Luận văn Kiểm sát điều tra vụ án hình sự có bị can là người chưa thành niên từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Kiểm sát điều tra vụ án hình sự có bị can là người chưa thành niên từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_kiem_sat_dieu_tra_vu_an_hinh_su_co_bi_can_la_nguoi.pdf
Nội dung text: Luận văn Kiểm sát điều tra vụ án hình sự có bị can là người chưa thành niên từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGÔ THANH TUẤN KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CÓ BỊ CAN LÀ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ TIẾN CHÂU HÀ NỘI, 2016
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác./. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Ngô Thanh Tuấn
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU . 1 Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về kiểm sát điều tra vụ án hình sự có bị can là ngƣời chƣa thành niên của Viện kiểm sát nhân dân 8 1.1. Những vấn đề lý luận về công tác kiểm sát điều tra vụ án hình sự có bị can là người chưa thành niên 8 1.2. Đặc điểm công tác kiểm sát điều tra vụ án hình sự có bị can là người chưa thành niên 13 1.3. Hoạt động kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát nhân dân đối với vụ án hình sự có bị can là người chưa thành niên 17 Chƣơng 2: Thực trạng công tác kiểm sát điều tra vụ án hình sự có bị can là người chưa thành niên từ thực tiễn tỉnh Bắc 33 Ninh 2.1. Tình hình kinh tế - xã hội và cơ cấu tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát hai cấp tỉnh Bắc Ninh 33 2.2. Thực trạng của tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ 2011-2015 36 2.3. Những kết quả đạt được và những hạn chế trong công tác kiểm sát điều tra vụ án hình sự có bị can là người chưa thành niên 45 Chƣơng 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát điều tra vụ án hình sự có bị can là ngƣời chƣa thành niên từ thực tiễn của Viện kiểm sát hai cấp tỉnh Bắc Ninh . 56 3.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng kiểm sát điều tra vụ án hình sự có bị can là người chưa thành niên của Viện kiểm sát hai cấp tỉnh Bắc Ninh 56 3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng kiểm sát điều tra vụ án hình sự có bị can là người chưa thành niên trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới 62 KẾT LUẬN . 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81
- NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN 1. BLHS Bộ luật hình sự 2. BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự 3. CQĐT Cơ quan điều tra 4. ĐTV Điều tra viên 5. KSV Kiểm sát viên 6. KSĐT Kiểm sát điều tra 7. KSXX Kiểm sát xét xử 8. NCTN Người chưa thành niên 9. TAND Tòa án nhân dân 10. TANDTC Tòa án nhân dân tối cao 11. THQCT Thực hành quyền công tố 12. TNHS Trách nhiệm hình sự 13. TTHS Tố tụng hình sự 14. VKSND Viện kiểm sát nhân dân 15. VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao
- DANH MỤC BẢNG BIỂU Nội dung bảng Trang Bảng 2.1: Số liệu thống kê các vụ án hình sự, bị can trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ năm 2011-2015 85 Bảng 2.2: Số vụ án hình sự và số bị can là người chưa thành niên so với tổng số vụ án hình sự và tổng số bị can trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ năm 2011-2015 . 86 Bảng 2.3: Số liệu thống kê các loại tội phạm hình sự do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ năm 2011-2015 . 87 Bảng 2.4: Số liệu nhân thân người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ năm 2011-2015 88 Bảng 2.5: Số liệu về kết quả xử lý của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hai cấp tỉnh Bắc Ninh từ năm 2011-2015 89 Nguồn: Báo cáo thống kê kỳ 12 tháng các năm 2011, 2012, 2013, 2014, 2015 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh [38]
