất phát từ đặc điểm: TNGT là sự việc xảy ra với lỗi vô ý khi các đối tượng tham gia giao thông đang hoạt động trên đường giao thông hoặc các địa bàn giao thông công cộng nhưng do chủ quan vi phạm các quy tắc an toàn giao thông hoặc do gặp phải các tình huống, sự cố đột xuất không kịp phòng tránh đã gây ra những thiệt hại nhất định về người và tài sản cho xã hội. Do đó, đặc điểm của TNGT là xảy ra bất ngờ, diễn biến nhanh, chớp nhoáng, dẫn đến sự ghi nhớ của những người có liên quan đến các vụ án TNGT, người biết sự việc rất hạn chế; thậm chí những người có liên quan hoặc ở gần ngay địa điểm tai nạn đã không nhận thức được tai nạn xảy ra như thế nào. Đặc điểm này có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình lấy lời khai của những người có liên quan đến vụ tai nạn, bởi vì họ không có điều kiện để nhận thức đầy đủ quá trình diễn ra vụ việc (nhận thức không chủ định). Do vậy, trong quá trình lấy lời khai cần xác định rõ họ biết sự việc xảy ra như thế nào? họ có thể cung cấp những thông tin gì về vụ việc? tại sao họ nhận thức được điều đó?. Các vụ án TNGT xảy ra ở trên đường giao thông hoặc địa bàn giao thông công cộng, do thời tiết (mưa, bão, nắng ), do phương tiện giao thông đi lại, do tâm lý hiếu kỳ của người tham gia giao thông, của người dân hai bên đường đến xem làm thay đổi hiện trường, xoá dấu vết hoặc gây ùn tắc giao thông. Một số trường hợp do bị kích động đã dẫn tới gây rối trật tự công cộng hoặc những phần tử cơ hội lợi dụng vụ tai nạn để chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, của tập thể và của công dân liên quan tới tai nạn. Những người biết sự việc trong vụ án TNGT, do nhiều lý do khác nhau họ không thể ở lâu tại hiện trường, để cung cấp những thông tin mà họ biết về vụ 11
  18. TNGT cho cơ quan điều tra. Do vậy, CSGT cần phải nhanh chóng xác định những người biết sự việc, để sơ vấn nhằm thu thập các thông tin cần thiết phục vụ cho quá trình điều tra khám phá. Lỗi của người gây ra trong vụ án TNGT đường bộ thường là lỗi vô ý (vô ý do quá tự tin hoặc vô ý do cẩu thả), do vi phạm các quy định về trật tự an toàn giao thông, vì sợ trách nhiệm hình sự họ thường che giấu hành vi vi phạm, tìm cách đổ lỗi cho người khác hoặc đổ lỗi cho khách quan, trốn tránh sự điều tra của cơ quan Công an hoặc gây gỗ, đòi tự xử lẫn nhau, gây khó khăn cho công tác điều tra. Mặt khác, người gây ra tai nạn thường tìm đến người bị hại, người đại diện hợp pháp của người bị hại để thoả thuận với nhau về trách nhiệm, mức độ bồi thường thiệt hại (vấn đề trách nhiệm dân sự) và xin người bị hại, người đại diện hợp pháp của người bị hại viết đơn xin miễm truy cứu trách nhiệm hình sự cho người gây ra. Do vậy, người bị hại, người đại diện hợp pháp của người bị hại thường viết đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho người gây ra tai nạn, mục đích là thoả thuận số tiền đền bù dân sự, để giải quyết những khó khăn tạm thời cho người bị hại. Đây cũng là vấn đề cần phải nghiên cứu và giải quyết trong việc thi hành án hiện nay. Hậu quả do vụ án TNGT gây ra thiệt hại cho sức khoẻ của nạn nhân thường bị biến đổi, nạn nhân bị thương đang trong quá trình điều trị do tác động của vết thương, của các bệnh khác hoặc do can thiệp sai của y tế, của việc chăm sóc nạn nhân mà đã xảy ra từ bị thương nhẹ thành bị thương nặng hoặc tử vong. Điều này dẫn đến thay đổi chủ thể điều tra