Luận văn Kiểm sát điều tra tại hiện trường theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi

pdf 69 trang vuhoa 24/08/2022 9880
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Kiểm sát điều tra tại hiện trường theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_kiem_sat_dieu_tra_tai_hien_truong_theo_phap_luat_to.pdf

Nội dung text: Luận văn Kiểm sát điều tra tại hiện trường theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐINH TRƯỜNG GIANG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA TẠI HIỆN TRƯỜNG THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số : 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học PGS.TS. HỒ SỸ SƠN Hà Nội, năm 2016
  2. LỜI CAM ĐOAN Luận văn “Kiểm sát điều tra tại hiện trường theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi ” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Hồ Sỹ Sơn. Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu và số liệu trong Luận văn là hoàn toàn trung thực, chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các thông tin và tài liệu trích dẫn trong Luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc. Tác giả luận văn Đinh Trường Giang
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA TẠI HIỆN TRƯỜNG 7 1.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung và ý nghĩa của kiểm sát điều tra tại hiện trường 7 1.2. Các yếu tố tác động đến kiểm sát điều tra tại hiện trường 21 1.3. Các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về kiểm sát điều tra tại hiện trường 26 Kết luận chương 1 29 CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN KIỂM SÁT ĐIỀU TRA TẠI HIỆN TRƯỜNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI 30 2.1. Khái quát tình hình xử lý tội phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi 30 2.2. Thực trạng kiểm sát điều tra tại hiện trường trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi 32 Kết luận chương 2 43 CHƯƠNG 3. CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA TẠI HIỆN TRƯỜNG 44 3.1. Các yêu cầu đối với kiểm sát điều tra tại hiện trường 44 3.2. Các giải pháp đối với kiểm sát điều tra tại hiện trường 48 Kết luận chương 3 57 KẾT LUẬN 59 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  4. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLTTHS 2015 Bộ luật Tố tụng hình sự. CQĐT Cơ quan điều tra. ĐTV Điều tra viên. ĐTTHT Điều tra tại hiện trường. KSĐTTHT Kiểm sát điều tra tại hiện trường. KSV Kiểm sát viên VKS Viện kiểm sát.
  5. DANH MỤC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 2.1. Cơ cấu tình hình tội phạm xét theo tội danh xảy ra trên địa bàn 31 2.2. Tổng số vụ/bị can, bị cáo bị điều tra, truy tố và xét xử 31 2.3. Số liệu hiện trường và kiểm sát khám nghiệm hiện trường. 33
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để thực hiện hai chức năng này, Viện kiểm sát đã tiến hành nhiều công tác kiểm sát khác nhau, trong đó có công tác kiểm sát điều tra. Công tác kiểm sát điều tra với tính chất là một chức năng cơ bản của Viện kiểm sát thì hoạt động đó có bản chất pháp lý là kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp các hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện bởi Cơ quan điều tra và các Cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra vụ án hình sự nhằm bảo đảm việc điều tra đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Để thực hiện tốt khâu công tác kiểm sát điều tra thì Viện kiểm sát nói chung và kiểm sát viên nói riêng phải thực hiện nhiều hoạt động kiểm sát khác nhau như kiểm sát việc phê chuẩn việc bắt tạm giữ, tạm giam, khởi tố bị can, khởi tố vụ án v.v và kiểm sát điều tra tại hiện trường là một hoạt động trong khâu công tác kiểm sát này. Hoạt động kiểm sát điều tra tại hiện trường của Viện kiểm sát nhằm bảo đảm công tác điều tra tại hiện trường của Cơ quan điều tra đúng quy định của pháp luật, thu thập được đầy đủ các thông tin, tài liệu, chứng cứ phục vụ quá trình điều tra, khám phá vụ án. Trong những năm qua Viện kiểm sát nhân dân đã có nhiều cố gắng trong thực hiện công tác kiểm sát các hoạt động điều tra tại hiện trường, góp phần quan trọng trong hoạt động điều tra khám phá vụ án. Tuy nhiên, công tác kiểm sát điều tra tại hiện trường vẫn còn nhiều bất cập, yếu kém như: có nhiều vụ việc xảy ra Cơ quan điều tra thông báo cho Viện kiểm sát, nhưng Viện kiểm sát không cử Kiểm sát viên đến kiểm sát hoạt động, có trường hợp sau khi khám nghiệm hiện trường xong Kiểm sát viên 1