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh nước ta hội nhập, mở rộng hợp tác giao lưu quốc tế, thế hệ trẻ đầy năng động, sáng tạo, là nhân tố quan trọng quyết định tương lai tươi sáng của dân tộc. Với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội mà đa số thanh thiếu niên sống có lý tưởng, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện về đạo đức, phấn đấu vươn lên trong học tập, lao động cũng như trong chiến đấu, cống hiến sức lực, trí tuệ của mình cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Tuy nhiên, bên cạnh đó, phải thừa nhận một thực tế hiện nay có một bộ phận không nhỏ thanh thiếu niên ở độ tuổi chưa thành niên không chịu tu dưỡng, rèn luyện, sống buông thả, đua đòi dẫn đến thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt là tội phạm. Tội phạm do NCTN gây ra là nỗi đau của gia đình, cha mẹ đồng thời là vấn đề gây nhức nhối trong xã hội. Theo quy định của BLHS và BLTTHS, điều tra tội phạm là một trong những hoạt động tư pháp quan trọng của Nhà nước ta nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội phải được điều tra làm rõ. KSĐT là một chức năng hoạt động của VKSND trong quá trình giải quyết án hình sự. KSĐT vụ án hình sự có vai trò quan trọng trong hoạt động TTHS nhằm bảo đảm cho hoạt động điều tra được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Bên cạnh đó KSĐT còn có vai trò đảm bảo cho mọi hành vi vi phạm và tội phạm phải được phát hiện, xử lý chính xác, kịp thời, nhanh chóng và công minh nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn trật tự, kỷ cương của pháp luật. Nhận thức rõ tầm quan trọng của hoạt động này, thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng và hoàn thiện chủ trương, chính sách cũng như nhiều quy định pháp luật liên quan. Với một cơ sở pháp lý ngày càng hoàn thiện, hoạt động KSĐT đã góp phần quan trọng, đảm bảo việc truy tố đúng 1
- người, đúng tội và giảm oan sai, nhất là trong KSĐT vụ án hình sự có bị can là NCTN. Tỉnh Bắc Ninh là cửa ngõ phía bắc của thủ đô Hà Nội, nằm trong khu vực trọng điểm kinh tế phía Bắc của đất nước. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế nhanh, Bắc Ninh cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề xã hội nảy sinh cần giải quyết, trong đó có vấn đề đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, đặc biệt là số vụ án có bị can là NCTN ở tỉnh Bắc Ninh mặc dù xảy ra không nhiều, nhưng diễn biến phức tạp. Số vụ án có bị can là NCTN có xu hướng ngày càng tăng. Trong khi đó, mặc dù là địa phương có diện tích không lớn nhưng lại tiếp giáp với 5 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, điều kiện giao thông thuận lợi đã gây không ít khó khăn cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và hoạt động KSĐT đối với vụ án hình sự có bị can là NCTN nói riêng. Thực tiễn hoạt động KSĐT đối với tội phạm có bị can là NCTN ở tỉnh Bắc Ninh thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả. Sự phối hợp giữa CQĐT và VKSND về cơ bản đã đáp ứng được nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm. Tuy nhiên, qua tổng kết, đánh giá thực tế còn thấy rằng, công tác KSĐT của VKSND vẫn còn bộc lộ một số hạn chế như: Nhiều đơn vị, nhiều KSV không thực hiện công tác KSĐT ngay từ khi phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm, còn thụ động trong hoạt động KSĐT đối với hoạt động điều tra của CQĐT, nhiều vụ án còn bị kéo dài phải gia hạn điều tra, còn để lọt hành vi phạm tội, không đảm bảo quyền lợi hợp pháp của bị can, thậm chí nhiều vụ án phải điều tra bổ sung, hủy án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại Để tăng cường pháp chế cũng như hoạt động giám sát, kiểm tra trong kiểm sát các hoạt động tư pháp nói chung và nâng cao chất lượng hoạt động trong KSĐT đối với tội phạm có bị can là NCTN nói riêng cần phải nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của VKSND. 2
- Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, đồng thời để hoạt động này của Viện kiểm sát hai cấp tỉnh Bắc Ninh ngày một tốt hơn, nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và đòi hỏi của xã hội nói chung, tác giả chọn đề tài: “Kiểm sát điều tra vụ án hình sự có bị can là người chưa thành niên từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh”. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến NCTN phạm tội và công tác KSĐT vụ án hình sự có bị can là người NCTN đã được một số nhà khoa học và cán bộ làm công tác thực tiễn tiến hành, công bố trong nhiều công trình khoa học. Việc nghiên cứu đề tài này đã được thể hiện trong các đề tài khoa học, luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ, một số giáo trình giảng dạy và được đăng tải thường xuyên và liên tục trên các tạp chí, báo, đài từ Trung ương đến địa phương. Tác giả đã tiếp cận một số đề tài về hoạt động kiểm sát điều tra của VKSND trong những năm gần đây như: - Các đề tài khoa học, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ: Đỗ Văn Đương (2005), đề tài khoa học cấp Bộ: “Cơ sở lý luận và thực tiễn của thu thập, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự”; Vũ Thị Thu Quyên (2015), luận án tiến sĩ “Pháp luật về quyền của người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam”; Nguyễn Văn Uyên (2015), luận văn thạc sĩ “Tội phạm do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa”; Nguyễn Như Nghiêm (2015), luận văn thạc sĩ “Kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Đức – Thành phố Hà Nội”. - Các sách chuyên khảo như: Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2014), Luật hình sự Việt Nam- Phần chung, Nxb. khoa học xã hội, Hà Nội; Lê Hữu Thể chủ biên (2008), “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra”; Viện khoa học kiểm sát VKSNDTC (2006), 3
- “Sổ tay kiểm sát viên hình sự”; Ngô Văn Đọn chủ biên (2005), Tập đề cương bài giảng tư pháp người chưa thành niên. - Các bài viết, nghiên cứu được đăng tải trên các tạp chí của Trung ương như: Trần Văn Dũng, “Quyết định hình phạt trong trường hợp người chưa thành niên phạm nhiều tội” Tạp chí Luật học, số 5/2000; Trương Minh Mạnh, “Phân loại tội phạm với việc qui định trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên”, Tạp chí Kiểm sát, số 8/2002; Hà Mạnh Trí, “Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp góp phần đẩy mạnh cải cách tư pháp”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1/2003; Lê Cảm, “Một số vấn đề lý luận chung về các giai đoạn tố tụng hình sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 2/2004; Lại Hợp Việt: “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của viện kiểm sát nhân dân trước yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế”, Tạp chí kiểm sát, số 6/2010; Trần Công Phàn, “Một số vấn đề về chủ trương tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí Kiểm sát 03/2012; Lê Thị Tuyết Hoa, “Thực trạng và một số kiến nghị nhằm tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra”, Tạp chí Kiểm sát số 08/2014. Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập các vấn đề về quyền, trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên và đề cập các góc độ khác nhau của hoạt động Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, chưa có đề tài nào tập trung nghiên cứu vấn đề Kiểm sát điều tra đối với vụ án hình sự có bị can là người chưa thành niên từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh. Những nội dung nào chưa được đề cập, tác giả sẽ dành sự quan tâm, nghiên cứu trong đề tài này. 4
- 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn Qua việc nghiên cứu làm rõ thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân của những kết quả đã đạt được, hạn chế, tồn tại, luận văn dự báo tình hình tội phạm và đề xuất các giải pháp đảm bảo cho hoạt động KSĐT vụ án hình sự có bị can là NCTN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh thực hiện đúng quy định của pháp luật, đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp trong tình hình mới, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về KSĐT vụ án hình sự có bị can là người chưa thành niên từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh. - Phân tích, đánh giá thực trạng, làm rõ những ưu điểm cũng như những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại về công tác KSĐT vụ án hình sự có bị can là người chưa thành niên của Viện kiểm sát hai cấp tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015. - Dự báo tình hình tội phạm và đề xuất những giải pháp nhằm đảm bảo cho hoạt động KSĐT vụ án hình sự có bị can là NCTN trên địa tỉnh Bắc Ninh thực hiện đúng quy định của pháp luật, đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp trong tình hình mới. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động KSĐT vụ án hình sự có bị can là NCTN của VKSND ở tỉnh Bắc Ninh. Cụ thể bắt đầu từ khi phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm xảy ra đến 5
