Luận văn Kiểm sát hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Kiểm sát hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_kiem_sat_hoat_dong_thu_thap_danh_gia_chung_cu_trong.pdf
Nội dung text: Luận văn Kiểm sát hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐÀO THỊ QUỲNH MAI KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG THU THẬP, ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH HƯNG YÊN Chuyên ngành : Luật Hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60. 38. 01. 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn HÀ NỘI, 2016
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam kết luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của tôi. Các tài liệu, tư liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn dẫn rõ ràng, các kết quả nghiên cứu là quá trình lao động trung thực của tôi. Hà Nội, Ngày 25 tháng 07 năm 2016 TÁC GIẢ LUẬN VĂN Đào Thị Quỳnh Mai
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG THU THẬP, ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ 7 1.1. Khái niệm, đặc điểm kiểm sát hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự 7 1.2. Phạm vi và nội dung kiểm sát hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự 15 1.3. Yêu cầu đối với công tác kiểm sát hoạt động thu thập vàđánh giá chứng cứ 18 Chương 2: THỰC TRẠNG KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG THU THẬP, ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH HƯNG YÊN 22 2.1. Các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Hưng Yên có ảnh hưởng đến việc kiểm sát hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự 22 2.2. Tình hình kiểm sát hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên 26 Chương 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG THU THẬP, ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ 52 3.1. Phương hướng nhiệm vụ bảo đảm hoạt động kiểm sát việc thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp 52 3.2. Giải pháp tăng cường các biện pháp bảo đảm triển khai thực hiện Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 56 3.3. Các giải pháp khác 69 KẾT LUẬN 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 78
- DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT Cơ quan điều tra ĐTV Điều tra viên HĐXX Hội đồng xét xử KSND Kiểm sát nhân dân KSV Kiểm sát viên KNHT Khám nghiệm hiện trường KNTT Khám nghiệm tử thi KSĐT Kiểm sát điều tra KTBC Khởi tố bị can KTVA Khởi tố vụ án QCT Quyền công tố QCKSĐT Qui chế kiểm sát điều tra TAND Tòa án nhân dân THQCT Thực hành quyền công tố TTHS Tố tụng hình sự VAHS Vụ án hình sự VKSND Viện Kiểm sát nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa
- DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1. Công tác kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của VKS tỉnh 27 Hưng Yên (kết quả giải quyết của CQĐT) Bảng 2.2. Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các 27 vụ án hình sự của VKS tỉnh Hưng Yên (kết quả của VKS) DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 2.1. Kết quả giải quyết án hình sự của Viện kiểm sát tỉnh Hưngg 28 Yên.
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong TTHS nước ta, giai đoạn điều tra vụ án hình sự có vai trò rất quan trọng đối với cả tiến trình giải quyết vụ án hình sự. Kết quả của giai đoạn điều tra vụ án hình sự đóng vai trò quyết định đối với chất lượng, hiệu quả của hoạt động buộc tội và là cơ sở, nền tảng để các chức năng TTHS khác trong các giai đoạn tố tụng tiếp theo được tiến hành. Giai đoạn điều tra vụ án hình sự với hoạt động tố tụng chủ đạo là hoạt động của Cơ quan điều tra, được đánh giá là giai đoạn tố tụng tiềm ẩn nhiều nhất nguy cơ sai sót, vi phạm pháp luật, kể cả những sai sót, vi phạm pháp luật nghiêm trọng dẫn đến việc truy cứu TNHS oan, sai. Trong giai đoạn này một loạt các hoạt động cụ thể phải được