  7. mới đến. Việc cơ quan Viện kiểm sát tiến hành hoạt động kiểm sát không thường xuyên, không trực tiếp mà chỉ kiểm sát qua biên bản giấy tờ đã dẫn tới thực trạng: không nắm bắt được chi tiết vụ, việc và những vấn đề phát sinh ngay từ đầu, cho nên hoạt động kiểm sát điều tra tiếp theo của cơ quan này gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng trong việc nhận định, đánh giá và ra các quyết định. Kiểm sát viên đến hiện trường còn mang tính hình thức, có mặt cho đúng thủ tục, không thực hiện đúng chức trách nhiệm vụ được giao, cá biệt có Kiểm sát viên năng lực còn hạn chế, khi đến hiện trường không biết mình phải làm gì, làm như thế nào. Nhiều vụ việc do công tác kiểm sát điều tra hiện trường không tốt, khám nghiệm hiện trường qua loa, đại khái, thu thập tài liệu, chứng cứ không đầy đủ, không tuân thủ sự thật khách quan của vụ việc xảy ra, nên đã gây rất nhiều khó khăn trong chứng minh tội phạm sau này, như: nhận định về động cơ, mục đích gây án, số lượng đối tượng gây án, đặc điểm đối tượng gây án, tài sản chiếm đoạt không chính xác, đầy đủ, từ đó xây dựng các giả thiết điều tra không đúng, dẫn đến oan, sai, bỏ lọt tội phạm, làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng. Từ những vấn đề nêu trên, cho thấy cần phải hoàn thiện công tác kiểm sát điều tra tại hiện trường các vụ, việc mang tính hình sự sao cho hoạt động này đạt hiệu quả cao. Thực tiễn kiểm sát điều tra tại hiện trường ở Quảng Ngãi trong những năm qua cho thấy công tác khám nghiệm hiện trường cũng như kiểm sát hoạt động điều tra tại hiện trường còn nhiều sơ hở, yếu kém, hiệu quả công tác chưa cao, số vụ việc thụ lý nhiều nhưng số vụ án được giải quyết chiếm tỷ lệ thấp. Chính vì vậy, đây là vấn đề thực tiễn rất cần được sự quan tâm nghiên cứu. Bên cạnh đó những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về hiện trường và khám nghiệm hiện trường tại Điều150 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 và hiện đã được thay đổi tại Điều 201 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 mới chỉ dừng lại ở những quy định mang tính khái quát chung, 2
  8. chưa có những quy định cụ thể. Như vậy, xét ở cả bình diện lý luận và thực tiễn thì việc nghiên cứu đề tài: "Kiểm sát điều tra tại hiện trường theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnhQuảng Ngãi" là yêu cầu cấp thiết mang tính thời sự trong giai đoạn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Kiểm sát điều tra tại hiện trường theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam là một lĩnh vực không mới, là một hoạt động đã được pháp luật quy định cho Ngành kiểm sát và trong thực tế hoạt động này là đề tài nghiên cứu của một số luận văn và luận án. Cụ thể như : Nguyễn Thị Loan, Học viện khoa học xã hội : Giám định tư pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sỹ Luật học, Học viện khoa học xã hội, 2014 ; Ngô Xuân Khang, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh : Kiểm sát điều tra tại hiện trường trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện khoa học xã hội, 2013 ; Nguyễn Thanh Mai, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tây : Kiểm sát điều tra tại hiện trường những vụ việc mang tính hình sự trên địa bàn tỉnh Hà Tây, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện cảnh sát nhân dân, 2005 ; Dương Ngọc An, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi : Chứng