- khi kết thúc việc điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định truy tố hoặc đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật. 4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Luận văn tập trung phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động KSĐT vụ án hình sự có bị can là NCTN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ năm 2011 đến hết năm 2015. Những vấn đề về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát không nằm trong nội dung luận văn này. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận nghiên cứu đề tài Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. 5.1. Phương pháp nghiên cứu đề tài Luận văn sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử như phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp lịch sử cụ thể. Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu của các khoa học khác như thống kê tội phạm, luật học so sánh, phương pháp hệ thống 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Làm rõ đặc điểm, nguyên nhân, điều kiện thực hiện tội phạm của NCTN; dự báo tình hình tội phạm do NCTN gây ra trong thời gian tới từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh. - Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động KSĐT vụ án hình sự có bị can là NCTN của Viện kiểm sát hai cấp tỉnh Bắc Ninh, làm rõ những đặc thù nhằm nâng cao hiệu quả công tác KSĐT nói chung và công tác KSĐT đối với NCTN phạm tội nói riêng. 6
- - Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng công tác KSĐT vụ án hình sự có bị can là NCTN của VKSND ở tỉnh Bắc Ninh và đề ra các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả công tác KSĐT trong lĩnh vực này, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, góp phần làm ổn định trật tự an toàn xã hội, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu gồm ba chương: Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về kiểm sát điều tra vụ án hình sự có bị can là người chưa thành niên của Viện kiểm sát nhân dân Chƣơng 2: Thực trạng công tác kiểm sát điều tra vụ án hình sự có bị can là người chưa thành niên từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh Chƣơng 3: Những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát điều tra vụ án hình sự có bị can là người chưa thành niên từ thực tiễn của Viện kiểm sát hai cấp tỉnh Bắc Ninh 7
- Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CÓ BỊ CAN LÀ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 1.1. Những vấn đề lý luận về công tác kiểm sát điều tra vụ án hình sự có bị can là người chưa thành niên 1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên Khái niệm NCTN là một khái niệm phổ biến đã được dùng trong nhiều ngành khoa học, nhưng ở mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau, lại có những quan niệm khác nhau về NCTN. Khái niệm NCTN theo Từ điển tiếng Việt: “Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân” [40]. Theo quy định tại Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1990 thì “Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó có quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Bên cạnh Công ước về quyền trẻ em thì Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên Hợp Quốc về việc áp dụng pháp luật đối với NCTN (Quy tắc Bắc Kinh) do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 14/12/1992, cũng là một văn bản pháp luật quốc tế quan trọng đề cập đến khái niệm “người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi” như là một sự kế thừa của Công ước về Quyền trẻ em. Quy tắc Riát về phòng ngừa phạm pháp ở NCTN được Liên Hợp Quốc thông qua ngày 14/12/1990, mặc dù không đưa ra một cách cụ thể về khái niệm NCTN, song thông qua các quy định cũng giúp chúng ta hiểu NCTN là người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, do sự phát triển của từng quốc gia khác nhau, nên khái niệm NCTN ở các quốc gia cũng khác nhau, bên cạnh việc đưa ra khái niệm này thì Công ước về Quyền trẻ em vẫn 8
- còn những điều khoản để ngỏ cho các nước quy định về độ tuổi cho NCTN, thậm chí ngay trong một quốc gia các văn bản pháp luật cũng quy định không thống nhất về vấn đề này. Theo pháp luật Việt Nam, từ những kinh nghiệm được thừa nhận trong quá khứ, dựa trên những thành tựu do các ngành khoa học khác mang lại cũng như tiếp thu các văn bản pháp luật quốc tế mà các nhà làm luật đã đưa ra khái niệm về NCTN, tùy theo từng lĩnh vực điều chỉnh của từng ngành luật, như sau: Điều 18 Bộ luật Dân sự Việt Nam quy định: “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên” [16] và Bộ luật lao động Việt Nam cũng quy định: “Người lao động chưa thành niên là người dưới 18 tuổi” [21]. Như vậy, có thể thống nhất một quan điểm là NCTN là người dưới 18 tuổi. Quan niệm này cũng hoàn toàn phù hợp với Công ước quốc tế về quyền trẻ em ngày 20/2/1990 mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Theo quy định của BLHS năm 1999 thì NCTN là những người chưa đủ 18 tuổi, nhưng chỉ những NCTN từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội, còn người chưa thành niên dưới 14 tuổi thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong đó, người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, còn người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm (Điều 12 của BLHS năm 1999) [17]. Vấn đề đặt ra là tại sao pháp luật hình sự lại quy định người chưa đủ 14 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự và người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm nhất định? Quy định này của BLHS năm 1999 về mặt lý luận có thể hiểu, người chưa đủ 14 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm cho xã hội mà 9