tiến hành theo trình tự, thủ tục luật định nhằm chứng minh tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội. Đó là những hoạt động thu thập vật chứng, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, lấy lời khai người biết sự việc phạm tội, người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, hỏi cung bị can, đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói, thực nghiệm điều tra, trưng cầu giám định và giám định, định giá tài sản, Để những quy định trên được tiến hành đúng trình tự, thủ tục theo quy định của BLTTHS, VKSND có thẩm quyền và trách nhiệm chỉ đạo và yêu cầu Cơ quan điều tra phải thực hiện. Đó là chức năng Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ vụ án hình sự.Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra là một trong những công tác thực hiện chức năng của VKSND và đối tượng của hoạt động này là việc tuân theo pháp luật của Cơ quan điều tra, các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, cũng như những người tiến hành tham gia tố tụng trong quá trình khởi tố, điều tra vụ án hình sự để đảm bảo sự tuân thủ pháp luật trong suốt quá trình điều tra vụ án; đảm bảo mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện, xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và làm oan người vô tội. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ của CQĐT là một bộ phận của công tác kiểm sát điều tra của VKSND. Theo qui định của pháp luật, hoạt động thu thập chứng cứ trong giai đoạn điều tra vẫn chủ yếu thuộc về trách nhiệm của Cơ quan điều tra. Tuy nhiên, là Cơ quan công tố, Viện kiểm sát phải sử dụng các quyền năng cho phép theo qui định 1
- của pháp luật để yêu cầu CQĐT tiến hành thu thập, đánh giá chứng cứ một cách kịp thời, đầy đủ và chính xác, phục vụ cho việc chứng minh tội phạm, đồng thời cũng là căn cứ vững chắc để VKS xét phê chuẩn các Lệnh, quyết định của CQĐT đề nghị. Do đó, VKSND là cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra, nên có vai trò quan trọng trong việc kiểm sát hoạt động thu thập và đánh giá chứng cứ; kiểm tra, giám sát xuyên suốt quá trình thụ lý, điều tra vụ án hình sự; góp phần bảo đảm việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm đúng đắn, không bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội. Trong hoạt động thực tiễn về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật về thu thập, đánh giá chứng cứ của CQĐT, KSV gặp rất nhiều vướng mắc do những bất cập quy định của luật nên dẫn đến những vụ án trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử phải đình chỉ, bị tuyên huỷ để điều tra lại, hoặc tuyên không phạm tội. Năm 2015 BLTTHS ra đời đã thực sự khắc phục được phần lớn những hạn chế, tồn tại của BLTTHS năm 2003 về những quy định liên quan đến chứng cứ, thu thập, đánh giá chứng cứ cũng như sự tham gia của VKS trong hoạt động này, tuy nhiên BLTTHS năm 2015 cũng còn một số vấn đề chưa được giải quyết triệt để đồng thời đến nay cũng chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện các quy định trong bộ luật này. Mặt khác, những hệ quả trên không chỉ xuất phát từ nguyên nhân những bất hợp lý các qui định của luật, mà chủ yếu là do chúng ta thiếu và yếu về chứng cứ buộc tội, chứng minh tội phạm do CQĐT đã thu thập làm căn cứ khởi tố, điều tra và đề nghị truy tố. Trong phạm vi chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, thực tiễn cho thấy, còn có trường hợp KSV đã không tham gia giám sát vụ án ngay từ khi nhận được tin báo, tố giác , không kiểm sát chặt chẽ, xem xét kỹ lưỡng; chỉ đạo sát sao, yêu cầu CQĐT thực hiện những công việc cần thiết về thu thập, củng cố chứng cứ trước khi phê chuẩn các Lệnh, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra. Với sự ra đời của Hiến pháp năm 2013, quyền con người và quyền cá nhân, quyền của người bị buộc tội ngày càng được coi trọng và bảo đảm thực hiện tốt hơn. Đồng thời, hiện nay chúng ta đang tiến hành sự nghiệp xây dựng Nhà nước Pháp quyền trong xu thế toàn cầu hoá hội nhập với cộng đồng quốc tế thì cần phải đẩy mạnh cải cách tư pháp nhằm đảm bảo quyền của mọi công dân trong xã hội, đảm bảo quyền bị can, bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, đảm 2
- bảo và mở rộng quyền tham gia bào chữa, quyền tranh tụng của người bào chữa, luật sư. Vì vậy, vấn đề đặt ra yêu cầu KSV của VKSND ngày càng phải thận trọng hơn, chặt chẽ hơn, nâng cao tính thần trách nhiệm hơn nữa khi thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân thủ pháp luật đối với hoạt động điều tra nói chung và hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ nói riêng. Nhằm góp một phần vào việc xác định chức năng của Viện kiểm sát nhân dân, nhiệm vụ và vai trò của Kiểm sát viên trong hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ vụ án hình sự theo tiến trình cải cách tư pháp, tác giả lựa chọn đề tài “Kiểm sát hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên” làm đề tài luận văn thạc sỹ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Liên quan đến đề tài, từ trước đến nay có một số công trình nghiên cứu, một số tác phẩm, các bài báo viết trên các tạp chí về chứng cứ trong tố tụng hình sự. Tiêu biểu có các cuốn: “Giáo trình các cơ quan bảo vệ pháp luật”, “Luật học so sánh”, “ Lý luận chung về tội danh” của GS.TS Võ Khánh Vinh, “Chế định chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam” của Tiến sỹ Trần Quang Tiệp, “Chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả - thạc sỹ Nguyễn Văn Cừ, “Chứng cứ và chứng minh trong vụ án hình sự” của tiến sỹ Đỗ Văn Đương; hoặc những bài viết của một số tác giả được đăng trên các tạp chí chuyên ngành như: “Nguyên tắc thu thập, đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự Việt Nam” của Tiến sỹ Đỗ Văn Đương. Tuy nhiên, chưa có một công trình và tác giả nào đề cập đến chức năng Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND trong hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ vụ án hình sự. Do vậy, cần phải tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống để làm sáng tỏ chức năng của VKSND và vai trò của Kiểm sát viên trong hoạt động kiểm sát việc thu thập, đánh giá chứng cứ vụ án hình sự. Từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật về vai trò của KSV, về chức năng, hệ thống tổ chức và hoạt động của Viện KSND, nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát việc thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là lý luận cơ bản về kiểm sát hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ; những qui định của pháp luật đối với hoạt động kiểm 3
- sát việc thu thập, đánh giá chứng cứtrong điều tra vụ án hình sự và thực trạng thực hiện các hoạt động này trên địa bàn tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Hoạt động thu thập và đánh giá chứng cứ vụ án hình sự là hoạt động xuyên suốt trong quá điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, của những cơ quan có thẩm quyền và những người tham gia tố tụng khác theo qui định của pháp luật. Trong phạm vi đề tài này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu việc kiểm sát hoạt động thu thập, đánh giá chứng của Cơ quan điều tra trong giai đoạn từ khi khởi tố vụ án hình sự đến khi kết thúc điều tra và một số hoạt động khác theo quy định của pháp luật.Luận văn không nghiên cứu kiểm sát hoạt động thu thập, đánh giá chứng của các cơ quan khác có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra cũng như chủ thể khác. Tác giả chỉ tập trung làm rõ thực trạng kiểm sát việc thu thập, đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự theo quy định của BLTTHS năm 2003 trên địa bàn tỉnh Hưng Yên trong 05 năm, từ năm 2011 đến năm 2015. Trong bối cảnh BLTTHS năm 2015 đã được ban hành, nhưng theo Nghị quyết 144/2015,QH13 về việc lùi hiệu lực thi hành của BLTTHSsố 101/2015/QH13 từ ngày 1 tháng 7 năm 2016 đến ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 có hiệu lực thi hành, luận văn này ngoài việc phân tíchquy định về kiểm sát việc thu thập, đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án hình trong BLTTHS năm 2003 tác giả còn đối chiếu với BLTTHS năm 2015 và chỉ ra những điểm đã được khắc phục. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1 Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu có hệ thống lý luận và thực trạng kiểm sát hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, luận văn đưa ra những giải pháp tăng cường và triển khai thực hiện tốt hơn nữa công tác kiểm sát hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu những nhiệm vụ sau: - Làm rõ những vấn đề lý luận về kiểm sát hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự. Chức năng của VKSND và kiểm sát việc thu 4
- thập, đánh giá chứng cứ để thấy được vai trò quan trọng của Viện kiểm sát đối với việc giải quyết vụ án hình sự, đặc biệt trong giai đoạn cải cách tư pháp về việc nâng cao công tác kiểm sát. - Phân tích đánh giá đúng thực trạng kiểm sát hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên. -Xác định nguyên nhân của những vướng mắc khi tiến hành kiểm sát hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự làm cơ sở đưa ra giải pháp. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận của việc nghiên cứu luận văn là phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về việc xây dựng hệ thống tổ chức hoạt động và chức năng của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự nói chung và trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói riêng. - Ngoài phương pháp nêu trên, trong quá trình thực hiện đề tài tác giả còn sử dụng phương pháp nghiên cứu phân tích, chứng minh, tổng hợp, hệ thống, đối chiếu, so sánh, thống kê để giải quyết vấn đề đặt ra. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn góp phần bổ sung những vấn đề lý luận về kiểm sát hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự; Kết quả nghiên cứu của luận văn không chỉ có ý nghĩa đối với việc kiểm tra, nghiên cứu hồ sơ vụ án của KSV trong quá trình thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ vụ án hình sự để chỉ đạo, kết hợp với Cơ quan điều tra xử lý và giải quyết vụ án hình sự mà còn có ý nghĩa tham khảo đối với công tác học tập, giảng dạy và nghiên cứu liên quan đến vấn đề này; Với những điểm mới liên quan đến chức năng kiểm sát điều tra và vai trò KSV của VKSND về hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ vụ án hình sự trong điều kiện đẩy mạnh cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay, đòi hỏi các cơ quan tư pháp nói chung và VKSND nói riêng phải kiên quyết hơn nữa trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm; Những kinh nghiệm, những vướng mắc và biện pháp khắc phục từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên giúp cho KSV các cấp ở HưngYên thực hiện tốt chức năng kiểm sát 5
- việc tuân theo pháp luật trong hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ vụ án hình sự nhằm đảm bảo cho việc khởi tố, điều tra và phê chuẩn các quyết định của CQĐT đúng người, đúng tội, không làm oan người vô tội; hạn chế những sai phạm trong quá trình kiểm sát điều tra hiện nay. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương: Chương 1: Lý luận về kiểm sát hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự Chương 2:Thực trạng kiểm sát hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên Chương 3: Giải pháp tăng cường bảo đảm kiểm sát hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự 6