minh trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét xử tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện khoa học xã hội, 2013 ; Trần Hoàng Tuấn, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi : Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động điều tra các vụ án về tham nhũng từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện khoa học xã hội, 2013 ; . Nội dung của những đề tài nêu trên đã đề cập đến chức năng kiểm sát điều tra các vụ án hình sự và công tác kiểm sát khám nghiệm hiện trường, nhưng các luận văn và luận án này được nghiên cứu chỉ trong phạm vi của hoạt động : Kiểm sát khám nghiệm hiện trường mà không phải là hoạt động Kiểm sát điều tra tại hiện trường. Hơn nữa, các nghiên cứu này từ thực tế ở một số địa phương khác, những nghiên cứu chỉ dừng lại ở góc độ phân tích, tìm hiểu các 3
  9. quy định của pháp luật. Đối với địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cho đến nay chưa có công trình khoa học nào tập trung nghiên cứu và làm rõ nội dung của công tác kiểm sát điều tra tại hiện trường theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam nên chưa đưa ra được sự so sánh giữa kết quả kiểm sát điều tra hiện trường đúng và kiểm sát điều tra hiện trường chưa đúng, chưa đầy đủ v.v từ đó để có thể có tổng kết sơ bộ của hoạt động kiểm sát điều tra hiện trường này mang lại cho việc điều tra, truy tố, xét xử như thế nào và thông qua đó nhằm xây dựng và đưa ra các giải pháp để cho hoạt động kiểm sát điều tra tại hiện trường đảm bảo đúng theo quy định của pháp luật điều này có ý nghĩ hết sức quan trọng trong việc điều tra khám phá vụ án. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn của hoạt động Kiểm sát điều tra tại hiện trường theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn đề xuất các giải pháp bảo đảm kiểm sát điều tra đúng tại hiện trường nhằm đấu tranh phòng, chống có hiệu quả tội phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi và trong phạm vi cả nước. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu trên đây Luận văn thực hiện các nhiệm vụ như : - Phân tích những vấn đề lý luận và pháp luật về hiện trường và kiểm sát điều tra tại hiện trường. - Phân tích, đánh giá thực tiễn kiểm sát điều tra tại hiện trường trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. - Tổng hợp những ưu điểm, những mặt tích cực, những hạn chế trong hoạt động kiểm sát điều tra tại hiện trường từ đó đề xuất những giải pháp đảm 4
  10. bảo cho hoạt động kiểm sát điều tra hiện trường đúng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn lấy các quan điểm khoa học tố tụng hình sự, các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, thực tiễn kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát tại hiện trường ở tỉnh Quảng Ngãi để nghiên cứu các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của đề tài. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài Luận văn này được cứu trên góc độ chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự. Các số liệu phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài được Tác giả Luận văn thu thập từ thực tiễn kiểm sát điều tra tại hiện trường trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi khoản thời gian từ năm 2011 đến năm 2015. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở các quan điểm duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về tội phạm, đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, về cải cách tư pháp về bảo vệ quyền con người.v.v 5.2. Phương pháp nghiên cứu Tác giả đã sử dụng trong một tổng thể các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp khảo sát thực tiễn, phương pháp so sánh đối chiếu, thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp diễn giải, phương pháp quy nạp tổng hợp và những phương pháp khác. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa khoa học Bằng việc làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hiện trường và hoạt động 5