- họ gây ra vì người chưa đủ 14 tuổi, trí tuệ chưa phát triển đầy đủ nên chưa nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội về hành vi của mình, chưa đủ khả năng tự chủ khi hành động nên họ không bị coi là có lỗi về hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện. Một hành vi được coi là không có lỗi cũng tức là không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên họ không phải chịu trách nhiệm hình sự (loại trừ trách nhiệm hình sự). Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi được coi là người chưa có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Do đó, họ cũng chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm (rất nghiêm trọng do cố ý hoặc đặc biệt nghiêm trọng) chứ không phải chịu trách nhiệm hình sự về tất cả các tội phạm. Do ở độ tuổi này sự phát triển vẫn chưa thực sự hoàn chỉnh về nhận thức, sự hiểu biết còn hạn chế nhất định. Vì vậy, chính sách hình sự đối với người phạm tội ở độ tuổi này được quy định cho phù hợp với thực tiễn vừa đảm bảo sự nghiêm minh, vừa thể hiện chính sách nhân đạo trong pháp luật hình sự của Đảng và Nhà nước ta, lấy giáo dục thuyết phục là chủ yếu. Chính vì vậy, Điều 68, Chương X BLHS năm 1999 quy định: “Người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại chương này và các quy định trong phần chung của BLHS” [17]. 1.1.2. Khái niệm kiểm sát điều tra vụ án hình sự có bị can là người chưa thành niên Theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, BLTTHS năm 2003, Viện kiểm sát vừa được giao trách nhiệm THQCT, vừa thực hiện chức năng KSĐT vụ án hình sự, nhằm đảm bảo việc khởi tố, điều tra có căn cứ và hợp pháp, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội, góp phần bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích nhà nước; quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội. 10
- Trong lĩnh vực hình sự, THQCT và KSĐT là khâu công tác quan trọng, có ý nghĩa nền tảng, then chốt, làm cơ sở cho toàn bộ quá trình thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong TTHS. Hai chức năng này độc lập có đối tượng tác động và nội dung khác nhau nhưng chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Kết quả của hoạt động kiểm sát là cơ sở cho hoạt động công tố có hiệu quả và ngược lại kết quả việc THQCT cũng là tiền đề cho hoạt động KSĐT. KSĐT vụ án hình sự có bị can là NCTN được hiểu là hoạt động của Viện kiểm sát, kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật hình sự phát sinh trong giai đoạn điều tra, nhằm đảm bảo cho quá trình điều tra vụ án được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Pháp luật TTHS nước ta quy định, CQĐT phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can. Các biện pháp mà CQĐT áp dụng trong điều tra rất nhiều, tuy nhiên có thể xem xét ở hai nhóm sau: Thứ nhất, các biện pháp tố tụng nhằm thu thập và kiểm tra chứng cứ gồm: Khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, khám xét, thu giữ vật chứng, giám định, nhận dạng Việc áp dụng các biện pháp TTHS để tiến hành điều tra vụ án hình sự có bị can là NCTN của CQĐT được gọi là các hoạt động điều tra. Trong đó VKSND mà chủ thể là KSV được phân công có trách nhiệm kiểm sát hoạt động điều tra nhằm đảm bảo cho các hoạt động này đúng theo quy định của pháp luật. Thứ hai, các biện pháp nhằm thực hiện các Quyết định tố tụng quan trọng của các Cơ quan tiến hành tố tụng như: Quyết định khởi tố vụ án, bị 11