- Chương 1 LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG THU THẬP, ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm kiểm sát hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam thì điều tra là hoạt động tố tụng nhằm làm rõ tội phạm và người phạm tội, chứng minh mọi tình tiết khách quan của vụ án, hướng tới mục đích mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng theo đúng pháp luật. Để bảo đảm mọi hoạt động điều tra được thực hiện theo đúng qui định của pháp luật, một cơ chế giám sát được hình thành; đó là, Nhà nước giao cho Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật đối với các hoạt động tư pháp, trong đó có hoạt động điều tra vụ án hình sự. Kiểm sát hoạt động điều tra các vụ án hình sự có vai trò, ý nghĩa quan trọng trong hoạt động tố tụng. Công tác kiểm sát hoạt động điều tra được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật sẽ giúp cho Cơ quan điều tra hoạt động đúng hướng, các quyết định khởi tố bị can được đảm bảo đúng người, đúng tội, các hoạt động điều tra được thực hiện đầy đủ, chính xác và kịp thời theo đúng quy định của pháp luật. Kết quả điều tra vụ án hình sự phụ thuộc vào hoạt động điều tra và công tác kiểm sát hoạt động điều tra; là điều kiện tiên quyết, thiết thực, kết quả điều tra là cơ sở để Viện kiểm sát quyết định việc truy tố, nhằm đảm bảo mọi tội phạm đều phải được phát hiện xử lý nhanh chóng kịp thời, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh oan, sai và bỏ lọt tội phạm, tăng cường đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, luận văn này không có điều kiện xem xét việc kiểm sát tất cả các hoạt động điều tra mà chỉ tập trung vào nghiên cứu chức năng kiểm sát hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn này. 7
- 1.1.1. Khái niệm kiểm sát hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự Từ khi ra đời, Nhà nước ta đứng trước những yêu cầu của quá trình xây dựng, củng cố đất nước, trong đó việc tuân thủ pháp luật của của các cơ quan nhà nước và mọi công dân là một trong những yêu cầu cấp bách. Để đáp ứng được yêu cầu đó cần tổ chức thành lập một cơ quan có chức năng kiểm tra, giám sát các hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan Nhà nước và mọi công dân nhằm bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Lênin là người đầu tiên có quan điểm về tổ chức cơ quan kiểm tra, giám sát, quan điểm đó được thể hiện trong tác phẩm bàn về "Song trùng, trực thuộc và pháp chế". Vận dụng tư tưởng của Lênin vào thực tiễn xây dựng, tổ chức bộ máy Nhà nước ta, Đảng và Nhà nước đã nhận định rằng, để đảm bảo cho pháp luật do Nhà nước ban hành được thực hiện một cách nghiêm minh và thống nhất thì việc tổ chức một cơ quan có chức năng kiểm tra và giám sát hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước và công dân là một đòi hỏi mang tính tất yếu khách quan nên đã quyết định thành lập cơ quan VKS. Quan điểm trên đã được thể chế hóa trong các hiến pháp từ Hiến pháp năm 1959 đến Hiến pháp 2013. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) trong đó có sự điều chỉnh chức năng của cơ quan VKS với quy định "Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật" [20, Điều 137]. Hiến pháp năm 2013 quy định: "Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp" [21 Điều 107]. Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã cụ thể hóa quy định trên với nội dung Viện kiểm sát thực hiện chủ yếu hai chức năng đó là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Những quy định trên đã đưa ra tiền đề cho việc nghiên cứu làm rõ chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát. Với quy định tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013 (sửa đổi) và Điều 1 Luật tổ chức VKSND năm 2014 thì chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp được coi là vấn đề căn bản xuyên suốt toàn bộ hoạt động của hệ thống cơ quan VKS, đồng thời thể hiện bản chất trong hoạt động của VKS nước ta. Thuật ngữ "kiểm sát các hoạt động tư pháp" được xuất hiện trong các văn kiện của Đảng như Nghị quyết đại hội 8