  11. kiểm sát điều tra tại hiện trường , đánh giá thực trạng hoạt động kiểm sát điều tra tại hiện trường, phát hiện những ưu, nhược điểm và nguyên nhân của những tồn tại, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát trong kiểm sát điều tra tại hiện trường đúng trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn góp phần nhận thức sâu hơn những vấn đề lý luận về kiểm sát điều tra tại hiện trường, hoàn thiện những quy định của pháp luật về hiện trường, đồng thời Luận văn góp phần mô hình hóa hoạt động kiểm sát điều tra tại hiện trường, nhằm khắc phục những hạn chế bất cập trong hoạt động kiểm sát điều tra tại hiện trường. 6.1. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tại liệu tham khảo cho các hoạt động nghiên cứu, giản dạy, học tập và kiểm sát điều tra tại hiện trường trên thực tế. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được chia làm 3 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về kiểm sát điều tra tại hiện trường . Chương 2. Thực tiễn kiểm sát điều tra tại hiện trường trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi Chương 3. Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm kiểm sát điều tra đúng tại hiện trường. 6
  12. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA TẠI HIỆN TRƯỜNG 1.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung và ý nghĩa của kiểm sát điều tra tại hiện trường 1.1.1. Khái niệm hiện trường Cho đến nay có rất nhiều ý kiến và những quan điểm khác nhau khi đề cập đến vấn đề hiện trường. Chẳn hạn theo Đại Từ điển tiếng Việt thì: "Hiện trường là nơi xảy ra hoạt động hay sự việc gì" [28]. Tuy nhiên, như khái niệm này thì hiện trường lại quá rộng và là hiện trường chung nhất, nó chưa chỉ rõ được tính chất của sự việc và hoạt động xảy ra là sự việc hay hoạt động gì. Còn theo Từ điển bách khoa Công an nhân dân thì : “Hiện trường là nơi diễn ra sự việc hay hoạt động thực tế” [10]. Với khái niệm này, chúng ta không xác định được đâu là hiện trường chủ đạo, đâu là hiện trường chính để tiến hành khám nghiệm thu thập dấu vết vật chứng, sự việc khi "diễn ra" là một chuỗi các hành vi khác nhau, kéo dài trong những khoảng thời gian khác nhau và tồn tại trong những không gian cũng khác nhau và khái niệm này cũng rơi vào trạng thái: những sự việc mang tính bất kỳ và những hoạt động thực tế mang tính bất kỳ. Khái niệm này chưa chỉ ra được sự việc cụ thể. Theo quy định tại khoản 1 Điều 150 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 và được quy định lại tại Điều 201 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định : " Điều tra viên chủ trì tiến hành khám nghiệm nơi xảy ra, nơi phát hiện tội phạm để phát hiện dấu vết của tội phạm, thu giữ vật chứng, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử khác liên quan và làm sáng tỏ những tình tiết có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án "[8]. 7
  13. Như vậy, theo quy định của khoản 1 Điều 201 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì hiện trường phải là "nơi xảy ra" hoặc "nơi phát hiện tội phạm". Trước hết, hiện trường phải là "nơi" tức là nó phải được tồn tại trong một khoảng không gian và thời gian nhất định, nơi đó đã xảy ra hoạt động phạm tội hoặc nơi đó đã phát hiện ra tội phạm. Chính vì thế hiện trường phải tồn tại những dấu vết, vật chứng và chúng phản ánh sự tác động qua lại giữa thủ phạm với nạn nhân và môi trường vật chất xung quanh. Nhưng việc phân tích nội dung của quy định về hiện trường của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cho thấy có tính chủ quan của nhà làm luật, vì cho rằng: hiện trường phải là nơi xảy ra tội phạm, nơi phát hiện tội phạm mà Điều tra viên tiến hành khám nghiệm, tức là phải thỏa mãn những quy định về tội phạm trong Bộ luật hình sự. Nhưng trên thực tế, hoạt động điều tra khám phá các vụ án hình sự, là quá trình đi từ không đến có, phải xác định