- can; áp dụng thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn (bắt, tạm giữ, tạm giam); đình chỉ điều tra vụ án; tạm đình chỉ điều tra vụ án có bị can là NCTN. Các biện pháp trên khi áp dụng đều liên quan trực tiếp tới các quyền cơ bản của công dân nên đòi hỏi việc áp dụng phải tuân thủ đúng về trình tự theo quy định của pháp luật. Nên rất cần việc giám sát chặt chẽ đảm bảo quá trình điều tra vụ án hình sự có bị can là NCTN được thực hiện theo đúng quy định của BLTTHS năm 2003 là trách nhiệm của VKSND. KSĐT vụ án hình sự có bị can là NCTN của VKSND thực chất là kiểm sát việc tuân theo pháp luật các hoạt động tư pháp của CQĐT và các Cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra trong qua trình giải quyết vụ án hình sự có bị can là NCTN nhằm bảo đảm việc khởi tố, điều tra đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội. Từ những vấn đề trên, chúng ta cần xem xét đối tượng và phạm vi của hoạt động KSĐT vụ án hình sự có bị can là NCTN. Đối tượng của hoạt động KSĐT vụ án hình sự có bị can là NCTN là sự tuân thủ pháp luật của các chủ thể tiến hành hoạt động điều tra (về thẩm quyền, thời hạn, thủ tục điều tra ) và các chủ thể khác tham gia quan hệ pháp luật TTHS phát sinh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự gồm: + Sự tuân thủ pháp luật của CQĐT khi tiến hành các hoạt động tố tụng như khám nghiệm hiện trường, khởi tố vụ án, bị can, áp dụng các biện pháp ngăn chặn, hỏi cung bị can Với đối tượng tác động này, hoạt động KSĐT nhằm hướng tới mục đích đảm bảo sự tuân thủ pháp luật của CQĐT trong giai đọan điều tra. Theo quy định của pháp luật thì các CQĐT gồm có: CQĐT của Công an nhân dân; CQĐT trong Quân đội nhân dân; CQĐT của VKSNDTC + Sự tuân thủ pháp luật của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như Biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Cảnh sát biển, Kiểm ngư 12
- + Sự tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng trong quá trình điều tra vụ án, gồm có người bị tạm giữ, bị can, người bị hại, người làm chứng, người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Phạm vi của KSĐT vụ án hình sự có bị can là NCTN bắt đầu từ khi có sự kiện phạm tội xảy ra hoặc phát hiện được dấu hiệu của tội phạm cho tới khi kết thúc điều tra bằng bản kết luận điều tra của cơ quan có thẩm quyền chuyển Viện kiểm sát đề nghị truy tố hoặc khi CQĐT đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra vụ án. Việc xác định phạm vi như vậy là thể hiện tính đầy đủ, toàn diện của hoạt động điều tra vụ án hình sự của VKSND, cũng như thể hiện đầy đủ bản chất pháp lý của hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự, trong đó có vụ án hình sự có bị can là NCTN, là kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp trong hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra. Từ những nội dung trên, có thể định nghĩa về KSĐT vụ án hình sự có bị can là NCTN như sau: KSĐT vụ án hình sự có bị can là NCTN là chức năng hiến định của VKSND, có nội dung là giám sát trực tiếp mọi hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình khởi tố, điều tra vụ án hình sự có bị can là NCTN, nhằm đảm bảo cho pháp luật TTHS được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và thống nhất. 1.2. Đặc điểm công tác kiểm sát điều tra vụ án hình sự có bị can là người chưa thành niên Hoạt động KSĐT vụ án hình sự có bị can là NCTN mang đầy đủ các đặc điểm của hoạt động KSĐT các vụ án hình sự, nhưng do đối tượng đặc thù là NCTN phạm tội nên hoạt động KSĐT vụ án hình sự có bị can là NCTN có những đặc điểm riêng sau: 13
- Thứ nhất, công tác KSĐT vụ án hình sự có bị can là NCTN luôn gắn với quan điểm, đường lối chỉ đạo của Đảng, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Người chưa thành niên phạm tội là một hiện tượng thực tế, tồn tại trong tất cả các xã hội, tình trạng NCTN phạm tội ở Việt Nam diễn biến rất phức tạp. Do chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như về tâm, sinh lý, họ bị hạn chế về trình độ nhận thức cũng như về kinh nghiệm sống, thiếu những điều kiện về bản lĩnh tự lập, khả năng tự kiềm chế chưa cao nên họ dễ bị kích động, dễ bị lôi kéo vào hoạt động tội phạm. Chính vì vậy, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề giải quyết tội phạm về NCTN không phải chỉ giải quyết vụ án, trừng trị tội phạm mà mục đích để giáo dục người phạm tội, ngăn ngừa tội phạm không để hành vi phạm tội tiếp tục xảy ra. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng không chỉ áp dụng trong quá trình KSĐT của VKSND mà còn trong quá trình truy tố, xét xử đối với đối tượng này. Thứ hai, công tác KSĐT vụ án hình sự có bị can là NCTN phải luôn chú trọng đến việc làm rõ các yếu tố nhân thân, điều kiện phạm tội và các yếu tố khác ảnh hưởng đến hành vi phạm tội của NCTN. Khi tiến hành KSĐT vụ án hình sự có bị can là NCTN, ngoài việc phải chứng minh tất cả những vấn đề thuộc đối tượng chứng minh như vụ án hình sự khác theo quy định tại Điều 63, BLTTHS năm 2003, ngoài ra các cơ quan tiến hành tố tụng cần xác định rõ: - Độ tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của NCTN: Xác định tuổi của NCTN phạm tội là vấn đề quan trọng có ý nghĩa quyết định việc có truy cứu hay không truy cứu trách nhiệm hình sự. Đây đồng thời là căn cứ để xem xét, quyết định các vấn đề về sự tham gia của người bào chữa; loại và mức hình phạt dự kiến áp dụng; miễn hình phạt; áp dụng biện pháp tư pháp. 14