- Đảng lần thứ IX, X, Nghị quyết số 08 ngày 02/1/2002 của Bộ chính trị và đặc biệt được quy định tại Điều 137 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi), Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức VKSND năm 2014. Tuy nhiên, các nhà lập pháp nước ta chưa đưa ra một định nghĩa pháp lý chung nhất về "kiểm sát các hoạt động tư pháp" nên dẫn đến nhiều quan điểm nhận thức khác nhau về khái niệm này. Xung quanh khái niệm kiểm sát các hoạt động tư pháp đang còn có nhiều quan điểm khác nhau, tựu chung lại có ba nhóm quan điểm sau: Nhóm quan điểm thứ nhất cho rằng, "kiểm sát các hoạt động tư pháp chỉ bao gồm nội dung kiểm sát các hoạt động tố tụng như điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án". Nhóm quan điểm thứ hai cho rằng, "kiểm sát các hoạt động tư pháp bao gồm việc kiểm sát hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử (cả các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính) và phần "tư pháp" trong thi hành án". Nhóm quan điểm thứ ba cho rằng: Hoạt động tư pháp là một dạng hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước và cũng phải chịu sự giám sát từ bên ngoài cũng như từ bên trong hệ thống tư pháp, chịu sự giám sát Nhà nước và giám sát xã hội. Theo nghĩa rộng, kiểm sát hoạt động tư pháp cũng được hiểu là giám sát tư pháp, là một bộ phận, một lĩnh vực của hoạt động giám sát Nhà nước trong lĩnh vực tư pháp. Còn theo nghĩa hẹp thì kiểm sát hoạt động tư pháp được hiểu là chức năng của Viện kiểm sát. Phạm vi kiểm sát tư pháp là việc chấp hành pháp luật trong hoạt động điều tra, xét xử các vụ án hình sự, giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật. Mục đích của của kiểm sát hoạt động tư pháp là bảo đảm cho pháp luật được áp dụng thống nhất trong giải quyết các vụ án trên cơ sở tuân thủ nghiêm chỉnh thủ tục tố tụng mà pháp luật quy định. Mỗi quan điểm trên đây đều có những lập luận đúng của mình về khái niệm "kiểm sát các hoạt động tư pháp". Theo quan điểm của chúng tôi, trước hết cần phải khẳng định kiểm sát các hoạt động tư pháp là chức năng hiến định của VKS. Kiểm sát các hoạt động tư pháp là một dạng giám sát Nhà nước về tư pháp, đây là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước. Tuy nhiên, khác với hoạt động giám sát Nhà 9
- nước nói chung về tư pháp, kiểm sát các hoạt động tư pháp là sự giám sát trực tiếp các hoạt động cụ thể của các cơ quan tư pháp trong quá trình tố tụng với mục đích là nhằm đảm bảo cho pháp luật được áp dụng nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình giải quyết các vụ án. Bản chất pháp lý của chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự là kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp trong hành vi của các chủ thể bị kiểm sát. Như vậy, kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự là chức năng hiến định của VKS, có nội dung là giám sát trực tiếp các hoạt động của các cơ quan tư pháp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, nhằm bảo đảm cho pháp luật tố tụng hình sự được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, thống nhất. Theo đó, kiểm sát điều tra là một hình thức KSHĐTP và là một nhiệm vụ, đồng thời cũng là chức năng của VKS. Kiểm sát các hoạt động điều tra là khái niệm đã được đề cập từ năm 1960, ngay từ khi VKS được thành lập. Theo quy định của pháp luật thì trong giai đoạn điều tra, chủ thể duy nhất của hoạt động KSĐT là VKS. Mặc dù cùng có chung mục đích là bảo đảm pháp chế trong giải quyết các vụ án hình sự nhưng mỗi công tác của VKS ứng với mỗi giai đoạn TTHS nhất định, có đối tượng, phạm vi, nội dung riêng, cho nên để có nhận thức khoa học, đúng đắn về hoạt động KSĐT cần phải làm rõ từng yếu tố cơ bản của nó. Điều đầu tiên phải xác định KSĐT là một bộ phận của KSHĐTP, đó chính là hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra vụ án hình sự. Với tính chất