một vụ việc xảy ra có sự kiện phạm tội hay không, tức là phải xác định có vụ phạm tội xảy ra hay không. Chính vì vậy, khi có sự việc hình sự xảy ra Cơ quan điều tra phải tiến hành khám nghiệm ngay, sau đó mới kết luận có hay không có sự việc phạm tội để đi đến kết luận có hay không khởi tố vụ án hình sự. Do đó, khoản 1 Điều 201 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định như trên là cứng nhắc, chưa chặt chẽ, bởi vì Điều tra viên muốn tiến hành khám nghiệm được phải xác định: nơi xảy ra tội phạm, nơi phát hiện tội phạm, trong khi đó phần lớn muốn xác định được vấn đề này thì phải tiến hành khám nghiệm hiện trường trước mới kết luận được. Vì vậy, khái niệm về hiện trường trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quá bó hẹp và không mang tính khái quát cao. Chẳn hạn : Những vụ hiện trường có người chết, phải qua quá trình khám nghiệm, thu thập những thông tin, tìm kiếm các dấu vết, vật chứng xung quanh hiện trường từ đó mới có thể đi đến nhận định ban đầu nguyên nhân cái chết của nạn nhân là do án mạng, do tự sát, do bệnh lý hay 8
  14. do tai nạn rủi ro và chỉ xác định nguyên nhân chết là do án mạng mới là căn cứ xác định có dấu hiệu của tội phạm để tiến hành khởi tố vụ án hình sự. Chính vì vậy, Hiện trường cần được hiểu là nơi xảy ra,nơi phát hiện vụ việc có dấu hiệu của tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự. Đây là khái niệm mang tính khái quát cao và đầy đủ. Bởi vì, khái niệm này đã thỏa mãn được những dấu hiệu đặc trưng, cơ bản của hiện trường là: Thứ nhất, hiện trường phải tồn tại ở một địa điểm cụ thể trong khoảng không gian và thời gian xác định. Đây là thuộc tính tất yếu của hiện trường. Thứ hai, phải có sự việc có dấu hiệu của tội phạm xảy ra, những dấu hiệu của tội phạm này có thể bao gồm: những hành vi phạm tội cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự; cũng có thể là những vụ việc mang tính hình sự xảy ra, khi xảy ra nó đã xâm hại đến những khách thể được luật hình sự bảo vệ, như: tính mạng, sức khỏe, tài sản song chưa thể xác định được các yếu tố của cấu thành tội phạm. 1.1.2. Khái niệm kiểm sát điều tra tại hiện trường Qua thực tiễn nghiên cứu cũng như từ thực tế thực hiện nhiệm vụ của người cán bộ kiểm sát, Tác giả luận văn này nhận thấy chức năng nhiệm vụ của Ngành kiểm sát đã được Hiến định, cụ thể là tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp ” [13]. Tại Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát 2014 nhà làm luật cũng quy định rõ: chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân là : “Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự” [24]. 9
  15. Và tại Điều 4 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân hiện hành còn quy định : chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân “ Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật ” [24]. Phân tích các quy định cụ thể đã được viện dẫn nói trên ta có thể thấy hai chức năng đó của Viện kiểm sát luôn đan xen hổ trợ nhau và khi hai chức năng của Viện kiểm sát được Hiến định như đã trình bày ở trên thì các khâu công tác của Ngành kiểm sát cũng được cụ thể hóa hơn. Tại Điều 6 Luật tổ chức Viện kiểm sát năm 2014 cũng đã quy định về: Các công tác của Viện kiểm sát nhân dân và theo đó thì Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng thực hành quyền công tố bằng các công tác như : Thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; Thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự .và Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp bằng các công tác: Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; Kiểm sát việc khởi tố, điều tra vụ án hình sự . Vậy kiểm sát điều tra tại hiện trường là gì? Như chúng ta đã biết để kiểm sát việc khởi tố, điều tra vụ án hình sự, Viện kiểm sát thực hiện nhiều hoạt động khác nhau như kiểm sát hồ sơ đề nghị phê chuẩn khởi tố bị can, phê chuẩn lệnh bắt tạm giữ, tạm giam, kiểm sát hồ sơ khởi tố vụ án hình sự .v.v Như vậy, kiểm sát điều tra tại hiện trường cũng là một hoạt động tố tụng của 10