- - Điều kiện sinh sống và giáo dục của NCTN: Điều kiện sinh sống và giáo dục có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển về nhân sinh quan và thế giới quan của mọi người nói chung, đặc biệt là đối với NCTN. Điều kiện sinh sống của gia đình, thái độ, xử sự của cha, mẹ và người thân trong gia đình; điều kiện học tập và sinh hoạt ở trường, đoàn thể, nơi ở là những yếu tố ảnh hưởng lớn tới sự hình thành và phát triển nhân cách của NCTN. - Xác định có hay không có người thành niên xúi giục NCTN phạm tội: NCTN còn trong độ tuổi phát triển và hoàn thiện về thể chất, tâm lý. Việc xác định rõ có người thành niên xúi giục NCTN hay không có ý nghĩa quan trọng, vì trong trường hợp cụ thể đây có thể là những tình tiết xác định có truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ hay không hoặc áp dụng một trách nhiệm hình sự phù hợp đối với từng trường hợp được chính xác. Mặt khác nó giúp cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện và trừng trị kẻ đã xúi giục. - Xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội: Việc xác định và đánh giá đúng nguyên nhân và điều kiện phạm tội ở NCTN của các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ giúp cho việc giải quyết vụ án đúng đắn, thấu tình, đạt lý, bảo về được quyền, lợi ích hợp pháp của của NCTN phạm tội. Mặt khác, xác định đúng nguyên nhân, điều kiện phạm tội sẽ tạo điều kiện để cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp khắc phục nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm nói chung, tội phạm do NCTN thực hiện nói riêng, thực hiện phòng ngừa tội phạm một cách có hiệu quả. Thứ ba, Công tác kiểm sát điều tra các vụ án hình sự có bị can là NCTN phải tuân thủ nghiêm ngặt những quy định của pháp luật về thủ tục tố tụng đối với NCTN theo nguyên tắc áp dụng các quy định riêng, đặc thù, sau đó mới áp dụng các quy định chung của Bộ luật tố tụng hình sự. 15
- Thủ tục tố tụng đối với các vụ án hình sự có bị can là người chưa thành niên trước hết phải áp dụng theo quy định tại Chương XXXII, BLTTHS 2003 về “thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên”, đồng thời theo những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự không trái với những quy định tại Chương XXXII. Chương XXXII, BLTTHS 2003 quy định về thủ tục tố tụng liên quan đến người chưa thành niên phạm tội, tức là, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành niên. Các quy định này tập trung vào các nội dung chủ yếu là: những yếu tố cần phải xác định rõ trong vụ án người chưa thành niên; vấn đề áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo chưa thành niên; việc lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can; xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên; vấn đề bảo đảm quyền bào chữa và bảo vệ quyền của bị can, bị cáo chưa thành niên; việc tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội trong vụ án người chưa thành niên; vấn đề thi hành án; vấn đề xoá án tích đối với người chưa thành niên phạm tội. Thứ tư, Chủ thể KSĐT các vụ án hình sự có bị can là NCTN ngoài việc có kiến thức pháp luật, năng lực nghiệp vụ, còn phải có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục, các kiến thức liên quan đến NCTN. Các quy định của pháp luật liên quan đến NCTN rất nhiều và phức tạp, đòi hỏi KSV thực hiện nhiệm vụ KSĐT phải nắm vững, đầy đủ nhất các quy định của pháp luật; khi KSĐT, giải quyết vụ án hình sự có bị can là NCTN, KSV phải nắm được đặc điểm tâm lý của họ; phải tìm hiểu được động cơ, nguyên nhân chủ quan và khách quan của hành vi phạm tội để từ đó áp dụng những kỹ năng nghiệp vụ phù hợp, quan điểm xử lý đúng theo quy định của pháp luật. Khi tiếp xúc với NCTN, KSV phải có lòng vị tha, đối xử công bằng, thân thiện, để họ có thể dễ dàng chấp nhận trách nhiệm cho các hành vi sai 16