là một chức năng của VKS, KSĐT có bản chất pháp lý là kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của các hoạt động tố tụng tố tụng hình sự được thực hiện bởi CQĐT, cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra và những người tham gia tố tụng trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nhằm bảo đảm việc khởi tố, điều tra đúng người đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm đồng thời cũng không làm oan cho người vô tội. Điều này được quy định rất cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát điều tra vụ án hình sự tại Điều 166 BLTTHS năm 2015, trong đó VKS thực hiện việc kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn của CQĐT đồng thời VKS cũng thực hiện hoạt động kiểm sát việc thu thập, đánh giá chứng cứ của CQĐT và những người tham gia tố tụng khác trong giai đoạn này. 10
- Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một khái niệm cụ thể nào về thu thập chứng cứ. Trong nghiên cứu, tồn tại nhiều quan điểm khác nhau như: Thu thập chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự là quá trình phát hiện, ghi nhận thu giữ, và bảo quản chứng cứ do ĐTV và những người theo luật định tiến hành bằng các phương pháp, biện pháp và phương tiện phù hợp với pháp luật, không trái pháp luật [9, tr. 50]; Thu thập chứng cứ là phát hiện, thu giữ sự kiện chứng minh; nói cách khác là phát hiện thu giữ những thông tin có ý nghĩa chứng minh tội phạm [24, tr. 7]. Những thông tin này tồn tại trong các nguồn tài liệu, được phản ánh từ các nguồn chứng cứ. Chúng tôi cũng đồng ý với khái niệm trên, bởi vì hiểu theo nghĩa này thì việc thu thập chứng cứ không chỉ là phát hiện thu giữ nguồn (vật chứng, lời khai ) mà sau khi có nguồn chứng cứ phải biết cách khai thác thông tin tồn tại trong nguồn đó. Ngoài việc phát hiện thu giữ nguồn, thu thập chứng cứ còn bao gồm cả việc phát hiện thu giữ các sự kiện chứng minh. Sự kiện chứng minh ở đây được hiểu là những thông tin có giá trị chứng minh tội phạm, là sự kiện thực tế có liên quan đến vụ án. Đánh giá chứng cứ là hoạt động tư duy của ĐTV, KSV và Tòa án được tiến hành dưới dạng lôgic biện chứng, trên cơ sở pháp luật hình sự, pháp luật và niềm tin nội tâm, nhằm nghiên cứu, đánh giá độ tin cậy và giá trị của từng chứng cứ riêng biệt cũng như tổng hợp các chứng cứ trong vụ án hình sự. Đánh giá chứng cứ được hiểu là kết quả của việc kiểm tra nó để thừa nhận sự tồn tại của sự kiện do chứng cứ đó xác định [53, tr. 403]. Khi diễn đạt nội dung khái niệm đánh giá chứng cứ, có tác giả còn cụ thể khái niệm dưới dạng mục đích. Đánh giá chứng cứ nhằm xác định: Việc sử dụng một chứng cứ nào đó vào vụ án có được hay không, việc sử dụng đó có gì mâu thuẫn với pháp luật và các nguyên tắc chứng minh hay không; chứng cứ này có nằm trong tổng hợp chứng cứ của vụ án hay không; chứng cứ này có liên quan gì đến các chứng cứ khác trong vụ án, tính chất và ý nghĩa của mối liên hệ ấy như thế nào; chứng cứ này cũng như toàn bộ chứng cứ có giá trị như thế nào đối với 11
- việc xác định chân lý, nó đã đủ cơ sở để ra quyết định này hay quyết định khác về mặt tố tụng chưa; chứng cứ này phải được tiếp tục sử dụng như thế nào trong vụ án. Để có thể chỉ ra đúng nội dung bản chất của việc đánh giá chứng cứ cần phải chú ý đến sự khác nhau và mối quan hệ của từng chứng cứ riêng lẻ và toàn bộ chứng cứ của vụ án; giữa chứng cứ và đối tượng chứng minh. Sẽ rất khó lý giải đầy đủ về quá trình đánh giá chứng cứ nếu không phân biệt sự khác nhau (về đặc điểm, mục đích yêu cầu, cơ sở) giữa việc đánh giá từng chứng cứ và đánh giá tổng hợp toàn bộ hệ thống chứng cứ trong vụ án. Kết luận cần phải rút ra khi đánh giá từng chứng cứ là mức độ chính xác, giá trị chứng minh và giá trị pháp lý của chứng cứ. Vấn đề đầu tiên phải xác định khi đánh giá từng chứng cứ là kết luận về tính chính xác, tính khách quan của chứng