  16. Viện kiểm sát nhằm thực hiện chức năng Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra vụ án hình sự. Tuy nhiên, cho đến nay từng hoạt động cụ thể nhằm thực hiện các chức năng của Viện kiểm sát chưa được các nhà khoa học cũng như những người thực hiện nhiệm vụ trong Ngành kiểm sát quan tâm nghiên cứu đúng mức. Bởi vậy. cho đến nay chưa có khái niệm kiểm sát điều tra tại hiện trường được nêu ra trong sách báo pháp lý. Cũng bởi vậy, qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn thực hiện nhiệm vụ được Ngành giao phó, tác giả Luận văn mạnh dạn đưa ra khái niệm về Kiểm sát điều tra tại hiện trường như sau : Kiểm sát điều tra tại hiện trường là hoạt đông thực hiện chức năng của Viện kiểm sát bảo đảm cho hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra và một số chủ thể khác được tiến hành một số hoạt động điều tra do pháp luật quy định tại hiện trường có dấu hiệu của tội phạm đúng theo quy định của pháp luật, khách quan toàn diện và đầy đủ, giúp cho việc làm sáng tỏ các tình tiết đối với vụ án. Đặc điểm của kiểm sát điều tra tại hiện trường Khi bàn đến đặc điểm của kiểm sát điều tra tại hiện trường cần đề cập đến điểm khác biệt giữa kiểm sát điều tra tại cơ quan điều tra với kiểm sát điều tra tại hiện trường. Nói cụ thể hơn cần đề cập đến đối tượng và phạm vi của hoạt động kiểm sát điều tra tại hiện trường. Vậy đối tượng và phạm vi của kiểm sát điều tra tại hiện trường là gì? . - Trên hết cần nhấn mạnh rằng đối tượng của kiểm sát điều tra tại hiện trường là hoạt động chấp hành pháp luật của những người có liên quan đến công tác điều tra tại hiện trường (Điều tra viên; giám định viên; kỹ thuật viên; bác sĩ pháp y và những người khác như: người làm chứng; người chứng kiến; người bị hại; bị can) và các thành viên trong đoàn khám nghiệm. Mục đích của kiểm sát điều tra tại hiện trường là nhằm bảo đảm những hoạt động 11
  17. của những chủ thể trên đúng pháp luật, khách quan, toàn diện, chính xác, đạt hiệu quả cao. - Tiếp đến, nói đến phạm vi kiểm sát điều tra tại hiện trường là nói đến khoản không gian với những địa điểm cụ thể và là nói đến thời gian là thời điểm bắt đầu và kết thúc của một hoạt động kiểm sát, giữa đối tượng và phạm vi luôn có mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau, khi nào đối tượng của hoạt động kiểm sát xuất hiện thì phạm vi của hoạt động kiểm sát đó bắt đầu, khi nào đối tượng của hoạt động kiểm sát không còn thì phạm vi của hoạt động kiểm sát đó cũng kết thúc. Như vậy, trong mối quan hệ này thì đối tượng luôn quyết định đến phạm vi của công tác. Công tác điều tra và khám nghiệm hiện trường bắt đầu từ khi Cơ quan điều tra thành lập Hội đồng khám nghiệm và phân công Điều tra viên tiến hành khám nghiệm. Điều tra viên được phân công khám nghiệm hiện trường có trách nhiệm phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết về việc khám nghiệm hiện trường để Viện kiểm sát cử Kiểm sát viên tham gia. Khi đến hiện trường, Kiểm sát viên có trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình khám nghiệm cho đến khi kết thúc việc khám nghiệm hiện trường và hoàn thành hồ sơ công tác khám nghiệm hiện trường. Cho nên hoạt động kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường được tiến hành từ khi có thông báo của Cơ quan điều tra và Kiểm sát viên có mặt tại hiện trường cho đến khi kết thúc việc khám nghiệm hiện trường và hoàn thành hồ sơ công tác khám nghiệm hiện trường cũng như các hoạt động khác tại hiện trường. Việc kiểm sát được tiến hành không chỉ ngay tại hiện trường và cũng không chỉ gói gọn trong hoạt động khám nghiệm nơi có dấu vết của tội phạm, mà nó còn kiểm sát tất cả những hoạt động tố tụng khác xuất phát từ công tác khám nghiệm hiện trường nhằm thu thập đầy đủ dấu vết, vật chứng, thông tin về hiện trường như: vấn đề người chứng kiến, việc khám nghiệm tử thi, vấn đề hồ sơ khám nghiệm hiện trường, 12