và quan hệ phối hợp trong hoạt động điều tra. Song hiện nay chưa quy định thời gian nạn nhân chết sau khi bị tai nạn là bao nhiêu được coi là chết do TNGT; hoặc sau bao nhiêu ngày phải có kết luận giám định thiệt hại sức khoẻ cho nạn nhân sau khi bị TNGT. Đây cũng là một vấn đề gây khó khăn cho quá trình tổ chức hoạt động điều tra và thực hiện mối quan hệ phối hợp trong quá trình điều tra của CSGT và CSĐT. Bởi các lẽ trên, với vai trò kiểm sát toàn bộ quá trình KNHT TNGT, hoạt động KSKNHT có những đặc điểm cơ bản sau đây: - Thực hiện kiểm sát một cách kịp thời sau khi vụ TNGT xảy ra: Xuất phát từ thực tế hiện trường TNGT thường để lại trên các tuyến đường, địa bàn giao thông công cộng. Đây là những nơi có nhiều người, phương tiện qua lại nên dễ bị mất dấu vết, vật chứng; hiện trường dễ bị xáo trộn. Các vụ tai nạn thường gây cản trở, ùn tắc 12
  19. giao thông, người biết sự việc thường không ở lại lâu nơi xáy ra tai nạn Vì vậy, khi phát hiện hoặc nhận được tin háo có vụ TNGT xảy ra, KSV phải nhanh chóng, kịp thời có mặt tại hiện trường vụ TNGT để kiểm sát các hoạt động của HĐKN và đưa ra yêu cầu, kiến nghị kịp thời khi phát hiện có vi phạm, thiếu sót. - Quá trình kiểm sát khám nghiệm phải bảo đảm tính tỷ mỹ, chính xác: Hoạt động KNHT là để làm rõ diễn biến, nguyên nhân cũng như bản chất của vụ việc, chứng minh rõ lỗi của các bên có liên quan để xử lý công minh trước pháp luật. Do đó, KSV trực tiếp tiến hành việc kiểm sát phải hết sức thận trọng, tỷ mỹ, khoa học, chính xác và không cho phép HĐKN được bỏ sót bất kỳ chi tiết nào dù là nhỏ nhất. Để xác định đúng người, đúng lỗi vi phạm trong vụ TNGT đòi hỏi quá trình kiểm sát phải được tiến hành một cách tỷ mỹ, chính xác trong tất cả quá trinh tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ. - Quá trình kiểm sát phải bảo đảm tính khách quan, toàn diện: Tôn trọng thực tế khách quan là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động điều tra nói chung và điều tra, xử lý vụ TNGT nói riêng nhằm đảm bảo được tính công bằng của pháp luật. Ngoài ra, phải tổng hợp đầy đủ các tài liệu, dấu vết, vật chứng mới đủ cơ sở xác định diễn biến, nguyên nhân, đủ căn cứ quy kết lỗi cùa các bên có liên quan đến vụ tai nạn. KSV phải yêu cầu và phối hợp với các chủ thể tiến hành khám nghiệm nghiên cứu tổng hợp đánh giá toàn bộ hồ sơ vụ án, phân tích cụ thể từng chi tiết, dấu vết, vật chứng, người biết sự việc để có đủ căn cứ nhận định và kết luận về nguyên nhân, diễn biến của vụ tai nạn. Nếu phát hiện mâu thuẫn, KSV phải yêu cầu điều tra làm rõ theo đúng các quy luật khách quan, tuyệt đối không được dựa vào ý chí chủ quan để đánh giá vấn đề. Đặc biệt, đòi hỏi những người có thẩm quyền phải có đức tính trung thực không được tuỳ tiện hoặc vì mưu cầu lợi ích cá nhân để làm sai lệch dấu vết vật chứng (đặc biệt là trong khâu khám nghiệm, đo vẽ hiện trường) để đảm bảo tính khách quan của quy luật hình thành dấu vết và toàn bộ diễn biến vụ tai nạn. - Quá trình kiểm sát cần tuân thủ đúng quy định của pháp luật: Quá trình KSKNHT TNGT phải tuân thủ theo các quy định cùa pháp luật (BLHS, BLTTHS, Luật Giao thông đường bộ ). Yêu cầu HĐKN phát hiện, thu thập tài liệu, vật chứng liên quan đến vụ TNGT phải đúng quy định của pháp luật, đảm bảo giá trị pháp lý để xử lý vụ tai nạn, xử lý người phạm tội trước pháp luật, góp phần nâng cao pháp chế xã hội chủ nghĩa. 13