cứ. Đây là vấn đề có tính tiên quyết trong khâu đánh giá chứng cứ vì nếu không kết luận được mức độ xác thực của chứng cứ thì không thể nói tới giá trị chứng minh của nó. Sau khi đã xác định được tính chính xác của chứng cứ, vấn đề tiếp theo phải kết luận là giá trị chứng minh của từng chứng cứ riêng lẻ (riêng biệt) [24. tr,154] xác định (đánh giá) giá trị chứng minh của từng chứng cứ riêng lẻ tức là xác định xem chứng cứ đó có khả năng làm rõ được tình tiết nào trong vụ án. Tuy vậy, nhiều khi chứng cứ riêng lẻ có thể làm rõ được một vấn đề nào đó, có thể trả lời cho ta những câu hỏi nhất định mà ta đang cần biết về vụ án. Vấn đề thứ ba, phải xác định khi đánh giá từng chứng cứ là kết luận về giá trị (hiệu lực) pháp lý của từng chứng cứ. Kết luận về giá trị pháp lý của chứng cứ thực chất là đánh giá tính hợp pháp của chứng cứ. Chứng cứ phải được phản ánh từ các nguồn do pháp luật thừa nhận và bằng các biện pháp phù hợp với qui định của pháp luật. Nếu nguồn và biện pháp thu thập không phù hợp với qui định của pháp luật thì theo luật hiện hành, thông tin do nguồn đó phản ánh không được coi là chứng cứ mặc dù nó bảo đảm tính khách quan và tính liên quan. Những tài liệu này không được dùng làm căn cứ chứng minh theo trình tự tố tụng. Khác với đánh giá chứng cứ riêng lẻ, kết luận cần phải rút ra khi đánh giá tổng hợp các chứng cứ trong vụ án chỉ có một nội dung là giá trị chứng minh của hệ thống chứng cứ đó. Giá trị chứng minh tổng hợp của tất cả các chứng cứ không phải là tổng số giá trị chứng minh của các chứng cứ riêng lẻ. Thực tiễn hoạt động tố tụng 12
- cho thấy có nhiều vụ án, nếu xem xét giá trị chứng minh của từng chứng cứ riêng lẻ thì gần như không làm rõ được vấn đề gì nhưng khi phân tích, tổng hợp, đặt tất cả chứng cứ thu được trong một hệ thống lôgic thì sự thật vụ án được làm rõ. Trong giai đoạn điều tra, CQĐT, Viện kiểm sát có trách nhiệm áp dụng mọi biện pháp được quy định tại BLTTHS để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội; những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Pháp luật tố tụng hình sự cũng quy định rõ trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Nói cụ thể hơn, muốn phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật của mọi loại tội phạm, thì vấn đề thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ để chứng minh trong hoạt động tố tụng hình sự luôn là vấn đề đầu tiên, có ý nghĩa quyết định trong phát hiện và xử lý tội phạm. Với chức năng là cơ quan kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra, kiểm sát việc thu thập, đánh giá chứng cứ là một hoạt động xuyên suốt quá trình điều tra vụ án hình sự, góp phần bảo đảm việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm được đúng đắn, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội, Viện kiểm sát không chỉ kiểm sát hoạt động này của CQĐT mà còn kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ của các chủ thể khác. Trong TTHS, chủ thể của hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra ngoài cơ quan điều tra thì, cơ quan có nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra , người bào chữa có quyền thu thập, đánh giá chứng cứ; bị can, một số người tham gia tố tụng khác cũng có quyền thu thập chứng cứ nhưng chủ yếu vẫn thuộc về cơ quan có thẩm quyền điều tra. Tuy nhiên, với trách nhiệm là cơ quan công tố, VKS phải áp dụng các thẩm quyền theo quy định của pháp luật để yêu cầu CQĐT tiến hành thu thập chứng cứ một cách kịp thời, đầy đủ, phục vụ cho việc chứng minh tội phạm, đồng thời cũng là để KSV xét phê chuẩn các lệnh, quyết định tố tụng của CQĐT có căn cứ vững chắc. Để thực hiện tốt chức năng KSĐT, Kiểm sát viên phải thực hiện tốt công tác kiểm tra, đánh giá chứng cứ đã được CQĐT, người tham gia tố tụng thu thập. Việc đánh giá không chỉ dừng lại ở cảm quan, hiện tượng mà phải phân tích, sàng lọc để 13