  18. việc khám xét, thu giữ vật chứng, trưng cầu giám định, lấy lời khai Nội dung kiểm sát điều tra tại hiện trường Trong khi thực hiện hoạt động kiểm sát điều tra tại hiện trường Viện kiểm sát nói chung và Kiểm sát viên được phân công nói riêng có rất nhiều nội dung từ hoạt động gắn với nhiệm vụ cần thực hiện. Tuy nhiên cần lưu ý một số nội dung cơ bản như sau: - Kiểm sát việc bảo vệ hiện trường Ngay sau khi nhận được thông báo của Cơ quan điều tra về việc khám nghiệm hiện trường, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân được phân công kiểm sát hoạt động khám nghiệm hiện trường phải yêu cầu Cơ quan điều tra thực hiện ngay các biện pháp cần thiết để bảo vệ hiện trường, như phải kịp thời bao quát toàn bộ hiện trường, không để người không có trách nhiệm ra vào hiện trường, không ai, không người nào được phép tự ý mang bất kỳ vật gì ở hiện trường đi nơi khác hoặc di chuyển vị trí các đồ vật tại hiện trường, không được tiết lộ các tin tức, tài liệu về hiện trường; xác định ngay các nhân chứng của vụ án, chú ý các dấu vết nguồn hơi để sử dụng chó nghiệp vụ để truy nóng tìm thủ phạm gây án. Tuy vậy, trên thực tiễn công tác cho thấy, việc bảo vệ hiện trường chưa thật sự được Cơ quan cảnh sát điều tra chú trọng. - Kiểm sát việc thành lập tổ chức thành phần một cuộc khám nghiệm Thông thường lực lượng điều tra tại hiện trường bao gồm: các Điều tra viên; Kiểm sát viên; người chứng kiến; các nhà chuyên môn (tùy thuộc vào sự việc xảy ra tại hiện trường mà mời các nhà chuyên môn cho đúng chức năng của họ, ví dụ: hiện trường vụ việc có tử thi thì phải mời bác sĩ pháp y; hiện trường cháy nổ thì phải mời chuyên gia giám định về chất nổ ), để làm tốt hoạt động này Kiểm sát viên phải nhanh chóng xác định tính chất vụ việc nơi xảy ra để lưu ý Điều tra viên trong việc mời người chứng kiến, mời các nhà chuyên môn cần thiết tham dự vào việc khám nghiệm. Trong trường hợp vụ 13
  19. án hình sự đã khởi tố và hoạt động khám nghiệm hiện trường tiến hành khi đã khởi tố bị can, thì Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân khi tham gia kiểm sát khám nghiệm hiện trường phải nhanh chóng quyết định việc có thể cho bị can, người bị hại hoặc người làm chứng của vụ án tham dự vào hoạt động khám nghiệm hay không (kể cả trường hợp họ yêu cầu hoặc không yêu cầu để tránh sự phức tạp, khiếu kiện dài ngày sau đó). Thực trạng hoạt động này cho thấy, Kiểm sát viên khi được phân công kiểm sát điều tra tại hiện trường chỉ chú trọng hoạt động kiểm sát những công việc tiến hành khám nghiệm tại hiện trường, vấn đề thành phần Hội đồng khám nghiệm, công tác chuẩn bị tiến hành khám nghiệm không được Kiểm sát viên chú ý. Nhiều vụ, việc xảy ra Hội đồng khám nghiệm không đúng thành phần, không đúng chức danh, Kiểm sát viên không phát hiện được nên kết thúc khám nghiệm vẫn ký nhận vào biên bản khám nghiệm. Sau này phát hiện không thể khắc phục được nữa. - Kiểm sát, kiểm tra để bảo đảm các phương tiện kỹ thuật phục vụ cho hoạt động điều tra cũng như khám nghiệm hiện trường được chuẩn bị đầy đủ, phù hợp với hiện trường vụ, việc xảy ra Đảm bảo những phương tiện kỹ thuật được chuẩn bị đầy đủ: như các va ly dự thẩm; máy chụp ảnh; máy soi; máy ghi âm, ghi hình các phương tiện nhằm phát hiện dấu vết vật chứng, các phương tiện nhằm thu thập dấu vết vật chứng, đặc biệt trong những trường hợp việc khám nghiệm hiện trường phải tiến hành ở nơi xa xôi, hẻo lánh, đêm tối hoặc phải tiến hành khám nghiệm dài ngày thì công việc chuẩn bị này phải chu đáo và đầy đủ tránh thiếu phương tiện, công cụ khám nghiệm mà phải dãn cách cuộc khám nghiệm, bởi lẽ hoạt động này vừa đòi hỏi phải nhanh chóng khẩn trương, vừa đòi hỏi tính chính xác cao. - Kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường Đây có thể được xem là hoạt động mang tính trung tâm của việc điều tra tại hiện trường, vì khi xác định có vụ, việc có dấu hiệu tội phạm xảy ra cần phải 14
  20. khám nghiệm hiện trường thì Cơ quan điều tra phân công Điều tra viên để tiến hành khám nghiệm, Điều tra viên phải thực hiện các nội dung theo quy định của pháp luật về khám nghiệm hiện trường. Cụ thể như : Quan sát hiện trường, đề ra phương pháp khám nghiệm để đạt kết quả cao nhất, việc đo đạc, chụp ảnh, xác định dấu vết, thu lượm tang vật, vật chứng phải từ công tác khám nghiệm hiện trường này, Điều tra viên có thể sẻ thực hiện các công tác điều tra khác như khám nghiệm tử thi, khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản, vật chứng, lấy lời khai.v.v và Kiểm sát viên được phân công kiểm sát điều tra tại hiện trường phải kiểm sát được toàn bộ các hoạt động của Điều tra viên cũng như của các chủ thể khác tại hiện trường. - Kiểm sát việc khám nghiệm tử thi Kiểm sát việc khám nghiệm tử thi là nhiệm vụ, quyền hạn và đồng thời là nội dung hoạt động nghiệp vụ của Ngành kiểm sát. Kiểm sát viên phải có mặt tiến hành hoạt động kiểm sát khám nghiệm tử thi để đảm bảo hoạt động này diễn ra đúng theo quy định của pháp luật. Công tác kiểm sát việc khám nghiệm tử thi được tiến hành trên cơ sở quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Quy chế của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự Kiểm sát viên phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của Cơ quan điều tra, Cơ quan giám định pháp y hình sự, Điều tra viên và Bác sỹ pháp y trong hoạt động khám nghiệm tử thi để kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động này, nhằm đảm bảo cho việc khám nghiệm, giải phẫu tử thi được tiến hành đúng theo quy định của pháp luật. - Kiểm sát chặt chẽ việc khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản, vật chứng Khi thực hiện kiểm sát hoạt động này, Kiểm sát viên phải yêu cầu Cơ 15
  21. quan điều tra chấp hành nghiêm chỉnh các quy định tại các Điều 192 đến Điều 199 chương XIII Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và hướng dẫn của Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính về việc bảo quản và giao nhận vật chứng và tài sản tạm giữ. Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình tiến hành kiểm sát điều tra tại hiện trường phải kiểm sát chặt chẽ, xem xét những hoạt động nào chưa tiến hành hoặc thực hiện không đúng theo quy định của pháp luật phải yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành ngay hoặc phải làm lại, sửa chữa những sai phạm kịp thời. Đối với những vật chứng bị tạm giữ, thu giữ Cơ quan điều tra phải tiến hành lập biên bản xác định trạng thái ban đầu của những dấu vết, vật chứng này. Do vậy, Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ việc lập biên bản của Điều tra viên, của Cơ quan điều tra xem có đúng không, có tỷ mỷ và chi tiết không, có cụ thể không, nếu thấy ghi chung chung yêu cầu họ ghi cho cụ thể và tỷ mỷ để tránh tình trạng khiếu kiện sau này. Trên thực tế, hoạt động này thường tiến hành rất qua loa, đại khái, không đầy đủ đúng theo quy định của pháp luật; việc thu giữ không lập biên bản, sau này những vật đó không có giá trị chứng minh, hơn nữa nếu sau này chứng minh không liên quan đến tội phạm phải trả lại cho chủ sở hữu, nhưng do để lâu, khâu bảo quản không tốt, dẫn đến mất, hư hỏng, chủ sở hữu không nhận đó là tài sản của mình. - Kiểm sát việc lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại Khi điều tra tại hiện trường, trước khi tiến hành khám nghiệm hiện trường vụ việc xảy ra, hoặc sau khi tiến hành khám nghiệm Cơ quan điều tra cần tiến hành lấy lời khai ngay của những người biết vụ việc, như người làm chứng hoặc người bị hại. Kiểm sát viên phải chủ động yêu cầu Điều tra viên, Cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai ngay của những người này. Việc lấy lời khai phải bảo đảm tính đầy đủ không được bỏ qua bất kỳ một nhân chứng quan trọng nào mà biết rằng họ nghe thấy, họ nhìn thấy hành vi phạm tội. Cơ quan điều 16